Add parallel Print Page Options

A-cha, vua Giu-đa

28 A-cha được hai mươi tuổi khi lên ngôi vua và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Vua không làm điều thiện trước mặt CHÚA như Đa-vít, tổ tiên mình đã làm. A-cha làm giống như các vua Ít-ra-en đã làm. Vua tạc các hình tượng bằng kim khí để thờ phụng Ba-anh. Vua đốt hương trong Thung Lũng Ben Hin-nôm [a] và thiêu con trai mình làm của lễ. Vua phạm những tội gớm ghiếc như các dân mà CHÚA đã đuổi ra khỏi xứ trước mặt dân Ít-ra-en. Vua A-cha dâng sinh tế và đốt hương ở những nơi thờ các thần ngoại quốc, trên các đồi và dưới mỗi gốc cây xanh.

Vì thế CHÚA là Thượng Đế trao A-cha vào tay vua A-ram. Quân A-ram đánh bại A-cha và bắt vô số người Giu-đa làm tù binh đày sang Đa-mách. Ngài cũng trao A-cha vào tay Bê-ca, vua Ít-ra-en. Quân Bê-ca giết vô số quân sĩ của A-cha. Trong một ngày, đạo quân của Bê-ca, con Rê-ma-lia, giết một trăm hai mươi ngàn lính chiến gan dạ của Giu-đa. Bê-ca đánh bại họ vì họ đã lìa bỏ CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. Xích-ri, một chiến sĩ của Ép-ra-im, giết Ma-a-sê-gia, con trai vua A-cha. Anh cũng giết A-ri-cam, sĩ quan quản lý cung điện, và Ên-ca-na, sĩ quan chỉ huy hàng nhì sau vua.

Đạo quân Ít-ra-en bắt hai trăm ngàn thân thuộc mình. Họ cướp đàn bà, con trai, con gái và vô số của báu từ Giu-đa, mang về Xa-ma-ri. Nhưng một nhà tiên tri của CHÚA tên Ô-đết có mặt ở đó. Ông ra đón đạo quân Ít-ra-en khi họ trở về Xa-ma-ri và nói với họ, “CHÚA là Thượng Đế của tổ tiên các ngươi đã trao Giu-đa vào tay các ngươi vì Ngài giận họ. Nhưng Ngài đã thấy các ngươi giết họ tàn bạo ra sao. 10 Bây giờ các ngươi định bắt đàn ông, đàn bà Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem làm tôi mọi mình, các ngươi đã phạm tội cùng CHÚA là Thượng Đế các ngươi. 11 Bây giờ hãy nghe ta đây. Hãy trả anh chị em mình mà các ngươi đã bắt về vì CHÚA nổi giận cùng các ngươi đó.”

12 Sau đó một số lãnh tụ trong Ép-ra-im, tức A-xa-ria con Giê-hô-ha-nan, Bê-rê-kia, con Mê-si-lê-mốt, Giê-hi-kia con Sa-lum, và A-ma-xa con Hát-lai, đón các chiến sĩ Ít-ra-en khi họ từ mặt trận trở về. 13 Họ cảnh cáo các quân sĩ rằng, “Đừng mang các tù binh Giu-đa vào đây. Nếu không các ngươi sẽ phạm tội cùng CHÚA và sẽ khiến tội lỗi chúng ta thêm nặng. Tội chúng ta đã nặng rồi cho nên CHÚA nổi thịnh nộ cùng Ít-ra-en.”

14 Vì thế các binh sĩ để các tù binh và những đồ quí trước mặt các sĩ quan và dân chúng. 15 Các lãnh tụ có tên trên đây mang các tù binh và cấp quần áo cho những tù binh bị trần truồng mà đạo quân Ít-ra-en đã bắt. Họ cấp cho các tù binh áo quần, giày dép, thức ăn, nước uống, và thuốc thang. Họ đặt những tù binh yếu ớt lên lưng lừa và mang trả về cho gia đình họ ở Giê-ri-cô là thành cây chà là. Rồi họ trở về nhà mình ở Xa-ma-ri.

16-17 Lúc đó quân Ê-đôm trở lại tấn công Giu-đa và bắt các tù binh. Cho nên vua A-cha cho người sang cầu cứu vua A-xy-ri. 18 Người Phi-li-tin cũng cướp phá các thị trấn trong các bình nguyên phía Tây và sa mạc miền Nam Giu-đa. Chúng chiếm được các thị trấn Bết-Sê-mết, Ai-gia-lôn, Ghê-đê-rốt, Sô-cô, Tim-na, và Ghim-xô, cùng các làng mạc xung quanh. Rồi dân Phi-li-tin vào ở trong các thị trấn đó. 19 CHÚA mang khốn khổ đến cho Giu-đa vì A-cha, vua họ đã dẫn dụ dân chúng phạm tội, và vì vua không trung thành cùng CHÚA. 20 Tiếc-lác Phi-lê-xe, vua A-xy-ri, đến tiếp cứu A-cha nhưng thực ra mang khốn khổ đến cho vua chứ không giúp được gì. 21 Vua A-cha lấy một số đồ quí trong đền thờ CHÚA, từ cung điện vua, từ các hoàng thân dâng cho vua A-xy-ri nhưng vô ích.

22 Trong cơn nguy khốn vua A-cha càng tỏ ra bất trung với CHÚA. 23 Vua dâng sinh tế cho các thần của người Đa-mách, là những người đánh bại mình. Vua nghĩ, “Các thần của các vua A-ram đã giúp đỡ họ. Nếu ta dâng của lễ cho các thần đó, họ sẽ giúp ta.” Nhưng việc đó mang bại hoại đến cho A-cha và toàn dân Ít-ra-en.

