Add parallel Print Page Options

Ê-xê-chia Trị Vì Giu-đa

18 Năm thứ ba triều vua Ô-sê, con trai Ê-la, của Y-sơ-ra-ên, thì Ê-xê-chia, con trai vua A-cha của Giu-đa lên ngôi làm vua. Vua được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu trị vì. Vua trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà A-bi, con gái của Xa-cha-ri. Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA như tổ phụ Đa-vít của vua đã làm. Vua dẹp bỏ những nơi cao, đập vỡ các tượng thờ bằng đá, và đốn hạ những trụ thờ nữ thần A-sê-ra. Vua đập nát con rắn bằng đồng mà Môi-se đã làm. Vì cho đến lúc đó dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn dâng hương cho con rắn bằng đồng ấy. Người ta gọi nó là Nê-hu-tan.

Vua tin cậy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Trong số những vị vua của Giu-đa sau vua thì không ai được như thế, còn trong số các vị vua trước vua thì cũng chẳng ai được như vậy. Vì vua bám chặt lấy CHÚA. Vua chẳng rời bỏ Ngài, nhưng gìn giữ những điều răn mà CHÚA đã truyền cho Môi-se. CHÚA ở cùng vua; vua làm điều gì cũng được thành công. Vua nổi dậy chống lại vua A-si-ri và không chịu thần phục vua ấy nữa. Vua tiến đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và những vùng phụ cận, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.

Năm thứ tư triều vua Ê-xê-chia, tức là năm thứ bảy triều vua Ô-sê, con trai Ê-la, của Y-sơ-ra-ên, vua Sanh-ma-na-se của A-si-ri đến tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy. 10 Cuối ba năm, vua ấy chiếm được thành. Năm thứ sáu triều vua Ê-xê-chia, tức là năm thứ chín triều vua Ô-sê của Y-sơ-ra-ên, Sa-ma-ri bị thất thủ. 11 Vua A-si-ri bắt dân Y-sơ-ra-ên đem lưu đày ở A-si-ri, cho họ định cư ở Ha-la bên bờ sông Cha-bo, thuộc xứ Gô-sen, và trong các thành của xứ Mê-đi. 12 Bởi vì họ không vâng theo tiếng CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, nhưng vi phạm giao ước Ngài, tức là tất cả những điều Môi-se, tôi tớ của CHÚA, đã truyền ban. Họ không nghe và cũng chẳng thi hành.

San-chê-ríp Xâm Lăng Giu-đa

13 Năm thứ mười bốn triều vua Ê-xê-chia, vua San-chê-ríp của A-si-ri, đến tấn công các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy. 14 Vua Ê-xê-chia của Giu-đa sai sứ đến gặp vua của A-si-ri tại La-chi và tâu rằng: “Tôi có lỗi. Xin vua hãy lui binh. Vua muốn điều chi, tôi cũng chịu cả.” Vua của A-si-ri đòi vua Ê-xê-chia của Giu-đa phải nộp ba trăm ta-lâng bạc[a] và ba mươi ta-lâng vàng.[b] 15 Vua Ê-xê-chia lấy tất cả bạc trong đền thờ CHÚA và trong các kho tàng của hoàng cung mà nộp cho vua ấy.

16 Bấy giờ vua Ê-xê-chia phải gỡ vàng bọc trên những cánh cửa của đền thờ CHÚA, và vàng mà vua đã cẩn trên những khung cửa ấy, để đem nộp cho vua A-si-ri.

17 Nhưng vua A-si-ri lại sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê,[c] cùng một đạo binh rất lớn từ La-chi đến với Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và đến Giê-ru-sa-lem. Khi tiến gần, họ đến và dừng lại tại đầu kênh dẫn nước của hồ trên, tức là chỗ con đường dẫn đến cánh đồng của thợ nện. 18 Rồi họ yêu cầu được hội kiến với vua. Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và Giô-a con trai A-sáp, quan quản lý văn khố, ra gặp họ.

