Add parallel Print Page Options

Đa-vít được cử làm vua trên Ít-ra-en

Rồi tất cả các chi tộc trong Ít-ra-en đến nói cùng Đa-vít tại Hếp-rôn rằng, “Nầy, chúng tôi cùng trong gia tộc [a] với ông. Khi Sau-lơ còn làm vua, ông đã là người hướng dẫn Ít-ra-en trong chiến trận. CHÚA phán cùng ông, ‘Ngươi sẽ làm người chăn dắt dân Ít-ra-en ta. Ngươi sẽ lãnh đạo họ.’”

Vậy tất cả các bô lão Ít-ra-en đến gặp vua Đa-vít tại Hếp-rôn và ông lập ước với họ tại đó truớc mặt CHÚA. Rồi họ đổ dầu trên Đa-vít để cử ông làm vua trên Ít-ra-en.

Đa-vít được ba mươi tuổi khi lên ngôi vua và trị vì bốn mươi năm. Ông cai trị trên Giu-đa bảy năm sáu tháng ở Hếp-rôn, và làm vua trên cả Ít-ra-en lẫn Giu-đa ba mươi ba năm ở Giê-ru-sa-lem.

Khi vua Đa-vít và những người theo ông đi đến Giê-ru-sa-lem để đánh dân Giê-bu-sít ở đó thì người Giê-bu-sít bảo Đa-vít, “Ngươi không thể xâm nhập vào thành chúng ta [b] được đâu vì bọn mù hay què cũng đủ ngăn chận ngươi rồi.” Chúng đoán rằng Đa-vít không thể xông vào thành chúng được. Nhưng Đa-vít chiếm được thành kiên cố gọi là Xi-ôn, và biến nó ra thành Đa-vít.

Hôm ấy Đa-vít bảo những người đi theo, “Các ngươi phải đi qua đường hầm dẫn nước [c] đến chỗ bọn kẻ thù ‘què’ và ‘mù’ Giê-bu-sít ấy. Các ngươi phải giết chúng vì Đa-vít ghét chúng. Vì thế mà người ta có câu, ‘Kẻ mù và què không được vào cung điện [d].’”

Vậy Đa-vít ở trong thành có vách vững bền, kiên cố và gọi nó là thành Đa-vít. Đa-vít xây thêm nhiều toà nhà quanh đó, bắt đầu từ chỗ Mi-lô [e] và hướng vào trong [f]. Ông cũng xây nhiều toà nhà nữa bên trong thành. 10 Ông trở nên càng ngày càng hùng mạnh vì CHÚA là Thượng Đế Toàn Năng ở với ông.

11 Hi-ram, vua thành Tia sai sứ đến cùng Đa-vít và gởi theo các cây hương nam, thợ mộc, và thợ đẽo đá. Họ xây một cung điện cho Đa-vít. 12 Đa-vít liền hiểu ra rằng CHÚA đã thực sự đặt ông làm vua trên Ít-ra-en và rằng CHÚA đã làm cho vương quốc ông hùng mạnh vì CHÚA yêu dân Ít-ra-en của Ngài.

13 Sau khi từ Hếp-rôn đến, Đa-vít lấy thêm các vợ và thê thiếp ở Giê-ru-sa-lem. Đa-vít sinh thêm nhiều con trai và con gái. 14 Đây là tên của những con trai sinh cho Đa-vít tại Giê-ru-sa-lem: Sam-mua, Sô-báp, Na-than, Sô-lô-môn, 15 Íp-ha, Ê-li-sua, Nê-phéc, Gia-phia, 16 Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa, và Ê-li-phê-lết.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:1 cùng trong gia tộc Nguyên văn, “cùng chung máu mủ.”
  2. II Sa-mu-ên 5:6 Ngươi không thể … thành chúng ta Thành Giê-ru-se-lem được xây trên một ngọn đồi có vách cao bao quanh cho nên rất khó chiếm.
  3. II Sa-mu-ên 5:8 Các ngươi … dẫn nước Hay “Ai muốn tấn công dân Giê-bu-sít phải đi qua đường hầm.” Đây có thể là hầm dẫn nước hay là đường hầm dẫn đến thành phố qua Suối Ghi-hôn nằm bên ngoài vách thành.
  4. II Sa-mu-ên 5:8 cung điện Hay “đền thờ.”
  5. II Sa-mu-ên 5:9 Mi-lô Các bực đất có tường chống đỡ, có lẽ nằm về phía Tây Nam thành phố.
  6. II Sa-mu-ên 5:9 hướng vào trong Hay “hướng về đền thờ.”

Ða-vít Trị Vì Trên Toàn Thể I-sơ-ra-ên

(1 Sử 11:1-9; 14:1-7)

Bấy giờ tất cả các chi tộc của I-sơ-ra-ên đến với Ða-vít tại Hếp-rôn và nói, “Chúng tôi đều là cốt nhục của ông. Trước kia khi Sau-lơ làm vua trị vì trên chúng tôi, chính ông là người đã lãnh đạo chúng tôi ra trận và trở về. Chúa đã phán với ông rằng, ‘Ngươi sẽ chăn dắt I-sơ-ra-ên dân Ta và trị vì trên cả I-sơ-ra-ên.’”

Vậy tất cả các trưởng lão của I-sơ-ra-ên đến với vua tại Hếp-rôn. Vua Ða-vít lập một giao ước với họ tại Hếp-rôn trước mặt Chúa, và họ xức dầu cho Ða-vít làm vua trên I-sơ-ra-ên.