24 Vua A-cha gom góp tất cả những đồ dùng trong đền thờ Thượng Đế và đập nát ra. Rồi ông đóng các cửa đền thờ của CHÚA. Ông lập các bàn thờ đặt ở mỗi góc đường trong Giê-ru-sa-lem. 25 Trong mỗi thị trấn Giu-đa, A-cha xây những nơi đốt sinh tế để thờ phụng các thần khác. Vì thế vua chọc giận CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình.

26 Các việc khác vua A-cha làm từ đầu đến cuối đều được ghi trong sách các vua Giu-đa và Ít-ra-en. 27 A-cha qua đời và được chôn trong thành Giê-ru-sa-lem nhưng không được nằm chung trong mộ dành cho các vua Ít-ra-en. Ê-xê-chia, con trai vua lên nối ngôi.

Footnotes

  1. II Sử Ký 28:3 Thung Lũng Ben Hin-nôm Thung lũng nầy về sau có tên “Ghê-hê-na.” Thung lũng nầy nằm về phía Tây Nam Giê-ru-sa-lem. Nhiều hài nhi và trẻ thơ bị hỏa thiêu làm của lễ dâng lên cho các thần giả trong thung lũng nầy.

Triều Ðại của A-kha

(2 Vua 16:1-4)

28 A-kha được hai mươi tuổi khi lên ngôi làm vua, và ông trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông không làm điều tốt trước mặt Chúa giống như Ða-vít tổ tiên ông, nhưng đi theo đường lối của các vua I-sơ-ra-ên. Ông đúc cho ông các hình tượng của Thần Ba-anh. Ông đốt hương cho các thần tượng trong Thung Lũng Bên Hin-nôm. Ông thiêu sống các con trai ông trong lửa để dâng cho thần tượng, theo như các tập tục gớm ghiếc của các dân Chúa đã đuổi đi trước mặt dân I-sơ-ra-ên. Ông dâng của lễ thiêu và dâng hương ở các tế đàn trên những nơi cao, trên các núi đồi, và dưới những cây xanh rậm rạp.

A-ram và I-sơ-ra-ên Ðánh Bại Giu-đa

Vì thế, Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, đã trao ông vào tay vua A-ram. Chúng đánh bại ông và bắt rất nhiều quân dân của ông làm tù binh, rồi đem về Ða-mách.

Ông cũng bị trao vào tay của vua I-sơ-ra-ên, người đã đánh bại ông, khiến ông bị tổn thất nhân mạng rất nặng nề. Chỉ trong một ngày mà Pê-ka con của Rê-ma-li-a đã giết chết một trăm hai mươi ngàn quân Giu-đa, tất cả đều là những chiến sĩ can trường, bởi vì họ đã bỏ Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ. Ngoài ra, Xích-ri, một dũng sĩ người Ép-ra-im, cũng đã giết chết Ma-a-sê-gia con trai vua, A-xơ-ri-cam quan tổng quản hoàng cung, và Ên-ca-na quan tể tướng.

Quân I-sơ-ra-ên bắt và dẫn đi hai trăm ngàn đồng bào của chúng để làm tù binh, kể cả vợ, con trai, và con gái của họ. Chúng cũng đoạt lấy rất nhiều của cải làm chiến lợi phẩm và đem tất cả về Sa-ma-ri.

Tiên Tri Ô-đết Can Thiệp

Nhưng một vị tiên tri của Chúa tên là Ô-đết đã chờ sẵn ở đó để đón đoàn quân mang các chiến lợi phẩm trở về Sa-ma-ri. Ông nói với họ, “Này, vì Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh em, đã nổi giận với Giu-đa. Ngài đã trao họ vào tay anh em, và trong cơn giận anh em đã giết họ rất nhiều. Việc nầy đã thấu đến trời xanh. 10 Bây giờ anh em còn muốn bắt các đàn ông và các đàn bà của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem về làm nô lệ của anh em nữa sao? Nhưng khi làm như thế anh em há không biết rằng anh em đang phạm tội với Chúa, Ðức Chúa Trời của anh em sao? 11 Bây giờ xin nghe tôi nói: Hãy thả đồng bào mình mà anh em đã bắt làm tù binh để họ trở về; còn không cơn giận bừng bừng của Chúa sẽ giáng xuống trên anh em.”

12 Bấy giờ một số thủ lãnh của người Ép-ra-im là A-xa-ri-a con của Giô-ha-nan, Bê-rê-ki-a con của Mê-sin-lê-mốt, Giê-hi-ki-a con của Sanh-lum, và A-ma-sa con của Hát-lai đứng lên phản đối những người từ chiến trường mang các tù binh về. 13 Họ nói với chúng, “Các người không được mang các tù binh ấy về đây, vì bắt người ta về đây là đã phạm tội với Chúa rồi. Các người tính chất thêm tội lỗi trên những tội chúng ta đã phạm sao? Tội của chúng ta đã quá lớn, và cơn thịnh nộ đã bừng bừng nổi lên nghịch lại I-sơ-ra-ên rồi đó.”

14 Nghe thế các binh sĩ bèn thả các tù binh ra và bỏ các của cải đã chiếm làm chiến lợi phẩm ra trước mặt những người chỉ huy và cả hội chúng. 15 Kế đó những người đã được nhắc tên ở trên đứng dậy, tiếp thu các tù binh, lấy quần áo từ đống chiến lợi phẩm mặc cho những người đang trần truồng, phân phát quần áo và giày dép cho những người đang cần, để họ mặc và mang vào, cung cấp thức ăn và thức uống cho họ, xức dầu cho nhưng người bị thương, và đỡ tất cả những người yếu đuối lên lưng lừa, rồi dẫn tất cả những tù binh đó trở về với bà con của họ ở Giê-ri-cô, thành của các cây chà là. Sau đó họ lên đường trở về Sa-ma-ri.

