Add parallel Print Page Options

A-xy-ri tấn công Giu-đa

32 Sau khi vua Ê-xê-chia thực hiện các công tác trên để phục vụ CHÚA thì Xê-na-chê-ríp, vua A-xy-ri kéo đến đánh Giu-đa. Ông và đạo quân mình vây và tấn công các thành có vách kiên cố, định chiếm lấy các thành đó cho mình. Vua Ê-xê-chia biết Xê-na-chê-ríp đã kéo đến định tấn công Giê-ru-sa-lem. Vì thế vua Ê-xê-chia, các viên chức và các viên chỉ huy quân đội quyết định cắt đứt đường dẫn nước từ các suối bên ngoài thành phố. Các viên chức và sĩ quan chỉ huy giúp đỡ vua Ê-xê-chia. Nhiều người đến cắt đứt tất cả các suối và nguồn nước chảy qua xứ. Họ bảo, “Khi vua A-xy-ri đến đây sẽ không tìm được chút nước nào.” Sau đó Ê-xê-chia tăng cường thành Giê-ru-sa-lem. Vua xây lại các lỗ thủng trong vách và đặt tháp canh lên trên. Vua cũng xây một vách nữa bên ngoài vách đầu tiên và xây Mi-lô trong thành Đa-vít. Vua cũng làm nhiều vũ khí và thuẫn. Vua Ê-xê-chia đặt các sĩ quan chỉ huy trên dân chúng và gặp họ nơi khu trống gần cửa thành. Ê-xê-chia giục giã họ rằng, “Hãy mạnh dạn và can đảm lên. Đừng sợ hay lo âu về vua A-xy-ri hay lực lượng đông đảo của vua ấy. Đấng ở với chúng ta mạnh hơn lực lượng của chúng nó. Vua đó chỉ có đông người thôi, còn chúng ta có CHÚA là Thượng Đế giúp chúng ta đánh trận.” Dân chúng trở nên can đảm qua lời giục giã của Ê-xê-chia, vua Giu-đa.

Trong khi vua Xê-na-chê-ríp của A-xy-ri và các sĩ quan của ông ở La-kích thì ông sai các đầy tớ đến Giê-ru-sa-lem nhắn như sau cho vua Ê-xê-chia của Giu-đa và toàn dân Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem: 10 Xê-na-chê-ríp, vua A-xy-ri nói như sau: “Các ngươi chẳng có gì để nhờ cậy được đâu. Các ngươi ở trong Giê-ru-sa-lem khi thành đó bị tấn công thì có ích gì. 11 Ê-xê-chia nói cùng các ngươi, ‘CHÚA là Thượng Đế chúng ta sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua A-xy-ri,’ nhưng ông ta gạt các ngươi đó. Nếu các ngươi còn ở trong Giê-ru-sa-lem các ngươi sẽ chết vì đói và khát. 12 Chính Ê-xê-chia đã tháo gỡ các nơi thờ phụng và bàn thờ của CHÚA các ngươi. Ông ta bảo rằng các ngươi là dân cư Giu-đa và Giê-ru-sa-lem chỉ được thờ phụng và đốt hương trên một bàn thờ mà thôi. 13 Các ngươi biết điều tổ tiên ta và ta đã làm cho tất cả các dân tộc khác. Thần của các dân đó đâu có giúp họ thoát khỏi quyền lực của ta. 14 Tổ tiên ta đã tiêu diệt các dân tộc đó, không có thần nào của họ có thể cứu họ khỏi tay ta cả. Cho nên thần của các ngươi cũng sẽ không thể nào giải cứu các ngươi khỏi quyền lực của ta đâu. 15 Đừng để Ê-xê-chia phỉnh gạt các ngươi. Đừng tin người. Không có thần của dân hay nước nào đã giải cứu họ khỏi tay ta hay tổ tiên ta cả. Thần các ngươi lại càng không thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta được đâu.”

16 Các sĩ quan của Xê-na-chê-ríp còn buông lời thậm tệ hơn nữa để bêu xấu CHÚA là Thượng Đế cùng tôi tớ Ngài là Ê-xê-chia. 17 Vua Xê-na-chê-ríp cũng viết nhiều thư sỉ nhục CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en. Các thư đó viết nghịch Ngài như sau, “Thần của các dân khác đâu có giải thoát họ khỏi tay ta. Vì thế thần của Ê-xê-chia cũng không làm sao giải thoát các ngươi khỏi tay ta được.” 18 Rồi các sĩ quan của vua kêu lớn lên bằng tiếng Hê-bơ-rơ cho dân Giê-ru-sa-lem ở trên vách thành nghe. Họ muốn làm cho dân chúng hoảng sợ để chiếm thành Giê-ru-sa-lem. 19 Họ nói đến Thượng Đế của Giê-ru-sa-lem như thể Ngài giống như thần của các dân trên thế gian thờ phụng, do tay loài người làm ra.

20 Vua Ê-xê-chia và nhà tiên tri Ê-sai, con của A-mốt đã cầu nguyện với trời về điều nầy. 21 Sau đó CHÚA sai một thiên sứ xuống giết tất cả các binh sĩ, cấp lãnh đạo, và sĩ quan trong doanh trại của vua A-xy-ri. Cho nên vua nhục nhã trở về xứ mình. Khi ông vào đền thờ của thần mình để bái lạy thì mấy đứa con ông dùng gươm giết ông chết. 22 Vậy CHÚA giải cứu Ê-xê-chia và dân cư Giê-ru-sa-lem khỏi tay Xê-na-chê-ríp, vua A-xy-ri, và khỏi các dân khác. CHÚA chăm sóc họ đủ mọi mặt. 23 Rất nhiều người mang lễ vật đến cho CHÚA ở Giê-ru-sa-lem và họ cũng mang nhiều lễ vật quí giá biếu Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Từ đó về sau tất cả các dân tộc đều kính nể vua Ê-xê-chia.