19 Ráp-sa-kê nói với họ: “Hãy về bảo Ê-xê-chia: Đại đế ta là vua của A-si-ri có phán như vầy: Ngươi dựa vào gì mà tự tin như vậy? 20 Bộ ngươi tưởng rằng trong chiến tranh mà lời nói suông có thể thay thế được mưu lược và sức mạnh sao? Ngươi dựa vào gì mà ngươi dám chống lại ta? 21 Kìa, ngày nay ngươi dựa vào Ai-cập chăng. Đó là một cây sậy gãy. Ai dựa vào nó ắt sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Bất cứ kẻ nào dựa vào Pha-ra-ôn, vua của Ai-cập, sẽ bị như vậy. 22 Nhưng nếu ngươi bảo ta rằng: ‘Chúng tôi tin cậy vào CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng tôi,’ thì há chẳng phải Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các tế đàn của Ngài trên các nơi cao, rồi bảo dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng: ‘Các ngươi chỉ thờ phượng Ngài ở bàn thờ tại Giê-ru-sa-lem mà thôi’ sao? 23 Bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta là vua A-si-ri đi. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi có đủ kỵ binh để cỡi. 24 Liệu các ngươi nhờ cậy vào các xe chiến mã và các kỵ binh của Ai-cập mà có thể chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ ta chăng? 25 Hơn nữa, há không phải là ý CHÚA mà ta đến đây để hủy diệt xứ này sao? CHÚA bảo ta rằng: Hãy lên đánh xứ này và tiêu diệt nó đi.”

26 Bấy giờ Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, với Sép-na và Giô-a nói với Ráp-sa-kê rằng: “Xin hãy nói với các tôi tớ ông bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa, kẻo dân trên tường thành nghe được.”

27 Nhưng Ráp-sa-kê đáp lại họ: “Há chủ ta chỉ sai ta đến nói những lời này với chủ các ngươi và với các ngươi, mà không nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, tức những người đang ăn phân và uống nước tiểu của mình, nữa sao?”

28 Đoạn Ráp-sa-kê đứng dậy và nói lớn bằng tiếng Giu-đa rằng: “Hãy nghe lời của đại đế ta là vua A-si-ri. 29 Vua phán như vầy: Chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì ông ấy không thể giải thoát các ngươi khỏi tay ta được đâu. 30 Chớ để Ê-xê-chia xúi giục các ngươi nương cậy nơi CHÚA, mà rằng: ‘CHÚA sẽ chắc chắn giải cứu chúng ta, và thành này sẽ không bị phó vào tay vua A-si-ri đâu.’

31 Chớ nghe theo lời của Ê-xê-chia, vì vua của A-si-ri có phán như vầy: Hãy làm hòa với ta và ra đây với ta, thì mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả của vườn nho và vườn vả mình, sẽ được uống nước của giếng mình, 32 cho đến khi ta đến đem các ngươi qua một xứ giống như xứ của các ngươi, một xứ có lúa và rượu, một xứ có bánh và vườn nho, một xứ có dầu ô-liu và mật, để các ngươi sẽ sống và không chết. Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi đi sai lạc khi ông ấy nói rằng: ‘CHÚA sẽ giải cứu chúng ta.’ 33 Có thần của dân tộc nào đã giải cứu xứ họ thoát khỏi tay của vua A-si-ri chưa? 34 Các thần của dân Ha-mát và dân Ạt-bát ở đâu? Các thần của dân Sê-phạt-va-im, dân Hê-na, và dân Y-va ở đâu? Các thần ấy có giải cứu Sa-ma-ri thoát khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả các thần của các nước, có thần nào đã giải cứu nước họ thoát khỏi tay của ta chăng? Thế thì CHÚA há có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem thoát khỏi tay của ta sao?”

36 Nhưng dân chúng đều im lặng, chẳng ai đáp lại một lời, vì vua có truyền rằng: “Đừng trả lời hắn.”

37 Bấy giờ Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và Giô-a con trai A-sáp, quan quản lý văn khố, xé rách áo mình, đến với vua Ê-xê-chia tâu trình những lời Ráp-sa-kê đã nói.