A-kha Cầu Cứu với A-sy-ri

16 Lúc ấy Vua A-kha sai các sứ giả đến cầu cứu với các vua A-sy-ri để xin chúng đến giúp ông. 17 Số là dân Ê-đôm đã kéo trở lại tấn công Giu-đa và bắt đi một số tù binh. 18 Quân Phi-li-tin cũng đã đến tấn công các thành ở vùng đồng bằng và ở các địa phương Miền Nam của Giu-đa. Chúng đã chiếm lấy Bết Sê-mếch, Ai-gia-lôn, Ghê-đê-rốt, Sô-cô và các thị trấn phụ thuộc, Tim-na và các thị trấn phụ thuộc, và Ghim-xô và các thị trấn phụ thuộc. Chúng chiếm lấy và định cư ở những nơi đó. 19 Vì cớ A-kha vua người I-sơ-ra-ên, Chúa đã đem Giu-đa xuống thấp, vì ông ấy đã cổ xúy cho sự gian tà thuộc linh trong Giu-đa và không ngừng bất trung với Chúa. 20 Tin-gát Pin-nê-se vua A-sy-ri đã đến với ông, nhưng thay vì đến giúp ông, hắn đã bức hiếp ông. 21 A-kha phải lấy các bảo vật trong Ðền Thờ Chúa và trong hoàng cung, cùng các bảo vật của các thủ lãnh đem dâng cho vua A-sy-ri; hắn nhận tất cả các vật đó nhưng không giúp ông gì cả.

A-kha Bội Ðạo và Chết

22 Trong lúc khốn quẫn Vua A-kha lại càng bất trung với Chúa hơn. Thật chỉ có Vua A-kha mới tồi tệ như thế. 23 Ông dâng của tế lễ cho các thần của Ða-mách là dân đã đánh bại ông. Ông nói, “Vì các thần của dân A-ram đã phù hộ chúng, nên ta phải dâng của tế lễ cho các thần ấy để các thần ấy phù hộ ta.” Nhưng các thần ấy chính là duyên cớ khiến cho ông bị bại vong và làm cho cả I-sơ-ra-ên bị bại vong theo. 24 A-kha lấy tất cả vật dụng trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời ra và cắt nát các vật dụng trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời thành những mảnh vụn. Ông đóng các cửa Ðền Thờ Chúa và xây cho ông các am miếu để cúng tế các thần tượng trong mỗi xó xỉnh của Giê-ru-sa-lem. 25 Trong mỗi thành của Giu-đa, ông xây các tế đàn trên những nơi cao để cúng thờ các thần khác, và chọc Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên ông, nổi cơn thịnh nộ.

26 Tất cả các hoạt động của ông, mọi chính sách của ông, từ đầu đến cuối, này, chúng đã được chép trong sách Các Vua Giu-đa và I-sơ-ra-ên. 27 A-kha an giấc với tổ tiên ông. Người ta chôn ông trong Thành Giê-ru-sa-lem, nhưng không đặt thi hài ông trong lăng tẩm dành cho các vua I-sơ-ra-ên. Ê-xê-chia con trai ông lên ngôi kế vị.

A-cha, vua Giu-đa

16 A-cha là con trai Giô-tham, vua Giu-đa. A-cha lên ngôi vua cai trị Giu-đa vào năm thứ mười bảy đời Bê-ca, con Rê-ma-lia, vua Ít-ra-en. A-cha được hai mươi tuổi khi lên ngôi vua và cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. A-cha chẳng làm điều thiện trước mặt CHÚA là Thượng Đế mình, không như Đa-vít, tổ tiên mình. A-cha làm mọi điều như các vua Ít-ra-en đã làm. Thậm chí ông dùng con trai mình làm của lễ thiêu [a]. Ông phạm những tội đáng ghê tởm như các dân mà CHÚA đã đuổi ra khỏi xứ trước khi dân Ít-ra-en đến. A-cha dâng sinh tế và đốt hương ở những nơi thờ cúng địa phương, trên các đồi và dưới mỗi cây xanh.

Rê-xin, vua A-ram và Bê-ca, con Rê-ma-lia, vua Ít-ra-en, kéo lên tấn công Giê-ru-sa-lem. Họ vây A-cha nhưng không thắng nổi ông. Trong lúc đó Rê-xin, vua A-ram lấy lại thành Ê-lát về cho A-ram. Ông trục xuất tất cả người Giu-đa ra khỏi đó rồi người Ê-đôm vào ở trong Ê-lát. Cho đến ngày nay họ vẫn còn ở đó.

A-cha sai sứ đến Tiếc-lác Phi-lê-xe, vua A-xy-ri, nói rằng, “Tôi là bạn và là tôi tớ vua. Xin hãy đến giúp tôi khỏi tay vua A-ram và vua Ít-ra-en đang tấn công tôi.” A-cha lấy vàng và bạc trong đền thờ CHÚA và trong ngân khố cung vua đem dâng cho vua A-xy-ri. Vậy vua A-xy-ri bằng lòng nghe lời A-cha. Ông tấn công Đa-mách và chiếm thành đó rồi đày tất cả dân chúng đi sang Kia. Vua cũng giết Rê-xin.