Ê-xê-chia qua đời

24 Lúc đó vua Ê-xê-chia lâm bệnh nặng gần chết. Vua cầu nguyện cùng CHÚA thì Ngài phán cùng vua và cho vua một dấu hiệu. [a] 25 Nhưng vua Ê-xê-chia không cảm tạ Thượng Đế về lòng nhân từ Ngài vì vua quá tự phụ. CHÚA nổi giận với vua cùng dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 26 Nhưng sau đó vua Ê-xê-chia và toàn dân Giê-ru-sa-lem hối hận, không tự phụ nữa cho nên CHÚA không trừng phạt họ trong khi vua Ê-xê-chia còn sống.

27 Vua Ê-xê-chia có nhiều của cải và danh tiếng. Vua lập nhiều kho chứa bạc, vàng, đá quí, hương liệu, thuẫn, và các vật quí khác. 28 Vua cũng xây các kho chứa ngũ cốc, rượu mới, dầu, và chuồng cho gia súc và ràn cho chiên. 29 Vua cũng xây nhiều thị trấn. Ông có rất nhiều chiên và bò vì Thượng Đế ban cho ông nhiều của cải. 30 Vua Ê-xê-chia là người chận hồ trên của suối Ghi-hôn để cho nước chảy thẳng đến phía Tây của khu cũ trong Giê-ru-sa-lem. Ê-xê-chia thành công trong mọi việc ông làm.

31 Nhưng có lần các nhà lãnh đạo Ba-by-lôn phái các sứ giả đến Ê-xê-chia để hỏi thăm về điềm lạ đã xảy ra trong xứ. [b] Khi họ đến thì Thượng Đế để Ê-xê-chia tự hành động để thử xem những điều có trong lòng ông. [c]

32 Lòng yêu mến Thượng Đế của Ê-xê-chia và các việc khác vua làm đều được chép trong khải tượng của nhà tiên tri Ê-sai, con A-mốt. Khải tượng đó được ghi trong sách các vua Giu-đa và Ít-ra-en. 33 Ê-xê-chia qua đời và được chôn trên một ngọn đồi nơi có mồ mả của con cháu Đa-vít. Tất cả dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem tỏ lòng tôn kính Ê-xê-chia khi vua qua đời. Rồi Ma-na-xe, con trai ông, lên nối ngôi.

Ma-na-xe, vua Giu-đa

33 Ma-na-xe được mười hai tuổi khi lên ngôi vua và trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông làm điều ác trước mặt CHÚA. Ông làm những việc ghê tởm như các dân khác đã làm, tức các dân mà CHÚA đã đuổi ra khỏi xứ trước mặt dân Ít-ra-en. Ê-xê-chia, cha Ma-na-xe đã phá hủy những nơi thờ thần tượng nhưng Ma-na-xe cho xây lại. Ông cũng xây bàn thờ cho các thần Ba-anh, dựng lại các trụ thờ thần A-sê-ra cùng bái lạy các chòm sao [d] trên trời và phục vụ chúng. CHÚA đã phán về đền thờ rằng, “Ta sẽ được thờ phụng tại Giê-ru-sa-lem đời đời,” nhưng Ma-na-xe đã xây các bàn thờ ngay trong đền thờ CHÚA. Ông xây các bàn thờ để bái lạy các ngôi sao trong hai sân của đền thờ CHÚA. Ông thiêu con trai mình làm của lễ trong Thung lũng Bên Hin-nôm. [e] Ông dùng ma thuật, đồng bóng, đoán tương lai bằng cách giải điềm và mộng mị. Vua nghe theo các đồng bóng và thầy bói. [f] Ông làm vô số điều ác, chọc giận CHÚA. Ma-na-xe tạc một tượng chạm và đặt trong đền thờ Thượng Đế. Ngài đã phán cùng Đa-vít và Sô-lô-môn, con ông, về đền thờ rằng, “Ta sẽ được thờ phụng đời đời trong đền thờ nầy tại Giê-ru-sa-lem mà ta đã chọn từ trong các chi tộc Ít-ra-en. Ta sẽ không bao giờ bắt dân Ít-ra-en bỏ xứ mà ta đã cấp cho tổ tiên họ. Nhưng họ phải vâng theo mọi điều ta truyền dặn trong các lời giáo huấn, qui tắc, và mệnh lệnh ta truyền qua Mô-se.”

Nhưng Ma-na-xe dẫn dụ dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem làm điều ác. Họ làm ác hơn tất cả các dân mà CHÚA đã tiêu diệt trước mặt dân Ít-ra-en.

10 CHÚA phán cùng Ma-na-xe và dân sự ông nhưng họ không nghe. 11 Vì vậy CHÚA đưa các chỉ huy quân đội của vua A-xy-ri đến tấn công Giu-đa. Họ bắt Ma-na-xe, treo móc vào ông, cùm tay ông trong xiềng sắt và giải qua Ba-by-lôn.

12 Trong khi Ma-na-xe đang gặp khốn khó ông liền cầu khẩn CHÚA là Thượng Đế của mình giúp đỡ và hạ mình xuống trước mặt Thượng Đế của tổ tiên mình. 13 Khi Ma-na-xe cầu khẩn thì CHÚA nghe và động lòng từ bi đối với ông. Ngài cho ông trở về Giê-ru-sa-lem và phục hồi ngôi vua cho ông. Lúc đó Ma-na-xe nhận biết rằng CHÚA là Thượng Đế thật.

14 Sau đó Ma-na-xe xây lại vách ngoài của thành Giê-ru-sa-lem cho cao hơn. Vách đó nằm trong thung lũng về phía Tây của suối Ghi-hôn và chạy dài đến cửa vào Cổng Cá và bao quanh đồi Ô-phên. [g] Rồi ông đặt các viên chỉ huy trong tất cả các thành có vách kiên cố trong Giu-đa. 15 Ma-na-xe tháo bỏ các thần tượng của các dân khác, luôn cả thần tượng trong đền thờ CHÚA. Ông tháo bỏ các bàn thờ mà ông đã xây trên đồi của đền thờ và trong Giê-ru-sa-lem, ném chúng ra bên ngoài thành phố. 16 Rồi ông lập lại bàn thờ Chúa và dâng sinh tế trên đó gồm của lễ thân hữu và của lễ khác để cảm tạ Thượng Đế. Ma-na-xe truyền cho tất cả dân chúng Giu-đa phải phục vụ CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 17 Dân chúng tiếp tục dâng sinh tế ở những nơi thờ phụng nhưng họ chỉ dâng sinh tế cho CHÚA là Thượng Đế của mình mà thôi.