Footnotes

  1. 18:14 Khoảng 9,000 kg
  2. 18:14 Khoảng 900 kg
  3. 18:17 Tạt-tan, Ráp-sa-ri và Ráp-sa-kê là ba chức vụ chỉ huy quân đội tương đương với Tổng Tư Lệnh, Tham Mưu Trưởng và Tư Lệnh Chiến Trường

Ê-xê-chia Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 29:1-2; 31:1, 20-21; 2Vua 17:3-7)

18 Năm thứ ba của triều đại Hô-sê-a con của Ê-la vua I-sơ-ra-ên, Ê-xê-chia con của A-kha vua Giu-đa bắt đầu trị vì. Ông được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu làm vua. Ông trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là A-bi con gái của Xê-ca-ri-a. Ông làm điều tốt trước mặt Chúa giống như Ða-vít tổ tiên ông đã làm. Ông dẹp bỏ những nơi cao, đập vỡ các tượng thờ bằng đá, và đốn hạ những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra. Ông đập nát con rắn bằng đồng Môi-se đã làm, vì cho đến lúc đó dân I-sơ-ra-ên vẫn còn dâng hương cho con rắn bằng đồng ấy. Người ta gọi nó là Nê-hút-tan. Ông tin cậy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. Trong số những vị vua Giu-đa sau ông, không ai được như thế, và trong số các vị vua trước ông, cũng chẳng ai được như vậy, vì ông bám chặt lấy Chúa. Ông chẳng rời bỏ Ngài, nhưng gìn giữ những điều răn mà Chúa đã truyền cho Môi-se. Chúa ở với ông, nên ông làm gì cũng được thành công. Ông nổi lên chống lại vua A-sy-ri và không chịu thần phục vua ấy nữa. Ông tiến đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và những vùng phụ cận, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.

Năm thứ tư của triều đại Ê-xê-chia, tức năm thứ bảy của triều đại Hô-sê-a con của Ê-la vua I-sơ-ra-ên, Sanh-ma-nê-se vua A-sy-ri đến tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy. 10 Cuối ba năm vua ấy chiếm được thành. Năm thứ sáu của triều đại Ê-xê-chia, tức năm thứ chín của triều đại Hô-sê-a vua I-sơ-ra-ên, Sa-ma-ri bị thất thủ. 11 Vua A-sy-ri bắt dân I-sơ-ra-ên đem đi lưu đày ở A-sy-ri. Ông cho họ định cư bên bờ Sông Ha-bơ, miền Gô-xan, và trong các thành của xứ Mê-đi, 12 bởi vì họ không vâng theo tiếng Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, nhưng vi phạm giao ước Ngài, tức tất cả những điều Môi-se tôi tớ Chúa đã truyền. Họ không nghe theo và cũng chẳng thi hành những điều ấy.

Sên-na-chê-ríp Xâm Lăng Giu-đa

(2 Sử 32:9-19; Ê-sai 36:1-12)

13 Năm thứ mười bốn của triều đại Vua Ê-xê-chia, Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri đến tấn công các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy chúng. 14 Ê-xê-chia vua Giu-đa sai sứ giả đến gặp vua A-sy-ri tại La-kích và tâu rằng, “Tôi có lỗi. Xin ngài lui binh. Ngài muốn điều chi, tôi cũng chịu cả.” Vua A-sy-ri đòi Ê-xê-chia vua Giu-đa phải nộp mười ngàn hai trăm ký bạc và một ngàn hai mươi ký vàng.[a] 15 Vì thế Ê-xê-chia phải lấy tất cả bạc trong Ðền Thờ Chúa và trong các kho tàng của hoàng cung nộp cho vua ấy. 16 Bấy giờ Ê-xê-chia phải gỡ vàng bọc trên những cánh cửa của Ðền Thờ Chúa, tức vàng mà Ê-xê-chia vua Giu-đa đã cẩn trên những cánh cửa ấy, để đem nộp cho vua A-sy-ri.