10 Sau đó vua A-cha đi đến Đa-mách để ra mắt Tiếc-lác Phi-lê-xe, vua A-xy-ri. Vua A-cha trông thấy một bàn thờ ở Đa-mách liền gởi mẫu và sơ đồ của bàn thờ về cho thầy tế lễ U-ri. 11 Vậy thầy tế lễ U-ri xây một bàn thờ giống như sơ đồ mà vua A-cha gởi đến cho mình từ Đa-mách. U-ri hoàn tất bàn thờ trước khi vua A-cha từ Đa-mách trở về.

12 Khi vua từ Đa-mách trở về trông thấy bàn thờ liền đi đến dâng sinh tế trên đó. 13 Vua dâng của lễ thiêu, của lễ chay và đổ của lễ uống ra. Vua cũng rảy huyết của của lễ thân hữu trên bàn thờ.

14 A-cha dời bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA ở phía trước đền thờ. Nó vốn nằm giữa bàn thờ của vua A-cha và đền thờ của CHÚA, nhưng vua dời nó nằm về phía bắc của bàn thờ mình. 15 Vua A-cha truyền cho thầy tế lễ U-ri như sau, “Trên bàn thờ lớn hãy đốt các của lễ thiêu vào buổi sáng, của lễ chay vào buổi chiều, của lễ thiêu và của lễ chay của vua, của lễ toàn thiêu, của lễ chay, và của lễ uống cho toàn thể dân chúng trong xứ. Hãy rưới huyết của tất cả các của lễ thiêu và sinh tế trên bàn thờ. Nhưng ta sẽ dùng bàn thờ bằng đồng để cầu hỏi ý Thượng Đế.” 16 Vậy thầy tế lễ U-ri làm mọi điều y như vua A-cha đã dặn mình.

17 Rồi vua A-cha gỡ các tấm che quanh hông các đế và gỡ các chậu rửa trên đầu các đế. Vua cũng lấy cái chậu lớn gọi là Cái Biển [b], khỏi các con bò đực chống đỡ nó và đặt trên một cái đế bằng đá. 18 A-cha cũng cho gỡ bỏ cái bục có mái che dùng trong ngày Sa-bát đã được đóng nơi đền vua. Ông cũng gỡ cửa bên ngoài lối vào cho vua. Ông làm những điều ấy là vì sợ vua A-xy-ri.

19 Các việc khác A-cha làm đều được ghi trong sách sử ký các vua Giu-đa. 20 A-cha qua đời và được chôn với các tổ tiên ở Giê-ru-sa-lem. Ê-xê-chia, con A-cha lên nối ngôi.

Ô-sê, vua cuối cùng của Ít-ra-en

17 Ô-sê, con trai Ê-la, lên ngôi vua Ít-ra-en vào năm thứ mười hai đời A-cha, vua Giu-đa. Ô-sê cai trị ở Xa-ma-ri chín năm. Vua làm điều ác trước mặt CHÚA, nhưng không tệ hại bằng các vua Ít-ra-en trước mình.

Sanh-ma-na-xe, vua A-xy-ri, kéo lên tấn công Ô-sê. Ô-sê đã phải thần phục Sanh-ma-na-xe và nộp triều cống cho vua ấy.

Nhưng vua A-xy-ri khám phá ra Ô-sê âm mưu phản nghịch mình bằng cách phái sứ giả đến Sô, vua Ai-cập. Ô-sê cũng ngưng nộp triều cống cho Sanh-ma-na-xe như trước kia vua vẫn làm hằng năm. Vì thế vua A-xy-ri bắt nhốt Ô-sê.

Rồi vua A-xy-ri đến tấn công toàn xứ Ít-ra-en. Vua vây Xa-ma-ri và tấn công nó trong ba năm. Đến năm thứ chín đời vua Ô-sê thì vua đánh thắng Xa-ma-ri và đày dân Ít-ra-en qua A-xy-ri. Ông cho họ định cư ở Ha-lát, miền Gô-san, trên sông Ha-bo, và trong các thành phố nước Mê-đi.

Dân Ít-ra-en bị trừng phạt vì tội lỗi mình

Tất cả những điều đó xảy ra vì dân Ít-ra-en đã phạm tội cùng CHÚA là Thượng Đế mình. Ngài đã mang họ ra khỏi Ai-cập và giải cứu họ khỏi quyền lực của vua Ai-cập nhưng dân Ít-ra-en lại kính thờ các thần khác. Họ sống như các dân tộc mà CHÚA đã đuổi ra khỏi xứ trước khi họ đến. Họ sống theo như các vua làm ác của họ xúi giục, lén lút phạm tội nghịch cùng CHÚA là Thượng Đế mình.

Họ xây các nơi thờ cúng địa phương trong các thành phố mình, từ tháp canh cho đến thành có vách kiên cố. 10 Họ dựng các trụ đá cho các tà thần và tượng A-sê-ra trên mỗi đồi cao và dưới mỗi cây xanh. 11 Dân Ít-ra-en đốt hương tại nơi nào họ thờ cúng địa phương [c] giống như các dân sống trước họ ở đó đã làm, các dân mà CHÚA đã đuổi ra khỏi xứ. Dân Ít-ra-en làm những điều ác chọc giận CHÚA. 12 Họ thờ các thần tượng mặc dù CHÚA đã cảnh cáo, “Các ngươi không được làm như thế.”

13 CHÚA dùng mọi nhà tiên tri và tiên kiến để cảnh cáo Ít-ra-en và Giu-đa. Ngài bảo, “Hãy từ bỏ đường lối gian ác của các ngươi và vâng theo mệnh lệnh cùng luật lệ ta. Hãy vâng theo những lời giáo huấn ta truyền cho tổ tiên các ngươi, những huấn lệnh mà ta ban cho các ngươi qua các tôi tớ ta là các nhà tiên tri.”