18 Các việc khác Ma-na-xe làm trong khi trị vì, lời cầu nguyện của ông cùng Thượng Đế, và những điều mà các nhà tiên kiến nói với ông nhân danh CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, đều được ghi trong sách lịch sử của các vua Ít-ra-en. 19 Lời cầu nguyện của Ma-na-xe, lòng từ bi của Thượng Đế đối với ông, tội lỗi ông, sự bất trung của ông và những nơi ông xây để thờ phụng tà thần cùng trụ thờ thần A-sê-ra trước khi ông ăn năn đều được ghi trong sách của các nhà tiên kiến. 20 Ma-na-xe qua đời và được chôn trong cung điện mình. A-môn, con trai ông lên nối ngôi.

A-môn, vua Giu-đa

21 A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi vua và trị vì hai năm tại Giê-ru-sa-lem. 22 Ông làm điều ác trước mặt CHÚA y như Ma-na-xe cha mình đã làm. A-môn thờ phụng và dâng sinh tế cho tất cả các tượng chạm mà Ma-na-xe đã làm. 23 A-môn không hạ mình xuống trước mặt CHÚA như cha mình đã làm. Ngược lại, A-môn còn phạm tội nhiều hơn nữa. 24 Các sĩ quan của vua A-môn lập mưu phản và giết ông ngay trong cung vua. 25 Tuy nhiên dân chúng xử tử tất cả những người đã âm mưu giết vua A-môn. Sau đó họ lập Giô-xia, con trai A-môn lên nối ngôi.

Giô-xia, vua Giu-đa

34 Giô-xia được tám tuổi khi lên ngôi vua và trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông làm điều phải trước mặt CHÚA. Ông sống y như Đa-vít, tổ tiên mình và luôn luôn làm điều thiện. Vào năm thứ tám sau khi lên ngôi, trong khi hãy còn trẻ tuổi, Giô-xia bắt đầu vâng lời Thượng Đế của tổ tiên mình là Đa-vít. Vào năm thứ mười hai sau khi lên ngôi, Giô-xia bắt đầu phá bỏ khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem những tà thần, những nơi thờ thần trên đỉnh đồi, các trụ thờ thần A-sê-ra, các tượng bằng đá và bằng sắt. Dân chúng kéo sập các bàn thờ của thần Ba-anh theo chỉ thị của Giô-xia. Rồi vua Giô-xia phá sập bàn thờ xông hương nằm phía trên các bàn thờ đó. Ông đốn ngã các trụ thờ thần A-sê-ra, và nghiền ra bụi các tượng bằng gỗ và bằng sắt. Sau đó ông rải các bụi ấy trên các mộ của những kẻ đã dâng sinh tế cho các thần ấy. Ông đốt xương các thầy tế lễ của chúng trên những bàn thờ đó. Vậy Giô-xia diệt trừ hết việc thờ tà thần khỏi Giu-đa, Giê-ru-sa-lem, và khỏi các thị trấn trong vùng Ma-na-xe, Ép-ra-im, Xi-mê-ôn suốt cho đến Nép-ta-li, và các khu vực đổ nát gần các thị trấn ấy. [h] Giô-xia phá sập các bàn thờ, nghiền các trụ thờ thần A-sê-ra ra bụi. Sau khi đập phá các bàn thờ xông hương trong cả Ít-ra-en thì vua trở về Giê-ru-sa-lem.

Vào năm thứ mười tám triều đại mình, vua làm cho Giu-đa và đền thờ tinh sạch trở lại. Vua sai Sa-phan, con A-xa-lia, Ma-a-sê-gia, thị trưởng thành phố, và Giô-a con Giô-ách, viên lục sự lo việc sửa chữa đền thờ CHÚA, Thượng Đế của Giô-xia.

Họ đến cùng Hinh-kia, thầy tế lễ tối cao trao cho ông số tiền mà những người Lê-vi giữ cửa đã thu được từ dân cư Ma-na-xe, Ép-ra-im, và tất cả dân Ít-ra-en còn sống sót, cùng toàn dân Giu-đa, Bên-gia-min và Giê-ru-sa-lem. Đó là số tiền mà họ đã mang vào đền thờ của Thượng Đế. 10 Rồi người Lê-vi trao tiền đó cho các giám thị lo việc sửa chữa đền thờ CHÚA để họ trả công cho thợ tái thiết và sửa chữa đền thờ. 11 Họ giao tiền cho thợ mộc và thợ xây cất để mua đá đẽo và gỗ. Gỗ thì dùng để xây lại các tòa nhà, bắc các đà ngang vì các vua Giu-đa đã để cho các tòa nhà bị đổ nát. 12 Các thợ thực hiện công tác rất tốt đẹp. Các giám thị họ là Gia-hát và Áp-đia là những người Lê-vi từ họ hàng Mê-ra-ri, và Xa-cha-ri cùng Mê-su-lam, thuộc họ hàng Cô-hát. Các người Lê-vi đó đều là các nhạc sĩ có tài. 13 Họ cũng giám sát các thợ khuân vác và các thợ khác. Một số người Lê-vi làm thư ký, sĩ quan, và giữ cửa.

Tìm được Sách Giáo Huấn

14 Các người Lê-vi lấy tiền ra từ đền thờ CHÚA. Đang khi họ kiểm điểm thì Hinh-kia, thầy tế lễ tối cao tìm ra được Sách ghi những lời Giáo Huấn của Chúa đã được trao cho Mô-se. 15 Hinh-kia nói với Sa-phan, thư ký hoàng gia rằng, “Tôi đã tìm được Sách Giáo Huấn trong đền thờ CHÚA!” [i] Rồi ông trao sách ấy cho Sa-phan.