17 Dầu vậy vua A-sy-ri vẫn sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê,[b] cùng một đạo binh rất lớn từ La-kích đến đánh Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và hãm áp Giê-ru-sa-lem. Khi đến gần thành, họ tiến vào, rồi dừng lại tại đầu kênh dẫn nước của Thượng Hồ, nơi con đường dẫn đến cánh đồng của thợ nện, 18 và yêu cầu được hội kiến với vua. Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan ký lục, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố đi ra gặp họ.

19 Ráp-sa-kê nói với họ, “Hãy về và bảo Ê-xê-chia: Ðại đế của ta là vua A-sy-ri đã phán như thế nầy: Ngươi dựa vào gì mà tự tin như vậy? 20 Bộ ngươi tưởng rằng trong chiến tranh, lời nói suông có thể thay thế được mưu lược và sức mạnh sao? Ngươi dựa vào gì mà dám chống lại ta? 21 Kìa, ngày nay ngươi dựa vào Ai-cập chăng? Ðó chỉ là một cây sậy gãy. Ai dựa vào nó ắt sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Bất cứ kẻ nào dựa vào Pha-ra-ôn vua Ai-cập sẽ bị như vậy. 22 Còn nếu ngươi bảo ta rằng, ‘Chúng tôi tin cậy Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi,’ thì há chẳng phải Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các tế đàn của Ngài trên các nơi cao, rồi bảo dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Các ngươi chỉ thờ phượng Ngài ở trước bàn thờ tại Giê-ru-sa-lem mà thôi’ sao? 23 Bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta là vua A-sy-ri đi. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi có đủ kỵ binh để cỡi. 24 Liệu các ngươi nhờ cậy vào các xe chiến mã và các kỵ binh của Ai-cập mà có thể chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ ta chăng? 25 Hơn nữa há chẳng phải là ý Chúa mà ta đến đây để hủy diệt xứ nầy sao? Chúa đã bảo ta rằng: Hãy lên đánh xứ đó và tiêu diệt nó đi.”

26 Bấy giờ Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a, Sép-na, và Giô-a nói với Ráp-sa-kê rằng, “Xin ngài nói với các tôi tớ ngài bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa, kẻo dân ở trên tường thành nghe được.”

27 Nhưng Ráp-sa-kê đáp lại họ, “Há chủ ta đã sai ta đến chỉ để nói những lời nầy với chủ các ngươi và với các ngươi, mà không nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, tức những người đang ăn phân và uống nước tiểu của mình cùng với các ngươi, nữa sao?”

28 Ðoạn Ráp-sa-kê đứng dậy và nói lớn bằng tiếng Giu-đa rằng, “Hãy nghe lời đại đế của ta là vua A-sy-ri. 29 Vua của ta phán như thế nầy: Chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì hắn không thể giải thoát các ngươi khỏi tay ta đâu. 30 Chớ để Ê-xê-chia xúi giục các ngươi nương cậy vào Chúa mà rằng, ‘Chúa chắc chắn sẽ giải cứu chúng ta, và thành nầy sẽ không bị phó vào tay vua A-sy-ri.’ 31 Chớ nghe theo lời của Ê-xê-chia, vì vua A-sy-ri phán thế nầy: Hãy làm hòa với ta và ra đây với ta, thì mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả của vườn nho và vườn vả của mình và sẽ được uống nước giếng của mình, 32 cho đến khi ta đến đem các ngươi qua một xứ giống như xứ của các ngươi, một xứ có lúa và rượu, một xứ có bánh và vườn nho, một xứ có dầu ô-liu và mật, để các ngươi sống và không chết. Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi đi sai lạc khi hắn nói rằng, ‘Chúa sẽ giải cứu chúng ta.’ 33 Có thần của dân tộc nào đã giải cứu xứ sở của họ khỏi tay vua A-sy-ri chưa? 34 Các thần của dân Ha-mát và dân Ạc-pát ở đâu? Các thần của dân Sê-phạc-va-im, dân Hê-na, và dân I-va ở đâu? Các thần ấy có giải cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả các thần của các nước, có thần nào đã giải cứu được nước của họ khỏi tay ta chăng? Thế thì Chúa há có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta được sao?”