14 Nhưng dân chúng không chịu nghe. Họ ương ngạnh giống y như tổ tiên họ là những kẻ không chịu tin nơi CHÚA là Thượng Đế mình. 15 Họ gạt bỏ luật lệ CHÚA và giao ước mà Ngài đã lập với tổ tiên họ. Họ không chịu nghe lời cảnh cáo của Ngài. Họ thờ lạy các thần tượng vô dụng và chính mình cũng trở nên vô dụng. Họ làm giống như các dân tộc sống quanh họ, điều mà CHÚA cảnh cáo họ không được làm.

16 Dân chúng gạt bỏ mọi mệnh lệnh của CHÚA là Thượng Đế mình. Họ đúc hai tượng bò con và làm một tượng A-sê-ra. Họ thờ lạy các ngôi sao trên trời và phục vụ Ba-anh. 17 Họ thiêu sống con trai con gái mình và tìm cách đoán tương lai bằng ma thuật và bùa ếm. Họ chọn làm điều ác trước mặt CHÚA, chọc giận Ngài. 18 Vì CHÚA nổi giận cùng dân Ít-ra-en nên Ngài dẹp bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, chỉ còn chừa lại chi tộc Giu-đa mà thôi.

Giu-đa cũng phạm tội

19 Thậm chí Giu-đa cũng không vâng theo mệnh lệnh CHÚA là Thượng Đế mình. Họ làm giống y như Ít-ra-en đã làm,

20 cho nên CHÚA gạt bỏ toàn dân Ít-ra-en. Ngài trừng phạt họ và để cho các dân khác tiêu diệt họ; Ngài ném họ ra khỏi trước mặt Ngài. 21 Khi CHÚA tách họ ra khỏi gia đình Đa-vít thì dân Ít-ra-en lập Giê-rô-bô-am, con Nê-bát làm vua. Giê-rô-bô-am dẫn dụ dân Ít-ra-en xa cách CHÚA và dẫn họ phạm tội tày đình. 22 Họ vẫn tiếp tục phạm các tội như Giê-rô-bô-am. Họ không ngưng phạm các tội đó 23 cho đến khi CHÚA dẹp bỏ dân Ít-ra-en ra khỏi trước mặt Ngài, như Ngài đã phán qua tất cả các tôi tớ Ngài là các nhà tiên tri. Vì thế dân Ít-ra-en bị đày đi khỏi xứ sang đất A-xy-ri, nơi họ vẫn ở cho đến ngày nay.

Nguồn gốc dân Xa-ma-ri

24 Vua A-xy-ri mang các dân từ Ba-by-lôn, Cu-tha, A-va, Ha-mát và Sê-phạt-va-im đến cho định cư trong các thành phố Xa-ma-ri thay thế cho dân Ít-ra-en. Các dân nầy chiếm Xa-ma-ri và ở trong các thành của họ. 25 Lúc đầu họ không thờ lạy CHÚA cho nên Ngài sai sư tử đến giết một số người trong vòng họ. 26 Vua A-xy-ri được báo cáo, “Vua cho một số người ngoại quốc vào ở trong các thành Xa-ma-ri. Họ không biết luật lệ của thần xứ đó cho nên Ngài sai sư tử đến. Sư tử giết họ vì họ không biết ý muốn của thần.”

27 Vua A-xy-ri liền truyền lệnh, “Hãy mang trả về một trong các thầy tế lễ mà các ngươi đã đày đi. Để người ở đó dạy dân chúng biết ý muốn của thần.”

28 Vậy một trong các thầy tế lễ đã bị đày từ Xa-ma-ri trở về sống ở Bê-tên. Ông dạy cho dân chúng biết cách thờ phụng CHÚA.

29 Nhưng mỗi một dân lập các thần lấy cho mình và đặt chúng trong các điện thờ nơi thành họ cư ngụ. Những điện thờ nầy trước kia do người Xa-ma-ri xây nên. 30 Dân Ba-by-lôn dựng thần Su-cốt-Bê-nốt. Dân Cu-tha thờ thần Nẹt-ganh. Dân Ha-mát thờ thần A-si-ma. 31 Người A-vít thờ thần Níp-ha và Tạc-tắc. Người Sê-phạt-va-im thiêu con mình trong lửa, dâng chúng nó cho Ách-ra-mê-léc và A-na-mê-léc, hai thần của Sê-phạt-va-im.

32 Họ cũng tôn thờ CHÚA nhưng tự chọn cho mình các thầy tế lễ cho nơi nào họ thờ tà thần. Họ tự chọn các thầy tế lễ trong số họ để dâng sinh tế cho dân chúng. 33 Dân chúng thờ phụng CHÚA nhưng cũng thờ phụng thần của mình như các dân tộc mà họ rời bỏ khi bị đày.

34 Cho đến ngày nay họ cũng làm y như thuở trước. Họ không thờ phụng CHÚA hay vâng theo qui tắc và mệnh lệnh Ngài. Họ không nghe theo lời giáo huấn hay mệnh lệnh của CHÚA mà Ngài đã truyền cho con cháu Gia-cốp, người mà Ngài đặt tên là Ít-ra-en. 35 CHÚA đã lập một giao ước với họ và truyền lệnh cho họ rằng, “Đừng tôn thờ các thần khác. Đừng quì lạy trước chúng nó, thờ phụng hay dâng sinh tế cho chúng. 36 Hãy thờ phụng CHÚA là Đấng mang ngươi ra khỏi xứ Ai-cập bằng quyền năng và sức mạnh Ngài. Hãy thờ lạy một mình Ngài và dâng sinh tế cho Ngài mà thôi. 37 Hãy luôn luôn vâng theo các qui tắc, mệnh lệnh, lời giáo huấn, và điều răn Ngài viết ra cho ngươi. Đừng tôn kính thần nào khác. 38 Đừng quên giao ước ta lập với ngươi, đừng tôn thờ thần nào khác. 39 Hãy thờ phụng CHÚA là Thượng Đế ngươi, Đấng giải cứu ngươi khỏi mọi kẻ thù.”