16 Sa-phan mang sách đến trình cho vua và báo cáo cùng Giô-xia, “Các viên chức vua đã thi hành mọi điều vua dặn bảo. 17 Họ đã trả tiền thu được trong đền thờ CHÚA cho các đốc công và thợ thuyền.” 18 Rồi Sa-phan, thư ký hoàng gia thưa với vua, “Thầy tế lễ Hinh-kia có trao cho tôi một quyển sách.” Rồi Sa-phan đọc sách đó cho vua nghe. 19 Khi vua vừa nghe những lời trong sách Giáo Huấn liền xé quần áo [j] mình tỏ dấu đau buồn cùng cực. 20 Vua ra lệnh cho Hinh-kia, A-hi-cam, con Sa-phan, Ạc-bo [k], con Mi-ca-gia, Sa-phan, thư ký hoàng gia, và A-xai-gia, tôi tớ vua. Lệnh vua như sau: 21 “Hãy đi cầu hỏi CHÚA về những lời trong sách mới tìm được. Hãy hỏi thăm cho ta và toàn thể dân còn sống sót trong Ít-ra-en và Giu-đa. CHÚA đã nổi giận với chúng ta vì tổ tiên chúng ta không vâng theo lời Ngài, không làm theo những điều ghi trong sách nầy.”

22 Vậy Hinh-kia và những người được vua sai đến nói chuyện với nữ tiên tri Hun-đa. Bà là vợ của Sa-lum, con Tiếc-va, cháu Hạc-ha [l], người lo các y phục cho vua. Hun-đa cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem, thuộc khu mới của thành phố. 23 Bà bảo họ, “CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en phán như sau: Hãy nói cùng với người đã sai các ngươi đến cùng ta rằng, 24 CHÚA phán: Ta sẽ mang khốn khổ đến chỗ nầy và những người sống tại đây. Ta sẽ giáng những điều nguyền rủa đã được chép trong sách mà vua Giu-đa đã nghe đọc. 25 Dân Giu-đa đã lìa bỏ ta và đốt hương cho các thần khác. Họ đã chọc giận ta bằng những điều ác họ làm. Cho nên ta sẽ nổi thịnh nộ mà trừng phạt họ, cơn thịnh nộ không nguôi.

26 Hãy bảo vua Giu-đa là người đã sai các ngươi đến cầu hỏi CHÚA như sau, ‘CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en phán như sau về những lời các ngươi đã nghe: 27 Khi người nghe lời ta nghịch cùng nơi nầy và dân cư nó thì ngươi hối hận về những điều mình làm và hạ mình xuống trước mặt ta. Ngươi xé quần áo tỏ dấu đau buồn và khóc lóc trước mặt ta. Vì vậy mà ta đã nghe ngươi, CHÚA phán vậy. 28 Vì thế ta sẽ cho ngươi qua đời [m] và được chôn cất bình yên. Ngươi sẽ không thấy những khốn khổ ta sẽ giáng cho nơi nầy và dân cư sống tại đây.’” Vậy họ mang những lời ấy trình lại cho vua.

29 Vua liền tập họp các bô lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem lại. 30 Vua đi lên đền thờ CHÚA cùng với tất cả dân chúng từ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Các thầy tế lễ, người Lê-vi cùng toàn thể dân chúng, từ sang đến hèn đều đi lên với vua. Vua đọc cho họ nghe những lời trong Sách Giao Ước tìm được trong đền thờ CHÚA. 31 Vua đứng cạnh cây cột và lập giao ước với CHÚA, cam kết hết lòng vâng theo mệnh lệnh, qui tắc, và luật lệ của Ngài và làm theo những lời của giao ước đã ghi trong sách. 32 Rồi vua buộc dân chúng ở Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min hứa tuân giữ giao ước ấy. Vậy toàn dân Giê-ru-sa-lem vâng theo giao ước với Thượng Đế, tức Thượng Đế của tổ tiên mình. 33 Sau đó Giô-xia ném hết các thần tượng đáng gớm ghiếc trong xứ mà dân Ít-ra-en đã giữ. Ông hướng dẫn dân Ít-ra-en trở lại phục vụ CHÚA là Thượng Đế mình. Suốt đời Giô-xia, dân chúng vâng phục CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình.

Footnotes

  1. II Sử Ký 32:24 Ngài phán cùng … một dấu hiệu Xem Ê-sai 38:1-8 về câu chuyện Ê-xê-chia được CHÚA cho sống lâu thêm 15 năm nữa.
  2. II Sử Ký 32:31 điềm lạ đã xảy ra trong xứ Xem Ê-sai 38:1-8.
  3. II Sử Ký 32:31 điều có trong lòng ông Xem II Vua 20:12-19.
  4. II Sử Ký 33:3 chòm sao Hay “nhóm sao.” Đây có thể là tên 12 ngôi sao của cung hoàng đạo dùng trong chiêm tinh. Một vài người tin rằng các ngôi sao điều khiển đời sống họ chứ không phải Thượng Đế.
  5. II Sử Ký 33:6 Thung lũng Bên Hin-nôm Thung lũng nầy về sau có tên “Ghê-hê-na.” Thung lũng nầy nằm về phía Tây-Nam Giê-ru-sa-lem nơi nhiều hài nhi và trẻ thơ bị hoả thiêu dâng lên cho các thần giả.
  6. II Sử Ký 33:6 đồng bóng và thầy bói Tức là những lối tin dị đoan để đoán tương lai.
  7. II Sử Ký 33:14 đồi Ô-phên Vùng phía trên của thành Đa-vít, gần phía Nam của đền thờ.
  8. II Sử Ký 34:6 các khu vực … thị trấn ấy Bản Hê-bơ-rơ chỗ nầy hơi khó hiểu.
  9. II Sử Ký 34:15 đền thờ CHÚA Tức đền thờ tại Giê-ru-sa-lem.
  10. II Sử Ký 34:19 xé quần áo Một dấu hiệu tỏ sự bực tức hay đau buồn. Giô-xia đau buồn vì dân chúng đã không tuân theo lời dạy dỗ của Chúa trong sách Giáo Huấn hay Sách Luật. Xem thêm câu 27.
  11. II Sử Ký 34:20 Ạc-bo Hay “Áp-đôn.”
  12. II Sử Ký 34:22 Hạc-ha Hay “Tô-cát, con của Hát-ra.”
  13. II Sử Ký 34:28 ta sẽ cho ngươi qua đời Nguyên văn, “ta sẽ cho ngươi về với tổ tiên.”