36 Nhưng dân chúng đều im lặng, chẳng ai đáp lại một lời, vì vua đã truyền rằng, “Ðừng trả lời hắn.” 37 Bấy giờ Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan bí thư, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố xé rách áo họ, rồi vào thành gặp vua Ê-xê-chia tâu trình những lời Ráp-sa-kê đã nói.

Footnotes

  1. II Các Vua 18:14 nt: 300 ta-lâng bạc và 30 ta-lâng vàng
  2. II Các Vua 18:17 Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê là tên những chức vụ chỉ huy quân đội, có thể tạm dịch là Tổng Tư Lệnh, Tham Mưu Trưởng, và Tư Lệnh Chiến Trường

Hiskia blir kung i Juda

18 (A) I Hoseas, Elas sons, Israels kungs, tredje regeringsår blev Hiskia, Ahas son, kung i Juda. Han var tjugofem år när han blev kung, och han regerade tjugonio år[a] i Jerusalem. Hans mor hette Abi och hon var dotter till Sakarja. (B) Han gjorde det som var rätt i Herrens ögon, precis som hans fader David hade gjort. (C) Han avskaffade offerhöjderna, slog sönder stoderna och högg ner Asheran. Dessutom krossade han den kopparorm som Mose hade gjort. Ända till denna tid hade nämligen Israels barn tänt offereld åt den, och man kallade den Nehushtan[b].

(D) Hiskia förtröstade på Herren, Israels Gud. Ingen var som han bland alla Juda kungar efter honom, inte heller bland dem som varit före honom. (E) Han höll sig till Herren och vek inte av från honom, utan höll de bud som Herren hade gett Mose. (F) Herren var med honom så att han hade framgång i allt han företog sig. Han avföll från Assyriens kung[c] och slutade tjäna honom. (G) Han slog också filisteerna och intog deras land ända till Gaza med dess område, såväl väktartorn som befästa städer.

Samarias fall

(H) I kung Hiskias fjärde regeringsår[d], som var Hoseas, Elas sons, Israels kungs, sjunde regeringsår, drog kung Shalmaneser av Assyrien upp mot Samaria och belägrade det. 10 De intog det efter tre år i Hiskias sjätte regeringsår. Under detta år, som var Israels kung Hoseas nionde regeringsår blev Samaria intaget. 11 Kungen av Assyrien förde bort Israel till Assyrien och lät dem slå sig ner i Hala[e] och vid floden Habor i Gozan[f] och i Mediens städer[g]. 12 Det hände därför att de inte lyssnade till Herren sin Guds röst, utan bröt mot hans förbund och varken ville lyssna eller göra allt det som Herrens tjänare Mose hade befallt.

Sanherib tågar mot Jerusalem

13 (I) I kung Hiskias fjortonde regeringsår drog Assyriens kung Sanherib[h] upp och angrep alla befästa städer i Juda[i] och intog dem. 14 Då sände Hiskia, Juda kung, bud till Assyriens kung i Lakish[j] och lät säga: ”Jag har handlat fel. Vänd om och lämna mig i fred. Det du lägger på mig ska jag bära.”

Kungen av Assyrien befallde då att Juda kung skulle betala trehundra talenter silver och trettio talenter guld[k]. 15 (J) Hiskia betalade ut alla pengar som fanns i Herrens hus och kungapalatsets skattkammare. 16 Vid det tillfället bröt Hiskia loss den beläggning av guld som fanns på dörrarna och dörrposterna i Herrens tempel och som kung Hiskia av Juda hade överdragit dem med, och han gav det till kungen av Assyrien.

Rab-Shakes tal

17 (K) Men kungen av Assyrien sände i väg Tartan, Rab-Saris och Rab-Shake[l] från Lakish med en stor här mot kung Hiskia i Jerusalem. Dessa drog upp och kom till Jerusalem. När de hade dragit dit upp och kommit fram, stannade de vid Övre dammens vattenledning, på vägen till Tvättarfältet. 18 (L) Och de begärde att få tala med kungen. Då gick överförvaltaren Eljakim, Hilkias son, och skrivaren Shebna[m] och kanslern Joa, Asafs son, ut till dem.