40 Nhưng dân Ít-ra-en không chịu nghe lời. Con cháu họ ngày nay vẫn tiếp tục làm giống như tổ tiên mình trước kia. 41 Cho nên các dân tộc đó tôn thờ CHÚA nhưng cũng thờ lạy các thần mình. Con cháu họ cũng làm y như tổ tiên mình cho đến ngày nay.

Footnotes

  1. II Các Vua 16:3 dùng con trai mình làm của lễ thiêu Nguyên văn, “đưa con trai mình qua lửa.”
  2. II Các Vua 16:17 Cái Biển Một bồn lớn chứa nước.
  3. II Các Vua 17:11 nơi nào họ thờ cúng địa phương Hay các “gò cao,” tức là những nơi họ thờ các thần giả. Những nơi nầy thường là các đồi hay núi.

A-kha Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 28:1-27)

16 Năm thứ mười bảy của triều đại Pê-ca con của Rê-ma-li-a, A-kha con của Giô-tham lên ngôi làm vua Giu-đa. A-kha được hai mươi tuổi khi bắt đầu trị vì. Ông trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông không làm những điều đúng trước mặt Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, không như tổ tiên của ông là Ða-vít đã làm, nhưng ông đi theo đường lối của các vua I-sơ-ra-ên. Thậm chí ông còn thiêu dâng con trai ông trong lửa, theo thói tục gớm ghiếc của các dân mà Chúa đã đuổi đi trước mặt dân I-sơ-ra-ên. Ông dâng con vật hiến tế và dâng hương trên các tế đàn ở những nơi cao, trên núi, và dưới những cây xanh.

Bấy giờ Rê-xin vua A-ram và Pê-ca con của Rê-ma-li-a vua I-sơ-ra-ên kéo đến gây chiến với Giê-ru-sa-lem. Họ bao vây A-kha nhưng không thắng được ông. Thuở ấy vua Ê-đôm cũng lấy lại Ê-la cho Ê-đôm và đuổi người Giu-đa ở Ê-la đi, rồi đem người Ê-đôm đến chiếm ngụ, và họ cứ ở đó cho đến ngày nay.

A-kha sai các sứ giả đến với Tích-lát Pi-lê-se vua A-sy-ri xin rằng, “Tôi là tôi tớ ngài và là con trai của ngài. Xin ngài đến giải cứu tôi khỏi tay vua A-ram và vua I-sơ-ra-ên, vì họ đang vây hãm tôi.”

A-kha lấy những vật dụng bằng bạc và bằng vàng trong Ðền Thờ Chúa và trong các kho của hoàng cung làm quà biếu vua A-sy-ri. Vua A-sy-ri nghe lời yêu cầu của A-kha, nên đã dẫn quân đến tấn công Ða-mách, chiếm thành ấy, bắt dân chúng ở đó đem về Ki-rơ lưu đày, và giết chết Rê-xin.

10 Khi Vua A-kha đến Ða-mách để hội kiến với Tích-lát Pi-lê-se vua A-sy-ri và thấy một bàn thờ ở Ða-mách, Vua A-kha liền gởi về cho Tư Tế U-ri-a mô hình của bàn thờ đó, với kiểu mẫu và kích thước giống hệt bàn thờ ông đã thấy. 11 Tư Tế U-ri-a bèn làm một bàn thờ đúng y như kiểu mẫu mà Vua A-kha khi ở Ða-mách đã gởi về. Tư Tế U-ri-a thực hiện xong việc đó trước khi Vua A-kha ở Ða-mách trở về. 12 Khi Vua A-kha ở Ða-mách trở về, ông đến xem bàn thờ ấy. Vua đến gần bàn thờ mới, bước lên, 13 dâng của lễ thiêu, của lễ chay, đổ của lễ quán, và rảy huyết các con vật hiến tế của lễ cầu an nơi bàn thờ ấy. 14 Ông cho di chuyển bàn thờ bằng đồng vốn ở trước đền thờ, tức ở khoảng giữa bàn thờ ông mới làm và Ðền Thờ Chúa, mà đem đặt ở phía bắc của bàn thờ ông mới làm. 15 Vua A-kha truyền cho Tư Tế U-ri-a, “Từ nay hãy dâng của lễ thiêu buổi sáng và của lễ chay buổi chiều, cùng với của lễ thiêu của vua, của lễ chay của vua, của lễ thiêu của toàn dân trong nước, của lễ chay của họ, của lễ quán của họ, và rảy huyết các con vật hiến tế dâng làm của lễ thiêu trên bàn thờ lớn nầy, còn bàn thờ bằng đồng thì chỉ để dành cho ta cầu vấn.” 16 Tư Tế U-ri-a làm y theo mọi điều Vua A-kha đã truyền cho ông.

17 Kế đó Vua A-kha cho gỡ bỏ những chiếc xe bằng đồng và những bồn nước trên các xe đó xuống. Ông cũng lấy bể nước đặt trên lưng các con bò bằng đồng đem đặt trên một bệ bằng đá. 18 Ông cũng dẹp bỏ lều che nắng dùng trong ngày Sa-bát nơi sân đền thờ; còn lối vào dành đặt biệt cho vua ở phía trước Ðền Thờ Chúa ông cũng dẹp bỏ. Ông làm tất cả những việc ấy để làm vừa lòng vua A-sy-ri.