Sên-na-chê-ríp Xâm Lăng

32 Sau các việc ấy, tức các việc làm trung tín của Ê-xê-chia, Sên-na-chê-ríp kéo quân đến xâm lăng Giu-đa. Hắn chia quân bao vây các thành kiên cố, vì nghĩ rằng hắn sẽ chiếm được các thành ấy. Khi Ê-xê-chia thấy Sên-na-chê-ríp đã kéo quân đến và biết rõ chủ tâm của hắn muốn tấn công Giê-ru-sa-lem, ông bàn với các triều thần và các vị chỉ huy quân đội của ông, và quyết định ngăn chặn các nguồn nước ở bên ngoài thành lại, và họ giúp ông thực hiện được điều đó. Vậy họ huy động nhiều người đến hiệp nhau ngăn chặn các nguồn nước và các khe suối chảy qua vùng đất ấy. Họ bảo, “Tại sao để cho các vua A-sy-ri đến đây và thấy có nhiều nước chứ?” Ðồng thời ông nỗ lực xây lại những chỗ đổ vỡ của tường thành và xây các pháo tháp trên tường thành. Ông xây thêm một bức tường thành bên ngoài bức tường thành đã có sẵn và làm cho thành kiên cố bằng cách xây dựng các chiến hào cho khu vực Thành Ða-vít. Ngoài ra ông cho chế tạo nhiều vũ khí và các khiên. Ông đặt các sĩ quan chỉ huy quân dân để chiến đấu, rồi tập họp họ đến trước mặt ông nơi quảng trường ở cổng thành. Ông khích lệ họ và nói, “Hãy mạnh mẽ và can đảm lên. Chớ sợ hãi và đừng kinh hoảng trước mặt vua A-sy-ri và trước mặt đạo quân đông đảo của hắn, vì Ðấng ở với chúng ta mạnh hơn hắn. Ở với hắn chỉ là một đạo quân người phàm xác thịt, còn ở với chúng ta là Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, Ðấng giúp đỡ chúng ta và đánh giặc với chúng ta.” Quân dân được vững lòng nhờ những lời khích lệ của Ê-xê-chia vua Giu-đa.

Sau đó Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri kéo toàn thể đại quân của hắn đến bao vây La-kích. Từ đó hắn sai các sứ giả của hắn đến Giê-ru-sa-lem và nói với Ê-xê-chia vua Giu-đa và dân Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem rằng, 10 “Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri phán thế nầy: Các ngươi tin cậy vào ai mà cứ ở trong Giê-ru-sa-lem để bị bao vây như vậy? 11 Há chẳng phải Ê-xê-chia đã thuyết phục các ngươi rằng, ‘Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua A-sy-ri’ để các ngươi phải chết đói và chết khát sao? 12 Há chẳng phải Ê-xê-chia nầy là người đã dẹp bỏ các tế đàn trên những nơi cao và các bàn thờ để dâng của tế lễ cho Ngài, và truyền lịnh cho dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Các ngươi chỉ thờ phượng trước một bàn thờ và chỉ dâng hương trên đó mà thôi’ hay sao? 13 Các ngươi há không biết những gì ta và cha ông ta đã làm cho các dân ở các nước khác hay sao? Các thần của các dân ở các nước đó há có thể giải cứu đất nước của chúng khỏi tay ta chăng? 14 Có thần nào trong tất cả các thần của các dân mà cha ông ta đã tận diệt có thể giải cứu dân của thần đó khỏi tay ta chăng? Thế thì Ðức Chúa Trời của các ngươi há có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta được sao? 15 Vậy bây giờ chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi. Chớ để hắn thuyết phục các ngươi như thế. Chớ tin hắn, vì không có thần nào của dân nào hay của nước nào có thể cứu dân của thần đó khỏi tay ta hay tay của cha ông ta được. Thế thì làm thế nào Ðức Chúa Trời của các ngươi có thể cứu các ngươi khỏi tay ta?”

16 Các tôi tớ của hắn còn nói thêm những lời khác xúc phạm đến Chúa Ðức Chúa Trời và chống lại Ê-xê-chia tôi tớ Ngài. 17 Hắn còn gởi các thư ra nhục mạ Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, và nói những lời xúc phạm đến Ngài rằng, “Giống như các thần của các dân các nước không thể cứu chúng khỏi tay ta, thì Ðức Chúa Trời của Ê-xê-chia cũng sẽ không thể cứu dân của hắn khỏi tay ta.” 18 Chúng nói lớn tiếng trong ngôn ngữ của người Giu-đa đang ở trên đầu tường thành để làm cho họ hoang mang lo sợ và khủng hoảng tinh thần hầu có thể tấn công chiếm thành. 19 Chúng nói về Ðức Chúa Trời của Giê-ru-sa-lem như thể nói về các thần của các dân trên thế gian, bởi các thần ấy chỉ là sản phẩm do tay người ta làm ra.

Sên-na-chê-ríp Bị Bại và Chết

20 Bấy giờ Vua Ê-xê-chia và Tiên Tri Ê-sai con của A-mô cất tiếng lớn hướng lên trời khẩn nguyện và kêu cầu. 21 Chúa bèn sai một thiên sứ của Ngài đến trong trại quân của vua A-sy-ri và giết tất cả các chiến sĩ dũng mãnh, các tướng tá, và các sĩ quan của hắn. Vì thế hắn phải trở về nước của hắn trong nhục nhã. Khi hắn vào đền thờ thần của hắn để cúng bái, các con của hắn đã dùng gươm đâm chết hắn trong đó. 22 Như vậy Chúa đã giải cứu Ê-xê-chia và dân cư Giê-ru-sa-lem khỏi tay Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri, và khỏi mọi kẻ thù khác. Ngài ban cho ông được bình an tứ phía. 23 Nhiều người mang các của lễ đến Giê-ru-sa-lem dâng lên Chúa và các quà quý giá cống hiến Ê-xê-chia vua Giu-đa. Từ đó ông được mọi dân chung quanh nể trọng.