19 Rab-Shake sade till dem: ”Säg till Hiskia: Så säger den store kungen, Assyriens kung: Vad är det som gör dig så full av förtröstan? 20 Du menar kanske att det räcker med prat för att få strategi och styrka att föra krig? Vem förtröstar du på eftersom du har satt dig upp mot mig? 21 (M) Förtröstar du på den brutna rörstaven Egypten? När man stöder sig på den, går den in i handen och genomborrar den. Sådan är farao, Egyptens kung, för alla som förtröstar på honom. 22 Eller säger ni till mig: Vi förtröstar på Herren vår Gud? Var det inte hans offerhöjder och altaren som Hiskia avskaffade när han sade till Juda och Jerusalem: Inför detta altare ska ni tillbe här i Jerusalem?

23 Men ingå nu ett vad med min herre, kungen av Assyrien: Jag ger dig tvåtusen hästar om du kan skaffa ryttare till dem! 24 (N) Hur skulle du kunna slå tillbaka en enda ståthållare, en av min herres ringaste tjänare? Och du sätter ditt hopp till Egypten för att få vagnar och ryttare! 25 Menar du att jag utan Herrens vilja har dragit upp mot den här platsen för att ödelägga den? Herren själv sade till mig: Dra upp mot det landet och ödelägg det.”

26 Då sade Eljakim, Hilkias son, och Shebna och Joa till Rab-Shake: ”Tala till dina tjänare på arameiska[n], för vi förstår det språket. Tala inte till oss på judiska inför folket som står på muren.” 27 (O) Men Rab-Shake svarade dem: ”Är det till din herre och till dig som min herre har sänt mig att tala dessa ord? Är det inte snarare till de män som sitter på muren och som ska få äta sin egen avföring och dricka sin egen urin tillsammans med er?”

28 Sedan ställde sig Rab-Shake och ropade högt på judiska: ”Hör den store kungens ord, kungen av Assyrien! 29 Så säger kungen: Låt inte Hiskia bedra er, för han kan inte rädda er ur min hand. 30 (P) Låt inte Hiskia få er att förtrösta på Herren när han säger: Herren kommer att rädda oss, och denna stad ska inte ges i den assyriske kungens hand.

31 Lyssna inte på Hiskia, för kungen av Assyrien säger: Gör upp i godo med mig och kom ut till mig. Då ska ni få äta var och en av sin vinstock och av sitt fikonträd och dricka var och en ur sin brunn, 32 tills jag kommer och hämtar er till ett land som liknar ert eget, ett land med säd och vin, ett land med bröd och vingårdar, ett land med ädla olivträd och honung. Då ska ni få leva och inte dö.

Lyssna inte på Hiskia, för han vill förleda er när han säger: Herren ska rädda oss. 33 (Q) Har någon av de andra folkens gudar någonsin räddat sitt land ur den assyriske kungens hand? 34 Var är Hamats och Arpads gudar? Var är Sefarvajims, Henas och Ivas gudar? Eller har de räddat Samaria ur min hand? 35 Vilken av de andra ländernas alla gudar har kunnat rädda sitt land ur min hand? Skulle då Herren kunna rädda Jerusalem ur min hand?”

36 Men folket teg och svarade honom inte ett ord, för kungen hade gett denna befallning: ”Svara honom inte.” 37 (R) Överförvaltaren Eljakim, Hilkias son, skrivaren Shebna och kanslern Joa, Asafs son, kom till Hiskia med sönderrivna kläder och berättade för honom vad Rab-Shake hade sagt.