19 Những việc khác A-kha đã làm há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 20 A-kha an giấc với các tổ tiên ông và được chôn bên cạnh họ trong Thành Ða-vít. Ê-xê-chia con trai ông lên ngôi kế vị.

Hô-sê-a Trị Vì I-sơ-ra-ên

(2 Sử 18:9-12)

17 Năm thứ mười hai của triều đại A-kha vua Giu-đa, Hô-sê-a con của Ê-la lên ngôi làm vua I-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Ông trị vì chín năm. Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa, nhưng không như các vua I-sơ-ra-ên trước ông. Sanh-ma-nê-se vua A-sy-ri kéo đến đánh ông. Hô-sê-a trở thành một chư hầu của vua ấy và phải nộp triều cống cho vua ấy. Nhưng vua A-sy-ri thấy Hô-sê-a có ý làm phản, vì ông đã sai sứ giả đến cầu xin Sô vua Ai-cập đến giúp đỡ. Ngoài ra ông cũng không nộp triều cống hằng năm cho vua A-sy-ri như thường làm nữa. Vì thế vua A-sy-ri đến bắt ông và giam ông vào ngục.

Dân I-sơ-ra-ên Bị Lưu Ðày

Bấy giờ vua A-sy-ri xâm lăng xứ và tiến đánh Sa-ma-ri. Vua ấy bao vây thành Sa-ma-ri ba năm. Năm thứ chín của triều đại Hô-sê-a, vua A-sy-ri chiếm được thành Sa-ma-ri. Vua ấy bắt dân I-sơ-ra-ên đem về A-sy-ri. Ông cho họ định cư tại Ha-la, bên bờ Sông Ha-bơ, miền Gô-xan, và trong các thành của xứ Mê-đi.

Việc ấy xảy ra vì dân I-sơ-ra-ên đã phạm tội đối với Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, Ðấng đã đem họ ra khỏi đất Ai-cập, tức khỏi tay của Pha-ra-ôn vua Ai-cập. Họ đã thờ phượng các thần khác, sống theo các tập tục của những dân Chúa đã đuổi đi trước mặt dân I-sơ-ra-ên, và làm theo các thói tục do các vua I-sơ-ra-ên bày ra.

Dân I-sơ-ra-ên đã lén lút làm những việc không đẹp lòng Chúa, Ðức Chúa Trời của họ. Họ đã xây dựng cho họ những tế đàn trên các nơi cao trong các thành của họ, từ những tháp canh cho đến những thành trì kiên cố. 10 Họ dựng cho họ những trụ thờ bằng đá và những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra trên các núi đồi và dưới những cây xanh. 11 Họ thiêu dâng các lễ vật trên các tế đàn ở những nơi cao, giống như các dân Chúa đã đuổi đi trước mặt họ. Họ làm những điều tội lỗi chọc giận Chúa. 12 Họ thờ các thần tượng mà Chúa đã bảo, “Các ngươi chớ thờ chúng.” 13 Tuy Chúa đã sai các đấng tiên tri và các nhà tiên kiến đến cảnh cáo I-sơ-ra-ên và Giu-đa rằng, “Hãy quay khỏi những đường lối tội lỗi của các ngươi, và hãy tuân giữ những điều răn và mạng lịnh của Ta, tức toàn bộ luật pháp mà Ta đã truyền cho tổ tiên các ngươi và mọi điều Ta đã sai các tôi tớ Ta là các tiên tri rao bảo cho các ngươi.” 14 Nhưng họ không nghe và cứ ương ngạnh, giống như tổ tiên của họ đã làm, đó là những người đã không tin vào Chúa, Ðức Chúa Trời của họ. 15 Họ coi thường các mạng lịnh của Ngài và các giao ước Ngài đã lập với tổ tiên họ. Họ cũng coi thường những lời cảnh cáo mà Ngài đã sai các sứ giả của Ngài đến cảnh cáo họ. Họ cứ đi theo các thần tượng giả dối và trở thành những kẻ giả dối. Họ bắt chước các dân tộc chung quanh họ, tức các dân tộc mà Chúa đã căn dặn họ không được làm như các dân tộc ấy. 16 Họ loại bỏ Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, mà đúc cho họ tượng hai con bò con và dựng những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra lên để thờ lạy. Họ thờ phượng các thiên binh trên trời và thờ lạy Thần Ba-anh. 17 Họ thiêu sống con trai và con gái của họ trong lửa để dâng cho các thần tượng. Họ tin theo các phù thủy và các thầy bói. Họ bán chính mình để làm những tội lỗi gớm ghiếc trước mặt Chúa và chọc giận Ngài. 18 Vì thế Chúa rất giận dân I-sơ-ra-ên, và Ngài đã cất bỏ họ khỏi thánh nhan Ngài, chỉ còn lại chi tộc Giu-đa.

19 Nhưng người Giu-đa cũng không vâng giữ các điều răn của Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, nhưng đi theo các thói tục người I-sơ-ra-ên đã bày ra. 20 Vì thế Chúa đã từ bỏ toàn thể con cháu của I-sơ-ra-ên. Ngài phạt họ và phó họ vào tay những kẻ cướp đoạt họ cho đến khi Ngài loại hẳn họ ra khỏi thánh nhan Ngài.