Ê-xê-chia Bị Bịnh và Ðược Chữa Lành

24 Trong những ngày ấy Ê-xê-chia bị bịnh và gần chết. Ông cầu nguyện với Chúa. Ngài đáp lời ông và ban cho ông một dấu hiệu. 25 Nhưng Ê-xê-chia không báo đáp ơn lành ông đã nhận được, vì lòng ông kiêu ngạo. Vì thế một cơn thịnh nộ đã giáng trên ông, cùng trên Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 26 Ê-xê-chia bèn hạ lòng kiêu ngạo của ông xuống; cả ông và dân cư ở Giê-ru-sa-lem đều làm như thế. Do đó suốt thời gian còn lại của triều đại Ê-xê-chia, cơn thịnh nộ của Chúa đã ngưng giáng xuống.

Sự Giàu Sang của Ê-xê-chia

27 Ê-xê-chia rất giàu có và được tôn trọng. Ông xây cất các nhà kho để chứa bạc, vàng, bảo ngọc, thuốc thơm, thuẫn khiên, và mọi thứ quý giá. 28 Ông xây các vựa lẫm để chứa lúa gạo, rượu mới, và dầu ô-liu. Ông cất các chuồng cho các đàn bò, và các ràn cho các đàn chiên. 29 Ngoài ra ông xây cho ông nhiều thành, và mua cho ông nhiều đàn chiên và đàn bò, vì Chúa ban cho ông nhiều của cải. 30 Chính Ê-xê-chia nầy là người đã ngăn chặn thượng nguồn của Suối Ghi-hôn và dẫn nước chảy ngầm xuống phía tây của Thành Ða-vít. Ê-xê-chia được thành công trong mọi việc tay ông làm.

31 Tuy nhiên khi các sứ giả do những kẻ cầm quyền ở Ba-by-lôn phái đến để tìm hiểu về những việc lạ lùng đã xảy ra trong xứ, Ðức Chúa Trời đã tạm lìa khỏi ông, để xem trong thâm tâm ông, lòng ông thật sự tin kính Ngài như thể nào.

Kết Thúc Triều Ðại Ê-xê-chia

(2 Vua 20:20-21)

32 Những hoạt động khác của Ê-xê-chia, đặc biệt những việc tốt ông làm, này, chúng đều được chép trong Khải Tượng của Tiên Tri Ê-sai con của A-mô, một phần trong sách Các Vua Giu-đa và I-sơ-ra-ên. 33 Ê-xê-chia an giấc với tổ tiên ông. Người ta chôn ông trong các hang mộ trên cao dành cho con cháu của Ða-vít. Toàn dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến tỏ lòng tôn kính ông trong tang lễ. Sau đó Ma-na-se con trai ông lên ngôi kế vị.

Triều Ðại của Ma-na-se

(2 Vua 21:1-18)

33 Ma-na-se được mười hai tuổi khi lên ngai làm vua. Ông trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông làm những điều gian tà tội lỗi trước mặt Chúa, bắt chước những điều gớm ghiếc của các dân Chúa đã đuổi đi trước mặt người I-sơ-ra-ên. Ông xây lại các tế đàn trên những nơi cao mà Ê-xê-chia cha ông đã dẹp bỏ. Ông xây dựng lại các bàn thờ cho Thần Ba-anh, và các trụ thờ cho Nữ Thần A-sê-ra. Ông quỳ xuống sụp lạy tất cả các thần tinh tú và thờ phượng chúng. Ông xây dựng các bàn thờ để thờ các tà thần ngay trong khu vực Ðền Thờ Chúa, nơi Chúa đã phán, “Giê-ru-sa-lem là nơi danh Ta sẽ ngự đời đời.” Ông xây các bàn thờ cho các thần tinh tú trên trời ngay trong hai sân của Ðền Thờ Chúa. Ông cũng bắt các con trai thơ dại của ông đem thiêu trong lửa để cúng thần trong Thung Lũng Bên Hin-nôm. Ông tin phù thủy, chiêm tinh, thầy bói; ông cầu hỏi đồng bóng và thầy pháp. Ông làm nhiều điều gian tà tội lỗi trước mặt Chúa, chọc Ngài nổi giận. Ông lấy hình tượng ông đã làm và đem đặt trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, nơi Ðức Chúa Trời đã phán với Ða-vít và Sa-lô-môn con trai ông ấy, “Trong Ðền Thờ nầy ở Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn trong tất cả các chi tộc của I-sơ-ra-ên, nơi Ta sẽ đặt danh Ta tại đó đời đời, Ta sẽ không để cho bàn chân của dân I-sơ-ra-ên rời khỏi đất Ta đã định cho tổ tiên chúng, nếu chúng cẩn thận làm theo mọi điều trong luật pháp, luật lệ, và mạng lịnh mà Ta đã truyền cho chúng qua Môi-se.”

Nhưng Ma-na-se đã xúi giục dân Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem làm những điều gian tà tội lỗi hơn tất cả các dân mà Chúa đã tiêu diệt trước mặt dân I-sơ-ra-ên. 10 Chúa phán với Ma-na-se và dân của ông, nhưng họ không nghe. 11 Vì thế Chúa đã đem các vị chỉ huy quân đội của vua A-sy-ri đến bắt Ma-na-se, đóng gông ông lại, lấy xích đồng xiềng ông lại, rồi đem ông qua By-by-lôn.

12 Bấy giờ trong cơn khốn quẫn ông tìm kiếm Chúa, Ðức Chúa Trời của ông. Ông hết sức hạ mình xuống trước mặt Ðức Chúa Trời của tổ tiên ông. 13 Ông cầu nguyện với Ngài; ông tha thiết cầu xin Ngài. Ngài đã nghe tiếng kêu cầu của ông và làm cho ông được trở về lại Giê-ru-sa-lem trong vương quốc của ông. Bấy giờ Ma-na-se nhận biết chỉ có Chúa mới là Ðức Chúa Trời của ông.