Footnotes

  1. 18:1f Hiskia … tjugonio år   Ca 715-687 f Kr, men samregent med sin far Ahas redan från 729 f Kr. Hiskia betyder ”Herren är min styrka”. Moderns namn är en kortform av Abia (”Herren är min far”). Hans personliga sigill har hittats, dekorerat med en bevingad skarabé (egyptisk symbol för återuppståndelse) och orden ”Hiskia, Ahas son, kung av Juda”. Se även 2 Krön 29-32.
  2. 18:4 kopparorm … Nehushtan   Namnet liknar både hebr. nechóshet (”koppar”) och nachásh (”orm”). Kopparormen (4 Mos 21:9) var en förebild till Jesus på korset (Joh 3:14). En kopparorm på en påle finns också avbildad på en judisk kopparskål från denna tid som hittats i Nineve.
  3. 18:7 avföll från Assyriens kung   Troligen i samband med Sargon II:s död 705 f Kr (se not till 20:12).
  4. 18:9 fjärde regeringsår   År 725 f Kr (se 17:5) när Hiskia samregerat med Ahas i fyra år.
  5. 18:11 Hala   Troligen i trakten av Nineve i norra nuvarande Irak.
  6. 18:11 floden Habor i Gozan   Biflod till Eufrat vid en centralort i nordöstra Syrien. Israelitiska personnamn har hittats på lertavlor i staden Gozan.
  7. 18:11 Mediens städer   Nordvästra nuvarande Iran.
  8. 18:13 Sanherib   Regerade 705-681 f Kr och invaderade Juda 701 f Kr. Se även Jes 36-37.
  9. 18:13 angrep alla befästa städer i Juda   Förutsades av Mika (1:9f) och Jesaja (kap 10).
  10. 18:14 Lakish   Befäst storstad ca 6 mil sydväst om Jerusalem. Assyriska reliefer i Nineve avbildar stadens erövring och bortförandet av judiska slavar.
  11. 18:14 trehundra talenter silver och trettio talenter guld   Ca 9 ton silver och 0,9 ton guld.
  12. 18:17 Tartan, Rab-Saris och Rab-Shake   Assyriska titlar för överbefälhavaren, livvaktens befälhavare och överste munskänken.
  13. 18:18 skrivaren Shebna   Den degraderade före detta överförvaltaren (se Jes 22:19 med not).
  14. 18:26 arameiska   Dåtidens internationella språk, besläktat med hebreiska (”judiska”).

18 Now it came to pass in the third year of Hoshea son of Elah king of Israel, that Hezekiah the son of Ahaz king of Judah began to reign.

Twenty and five years old was he when he began to reign; and he reigned twenty and nine years in Jerusalem. His mother's name also was Abi, the daughter of Zachariah.

And he did that which was right in the sight of the Lord, according to all that David his father did.

He removed the high places, and brake the images, and cut down the groves, and brake in pieces the brasen serpent that Moses had made: for unto those days the children of Israel did burn incense to it: and he called it Nehushtan.

He trusted in the Lord God of Israel; so that after him was none like him among all the kings of Judah, nor any that were before him.

For he clave to the Lord, and departed not from following him, but kept his commandments, which the Lord commanded Moses.

And the Lord was with him; and he prospered whithersoever he went forth: and he rebelled against the king of Assyria, and served him not.

He smote the Philistines, even unto Gaza, and the borders thereof, from the tower of the watchmen to the fenced city.

And it came to pass in the fourth year of king Hezekiah, which was the seventh year of Hoshea son of Elah king of Israel, that Shalmaneser king of Assyria came up against Samaria, and besieged it.

10 And at the end of three years they took it: even in the sixth year of Hezekiah, that is in the ninth year of Hoshea king of Israel, Samaria was taken.

11 And the king of Assyria did carry away Israel unto Assyria, and put them in Halah and in Habor by the river of Gozan, and in the cities of the Medes:

12 Because they obeyed not the voice of the Lord their God, but transgressed his covenant, and all that Moses the servant of the Lord commanded, and would not hear them, nor do them.

13 Now in the fourteenth year of king Hezekiah did Sennacherib king of Assyria come up against all the fenced cities of Judah, and took them.