21 Khi Ngài xé rách dân I-sơ-ra-ên ra khỏi nhà Ða-vít, họ lập Giê-rô-bô-am con của Nê-bát lên làm vua. Giê-rô-bô-am đã lôi kéo dân I-sơ-ra-ên xa cách Chúa và đã xúi họ phạm tội trọng. 22 Dân I-sơ-ra-ên cứ tiếp tục đi theo những tội lỗi Giê-rô-bô-am đã gây ra. Họ không chịu từ bỏ những tội lỗi ấy 23 cho đến khi Chúa cất bỏ họ khỏi thánh nhan Ngài, như Ngài đã bảo trước qua các vị tiên tri, tức các tôi tớ Ngài. Vì thế I-sơ-ra-ên bị lưu đày khỏi xứ sở của họ, phải đến sống ở A-sy-ri cho đến ngày nay.

Dân Ngoại Ðịnh Cư tại Sa-ma-ri

24 Vua A-sy-ri bắt dân từ Ba-by-lôn, Cư-thác, A-va, Ha-mát, và Sê-phạc-va-im đến định cư trong các thành của Sa-ma-ri, thế chỗ của dân I-sơ-ra-ên. Các dân ấy đến chiếm lấy Sa-ma-ri và định cư trong các thành của xứ ấy. 25 Khi mới đến định cư tại đó, họ không thờ phượng Chúa, nên Chúa đã sai các sư tử đến vồ chết một số người của họ. 26 Người ta tâu với vua A-sy-ri rằng, “Các dân tộc mà ngài đã trục xuất và đày đến định cư trong các thành ở Sa-ma-ri không biết cách thức thờ phượng vị thần của xứ ấy. Vì thế vị thần của xứ ấy đã sai các sư tử đến vồ chết một số người của họ, bởi họ không biết cách thức thờ phượng vị thần ấy như thế nào.”

27 Vua A-sy-ri bèn truyền lịnh, “Các ngươi hãy chọn một người trong số những tư tế đã bị bắt đem lưu đày. Hãy đưa người ấy trở về xứ để sống tại đó, hầu người ấy sẽ dạy chúng biết cách thờ phượng vị thần của xứ ấy.” 28 Vậy một tư tế trong số những tư tế bị bắt đem lưu đày khỏi Sa-ma-ri được cho trở về và sống tại Bê-tên. Người ấy dạy cho họ biết phải thờ phượng Chúa như thể nào.

29 Tuy nhiên mỗi dân tộc đều làm những tượng thần riêng của họ, đem đặt những tượng thần ấy vào các khám thờ, rồi mang vào để trong các đền miếu trên các nơi cao mà người Sa-ma-ri đã xây. Dân tộc nào cũng lập những vị thần riêng cho mình trong các thành họ ở. 30 Dân Ba-by-lôn dựng tượng Thần Su-cốt Bê-nốt, dân Cút lập tượng Thần Nẹt-ganh, dân Ha-mát lập tượng Thần A-si-ma, 31 dân A-vi lập tượng Thần Níp-ha và Tạt-tắc, dân Sê-phạc-va-im thiêu con thơ của họ trong lửa cho Thần Át-ram-mê-léc và Thần A-nam-mê-léc, các thần của dân Sê-phạc-va-im. 32 Các dân tộc ấy cũng thờ phượng Chúa và tự chọn trong vòng họ đủ hạng người mà lập làm các tư tế cho các đền miếu ở những nơi cao. Các tư tế ấy thay mặt họ dâng các con vật hiến tế trên các tế đàn ở những nơi cao. 33 Như vậy các dân tộc ấy vừa thờ phượng Chúa nhưng cũng thờ phượng các thần của họ. Họ cứ giữ các phong tục mà dân tộc họ đã có trước khi bị lưu đày. 34 Họ vẫn tiếp tục giữ các phong tục ngày trước của họ cho đến ngày nay. Họ không kính sợ Chúa và cũng không tuân giữ các quy tắc, mạng lịnh, luật pháp, hay điều răn mà Chúa đã truyền cho các con cháu Gia-cốp, người Ngài đã đặt tên là I-sơ-ra-ên. 35 Chúa đã lập giao ước với dân I-sơ-ra-ên và truyền cho họ rằng, “Các ngươi chớ thờ phượng các thần khác, chớ thờ lạy chúng, chớ phục vụ chúng, và cũng chớ dâng các con vật hiến tế cho chúng. 36 Nhưng các ngươi chỉ thờ phượng Chúa, Ðấng đã đưa cánh tay quyền năng của Ngài ra, đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập. Các ngươi chỉ thờ lạy một mình Ngài và chỉ dâng các con vật hiến tế lên Ngài. 37 Những quy tắc, mạng lịnh, luật pháp, và điều răn mà Ngài đã viết ra cho các ngươi, các ngươi phải cẩn thận vâng giữ. Các ngươi chớ thờ phượng các thần khác. 38 Các ngươi chớ quên giao ước Ta đã lập với các ngươi. Các ngươi chớ thờ lạy các thần khác. 39 Nhưng các ngươi chỉ thờ phượng Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi. Ngài sẽ giải cứu các ngươi khỏi tay mọi kẻ thù của các ngươi.”

40 Các dân tộc mới đến cũng không nghe theo. Họ vẫn cứ tiếp tục thờ phượng các thần riêng của họ theo phong tục trước kia của họ. 41 Vậy các dân tộc đó vừa thờ phượng Chúa và cũng vừa thờ phượng các thần do họ chạm khắc hoặc đúc nên. Sau đó con cháu họ và con cháu của con cháu họ cứ tiếp tục theo truyền thống của tổ tiên họ mà làm như thế cho đến ngày nay.