14 Sau đó ông xây lại tường thành bên ngoài Thành Ða-vít, ở phía tây của Ghi-hôn, trong thung lũng, cho đến lối vào Cổng Cá, rồi tiếp tục xây vòng quanh Ðồi Ô-phên. Ông xây bức tường ấy lên thật cao. Sau đó ông đặt các vị chỉ huy quân đội trong tất cả các thành kiên cố của Giu-đa. 15 Ông dẹp bỏ các thần ngoại bang và hình tượng ra khỏi khu vực Ðền Thờ Chúa, và tất cả các bàn thờ mà ông đã xây trên núi của Ðền Thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem và quăng chúng ra ngoài thành. 16 Ông sửa sang lại bàn thờ Chúa, rồi dâng trên đó các của lễ cầu an và các của lễ tạ ơn. Ông truyền cho dân Giu-đa phải thờ phượng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 17 Tuy nhiên dân chúng vẫn còn tiếp tục dâng các thú vật hiến tế ở các tế đàn trên những nơi cao, mặc dù họ chỉ dâng chúng lên Chúa, Ðức Chúa Trời của họ.

18 Những sinh hoạt khác của Ma-na-se, lời cầu nguyện của ông dâng lên Ðức Chúa Trời, những lời của các đấng tiên kiến đã nhân danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, nói với ông, này, chúng đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua I-sơ-ra-ên.

19 Lời cầu nguyện của ông và thể nào ông đã được nhậm lời cầu xin, cũng như tất cả các tội lỗi của ông và các vi phạm của ông, những chỗ ông xây cất các tế đàn trên những nơi cao, những nơi ông xây các trụ thờ cho Nữ Thần A-sê-ra và các hình tượng trước khi ông hạ mình xuống, này, chúng đều được chép trong sách Sử Ký của Các Ðấng Tiên Kiến. 20 Ma-na-se an giấc với tổ tiên ông. Người ta chôn ông trong cung điện của ông. A-môn con trai ông lên ngai kế vị.

Triều Ðại của A-môn

(2 Vua 21:19-26)

21 A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì hai năm tại Giê-ru-sa-lem. 22 Ông làm những điều gian tà trước mặt Chúa, như cha của ông đã làm, vì A-môn dâng các thú vật hiến tế cho các hình tượng mà cha ông đã làm, và ông thờ lạy chúng. 23 Ông không hạ mình xuống trước mặt Chúa như cha ông đã hạ mình xuống, nhưng A-môn phạm tội càng ngày càng nhiều hơn. 24 Các tôi tớ của ông đã lập mưu làm phản ông. Chúng ám sát ông ngay trong cung điện của ông. 25 Nhưng dân trong nước đã xử tử tất cả những kẻ đã thực hiện âm mưu ám sát Vua A-môn. Sau đó dân trong nước đã lập Giô-si-a con trai ông lên ngôi làm vua kế vị.

Triều Ðại của Giô-si-a

(2 Vua 22:1-2)

34 Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông làm điều tốt trước mặt Chúa và bước đi trong các đường lối của Ða-vít tổ tiên ông, không quay qua bên phải hoặc bên trái.

Năm thứ tám triều đại của ông, dù lúc đó ông chỉ là một thiếu niên, ông bắt đầu tìm kiếm Ðức Chúa Trời của Ða-vít tổ tiên ông. Ðến năm thứ mười hai ông bắt đầu làm sạch khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem các tế đàn trên những nơi cao, các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra, các tượng chạm, và các tượng đúc của các tà thần. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông, người ta đập nát các bàn thờ của Thần Ba-anh. Ông hủy phá các bàn thờ dâng hương trên các nơi đó, và ông đập ra thành mảnh vụn các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra, các tượng chạm, và các tượng đúc. Ông nghiền chúng ra thành bụi và đem rắc trên mộ của những kẻ đã dâng các thú vật hiến tế cho chúng. Ông thiêu xương các tư tế của các thần ấy trên các bàn thờ chúng đã dùng để dâng các thú vật hiến tế cho thần tượng. Vậy ông tẩy sạch khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem sự thờ lạy tà thần. Sau đó ông đến các thành trong lãnh thổ của Ma-na-se, Ép-ra-im, Si-mê-ôn, và tận miền Náp-ta-li, cùng những nơi đổ nát hoang tàn chung quanh chúng và cũng làm như vậy. Ông đập đổ tan tành các bàn thờ thần tượng và các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra. Ông nghiền nát các hình tượng ra thành bụi và phá hủy tất cả các bàn thờ dâng hương cho các thần tượng trong khắp nước I-sơ-ra-ên; sau đó ông trở về Giê-ru-sa-lem.

Công Trình Tu Bổ Ðền Thờ

(2 Vua 22:3-7)

Vào năm thứ mười tám của triều đại ông, sau khi đã làm sạch khỏi xứ và Ðền Thờ sự thờ lạy tà thần, ông sai Sa-phan con của A-xa-li-a, Ma-a-sê-gia thị trưởng của kinh thành, và Giô-a con của Giô-a-ha quan ký lục lo việc sửa sang Ðền Thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của ông. Họ đến gặp Thượng Tế Hinh-ki-a để trao số tiền dân đã đem dâng ở Nhà Ðức Chúa Trời mà những người Lê-vi chịu trách nhiệm giữ cửa đã nhận được do dân từ các chi tộc Ma-na-se, Ép-ra-im, những người còn sót lại của I-sơ-ra-ên, toàn dân Giu-đa, Bên-gia-min, và dân cư Giê-ru-sa-lem đem đến dâng. 10 Họ trao số tiền đó tận tay những người có uy tín trông coi việc sửa sang Ðền Thờ Chúa. Những người đó dùng tiền ấy trả công cho những thợ sửa chữa và chỉnh trang Ðền Thờ. 11 Họ trao số tiền đó cho các thợ mộc và thợ nề để mua đá tảng đẽo sẵn, gỗ để làm sườn nhà và đà ngang cho các tòa nhà của Ðền Thờ mà các vua Giu-đa trước đã bỏ bê khiến bị suy sụp. 12 Những thợ đó đã làm việc rất tận tâm dưới sự điều động của Gia-hát và Ô-ba-đi-a, hai người Lê-vi dòng dõi của Mê-ra-ri, cùng với sự giám thị của Xa-cha-ri-a và Mê-shu-lam con cháu của Kê-hát. Những người Lê-vi khác, tất cả vốn là những nhạc sĩ tài ba, 13 được lập làm quản đốc những người khuân vác và làm giám thị các nhân công trong mọi công tác tái thiết. Một số người Lê-vi khác nữa làm thư ký, quản lý, và người giữ cửa.