14 And Hezekiah king of Judah sent to the king of Assyria to Lachish, saying, I have offended; return from me: that which thou puttest on me will I bear. And the king of Assyria appointed unto Hezekiah king of Judah three hundred talents of silver and thirty talents of gold.

15 And Hezekiah gave him all the silver that was found in the house of the Lord, and in the treasures of the king's house.

16 At that time did Hezekiah cut off the gold from the doors of the temple of the Lord, and from the pillars which Hezekiah king of Judah had overlaid, and gave it to the king of Assyria.

17 And the king of Assyria sent Tartan and Rabsaris and Rabshakeh from Lachish to king Hezekiah with a great host against Jerusalem. And they went up and came to Jerusalem. And when they were come up, they came and stood by the conduit of the upper pool, which is in the highway of the fuller's field.

18 And when they had called to the king, there came out to them Eliakim the son of Hilkiah, which was over the household, and Shebna the scribe, and Joah the son of Asaph the recorder.

19 And Rabshakeh said unto them, Speak ye now to Hezekiah, Thus saith the great king, the king of Assyria, What confidence is this wherein thou trustest?

20 Thou sayest, (but they are but vain words,) I have counsel and strength for the war. Now on whom dost thou trust, that thou rebellest against me?

21 Now, behold, thou trustest upon the staff of this bruised reed, even upon Egypt, on which if a man lean, it will go into his hand, and pierce it: so is Pharaoh king of Egypt unto all that trust on him.

22 But if ye say unto me, We trust in the Lord our God: is not that he, whose high places and whose altars Hezekiah hath taken away, and hath said to Judah and Jerusalem, Ye shall worship before this altar in Jerusalem?

23 Now therefore, I pray thee, give pledges to my lord the king of Assyria, and I will deliver thee two thousand horses, if thou be able on thy part to set riders upon them.

24 How then wilt thou turn away the face of one captain of the least of my master's servants, and put thy trust on Egypt for chariots and for horsemen?

25 Am I now come up without the Lord against this place to destroy it? The Lord said to me, Go up against this land, and destroy it.

26 Then said Eliakim the son of Hilkiah, and Shebna, and Joah, unto Rabshakeh, Speak, I pray thee, to thy servants in the Syrian language; for we understand it: and talk not with us in the Jews' language in the ears of the people that are on the wall.

27 But Rabshakeh said unto them, Hath my master sent me to thy master, and to thee, to speak these words? hath he not sent me to the men which sit on the wall, that they may eat their own dung, and drink their own piss with you?

28 Then Rabshakeh stood and cried with a loud voice in the Jews' language, and spake, saying, Hear the word of the great king, the king of Assyria:

29 Thus saith the king, Let not Hezekiah deceive you: for he shall not be able to deliver you out of his hand:

30 Neither let Hezekiah make you trust in the Lord, saying, The Lord will surely deliver us, and this city shall not be delivered into the hand of the king of Assyria.

31 Hearken not to Hezekiah: for thus saith the king of Assyria, Make an agreement with me by a present, and come out to me, and then eat ye every man of his own vine, and every one of his fig tree, and drink ye every one the waters of his cistern:

32 Until I come and take you away to a land like your own land, a land of corn and wine, a land of bread and vineyards, a land of oil olive and of honey, that ye may live, and not die: and hearken not unto Hezekiah, when he persuadeth you, saying, The Lord will deliver us.

33 Hath any of the gods of the nations delivered at all his land out of the hand of the king of Assyria?

34 Where are the gods of Hamath, and of Arpad? where are the gods of Sepharvaim, Hena, and Ivah? have they delivered Samaria out of mine hand?

35 Who are they among all the gods of the countries, that have delivered their country out of mine hand, that the Lord should deliver Jerusalem out of mine hand?

36 But the people held their peace, and answered him not a word: for the king's commandment was, saying, Answer him not.

37 Then came Eliakim the son of Hilkiah, which was over the household, and Shebna the scribe, and Joah the son of Asaph the recorder, to Hezekiah with their clothes rent, and told him the words of Rabshakeh.