Tìm Ðược Sách Luật Pháp

(2 Vua 22:8-13)

14 Trong khi họ lấy tiền dân chúng đã dâng ở Ðền Thờ Chúa ra đếm để trao cho ông, Tư Tế Hinh-ki-a cho họ biết ông đã tìm được cuộn sách Luật Pháp mà Chúa đã ban cho dân qua Môi-se. 15 Hinh-ki-a nói với Quan Bí Thư Sa-phan, “Tôi đã tìm được cuộn sách Luật Pháp trong Ðền Thờ Chúa.” Kế đó Hinh-ki-a trao cuộn sách ấy cho Sa-phan. 16 Sa-phan mang cuộn sách ấy đến cho vua và báo cáo, “Mọi việc hoàng thượng giao cho các tôi tớ ngài, họ đều thi hành nghiêm túc. 17 Họ đã lấy hết số tiền đã nhận được ở Ðền Thờ Chúa và trao tận tay các giám thị và các nhân công.” 18 Kế đó Quan Bí Thư Sa-phan tâu với vua, “Tư Tế Hinh-ki-a có trao cho hạ thần một cuộn sách.” Rồi Sa-phan đọc sách ấy cho vua nghe. 19 Sau khi vua nghe những lời ghi trong sách Luật Pháp, vua xé rách y phục của ông. 20 Vua truyền lịnh cho Hinh-ki-a, A-hi-cam con của Sa-phan, Áp-đôn con của Mi-chê, Quan Bí Thư Sa-phan, và A-sa-gia mưu sĩ của vua rằng, 21 “Các ngươi hãy đi cầu hỏi ý Chúa cho ta và cho những người còn sót lại trong I-sơ-ra-ên và Giu-đa về những lời đã chép trong cuộn sách tìm được ấy, vì cơn thịnh nộ của Chúa sẽ đổ xuống trên chúng ta thật lớn thay, vì cha ông chúng ta đã không vâng giữ những lời của Chúa mà làm theo mọi điều đã chép trong sách ấy.”

Tham Vấn Nữ Tiên Tri Hun-đa

(2 Vua 22:14-20)

22 Vậy Hinh-ki-a và những người vua sai đi với ông đến gặp Nữ Tiên Tri Hun-đa. Bà là vợ của Sanh-lum con của Tô-khát cháu của Hạc-ra, người giữ các áo lễ của Ðền Thờ. Bà ấy đang ở Quận Nhì của Giê-ru-sa-lem. 23 Bà nói với họ, “Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy: Hãy nói với người sai các ông đến gặp tôi: 24 Chúa phán thế nầy: ‘Này, Ta sẽ đem tai họa giáng xuống nơi nầy và trên dân cư ở đây, để làm ứng nghiệm mọi lời nguyền rủa đã chép trong sách mà người ta đã đọc trước mặt vua Giu-đa. 25 Bởi vì chúng đã quên Ta mà dâng hương cho các thần khác. Chúng đã dùng mọi tác phẩm do tay chúng làm ra chọc giận Ta; vì thế cơn giận của Ta trút ra ở nơi nầy, và nó sẽ không nguôi đâu.’ 26 Còn về vua Giu-đa, người đã sai các ông đi cầu hỏi Chúa, đây là những gì các ông hãy nói với người ấy: Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy: ‘Về những lời ngươi đã nghe: 27 Vì lòng ngươi mềm mại, ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ðức Chúa Trời khi nghe những lời Ngài phán về nơi nầy và dân cư ở đây, ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ta, ngươi đã xé rách y phục của ngươi và khóc trước mặt Ta,’ Chúa phán, 28 ‘Này, Ta sẽ đem ngươi về với tổ tiên ngươi, và ngươi sẽ được chôn cất bình an, mắt ngươi sẽ không phải nhìn thấy những tai họa Ta sẽ giáng xuống nơi nầy và trên dân cư ở đây.’” Vậy họ trở về thuật lại cho vua sứ điệp họ đã nhận được.

Tái Lập Giao Ước

(2 Vua 23:1-20)

29 Bấy giờ vua sai các sứ giả đi mời tất cả các vị trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến. 30 Kế đó vua với toàn dân Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem đi lên Ðền Thờ Chúa, với các tư tế và những người Lê-vi, tức mọi người, cả lớn lẫn nhỏ. Vua đọc cho họ nghe mọi lời trong Sách Giao Ước đã tìm được trong Ðền Thờ Chúa. 31 Sau đó vua đứng tại chỗ của mình và lập một giao ước trước mặt Chúa, hứa nguyện sẽ bước đi theo Chúa, vâng giữ các điều răn, các mạng lịnh, và các luật lệ của Ngài một cách hết lòng và hết linh hồn mình, và sẽ làm theo mọi lời của giao ước đã ghi trong sách. 32 Ông yêu cầu mọi người sống ở Giê-ru-sa-lem và chi tộc Bên-gia-min tuyên thệ sẽ làm theo như thế. Vậy mọi người đang ở Giê-ru-sa-lem lúc đó đều hứa nguyện sẽ vâng giữ giao ước của Ðức Chúa Trời, thần của tổ tiên họ.

33 Giô-si-a dẹp bỏ mọi thần tượng gớm ghiếc ra khỏi toàn thể lãnh thổ của dân I-sơ-ra-ên. Ông yêu cầu mọi người sống trong lãnh thổ của dân I-sơ-ra-ên lúc bấy giờ chỉ thờ phượng một mình Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, mà thôi. Suốt những ngày của đời ông, họ không lìa bỏ Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ, nhưng luôn tin thờ Ngài.