Ða-vít được ba mươi tuổi khi bắt đầu trị vì, và ông trị vì bốn mươi năm. Ông trị vì người Giu-đa tại Hếp-rôn được bảy năm sáu tháng, và ông trị vì trên cả I-sơ-ra-ên và Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm.

Chiếm Thành Giê-ru-sa-lem

Vua và quân đội của ông đi lên tấn công Giê-ru-sa-lem, thành của dân Giê-bu-si, tức dân bản xứ; đó là những kẻ đã nói với Ða-vít, “Ngươi chớ lên đây. Ngay cả những người mù và những người què ở đây cũng đủ sức đánh lui ngươi,” bởi họ nghĩ rằng “Ða-vít không thể nào vào thành ấy được.”

Tuy nhiên Ða-vít đã chiếm được chiến lũy của Si-ôn, về sau nơi ấy trở thành Thành Ða-vít.

Số là hôm đó Ða-vít nói, “Ai vào thành và đánh hạ được những kẻ què và kẻ mù của dân Giê-bu-si – những kẻ lòng Ða-vít ghét– thì hãy trèo theo ống cống dẫn nước mà vào.” Bởi đó nên có câu, “Kẻ mù và kẻ què sẽ không được vào cung điện.”[a]

Vậy Ða-vít ở trong thành kiên cố và đặt tên là Thành Ða-vít. Kế đó Ða-vít cho xây các công sự phòng thủ xung quanh thành, từ các chiến lũy vào trong. 10 Vậy Ða-vít càng ngày càng cường thạnh, vì Chúa, Ðức Chúa Trời các đạo quân, ở với ông.

11 Lúc ấy Hi-ram vua Ty-rơ sai các sứ giả đến ra mắt Ða-vít. Họ mang theo gỗ bá hương, các thợ mộc và các thợ nề, và họ xây cho Ða-vít một cung điện. 12 Bấy giờ Ða-vít biết Chúa đã lập ông làm vua trên I-sơ-ra-ên, và vì cớ dân Ngài, tức dân I-sơ-ra-ên, nên Ngài đã làm cho vương quyền của ông được tôn trọng.

13 Sau khi rời Hếp-rôn và đến Giê-ru-sa-lem, Ða-vít cưới thêm các vợ và các cung phi. Họ đã sinh cho Ða-vít thêm các con trai và con gái. 14 Ðây là tên các con sinh cho Ða-vít tại Giê-ru-sa-lem: Sam-mu-a,[b] Sô-báp, Na-than, Sa-lô-môn, 15 Íp-ha, Ê-li-su-a, Nê-phéc, Gia-phia, 16 Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa, và Ê-li-phê-lét.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:8 ctd: nhà
  2. II Sa-mu-ên 5:14 Trong 1 Sử 3:5 thì gọi là Si-mê-a

Vua Đa-vít Cai Trị Toàn Nước Y-sơ-ra-ên

Tất cả các bộ tộc Y-sơ-ra-ên đến Hếp-rôn chầu vua Đa-vít và tâu: “Chúng tôi đây là cốt nhục của bệ hạ. Trước kia, ngay dưới triều vua Sau-lơ, chính bệ hạ đã cầm đầu quân Y-sơ-ra-ên đi chinh chiến. CHÚA cũng đã phán với bệ hạ: ‘Chính con sẽ chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên Ta, chính con sẽ lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên.’ ”

Tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến Hếp-rôn chầu vua. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Hếp-rôn, trước mặt CHÚA. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên.

Vua Đa-vít được ba mươi tuổi khi lên ngôi, và vua trị vì bốn mươi năm. Tại Hếp-rôn, vua cai trị dân Giu-đa bảy năm sáu tháng, và tại Giê-ru-sa-lem, vua cai trị toàn thể dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa ba mươi ba năm.

Vua Đa-vít Chiếm Thành Giê-ru-sa-lem

Vua tiến quân lên tấn công thành Giê-ru-sa-lem. Người Giê-bút là dân địa phương nói với vua Đa-vít: “Ông không vào đây được. Ngay cả người mù và người què cũng đủ sức đẩy lui ông.” Ý họ muốn nói là: “Đa-vít không bao giờ vào đây được.” Tuy nhiên, vua Đa-vít chiếm đóng đồn Si-ôn, nay gọi là Thành Đa-vít.

Lúc ấy, vua Đa-vít nói: “Người nào đánh dân Giê-bút phải chui qua cống dẫn nước ngầm, đánh người què và người mù, là những người thù ghét Đa-vít. Vì thế có câu: ‘Người mù và người què không được vào đền thờ.’ ”

Vua Đa-vít ngự trong đồn và đặt tên đồn là Thành Đa-vít. Vua Đa-vít xây dựng vùng chung quanh đó, từ gò Mi-lô trở vào trong. 10 Vua Đa-vít ngày càng vững mạnh vì CHÚA là Đức Chúa Trời Vạn Quân ở với vua.

11 Vua Hi-ram thành Ty-rơ sai sứ giả đến thăm hữu nghị vua Đa-vít, mang theo gỗ bá hương, thợ mộc, thợ đẽo đá; và họ xây dinh thự cho vua Đa-vít. 12 Bấy giờ vua Đa-vít nhận thức rõ rằng CHÚA đã lập vua lên cai trị dân Y-sơ-ra-ên và khiến cho ngôi nước vua được tôn trọng là vì lợi ích của dân Ngài là dân Y-sơ-ra-ên.

Các Con Vua Đa-vít Sanh Tại Giê-ru-sa-lem

13 Sau khi dời từ Hếp-rôn về Giê-ru-sa-lem, vua Đa-vít cưới thêm vợ và nàng hầu; những bà này sanh thêm con trai con gái cho vua Đa-vít. 14 Đây là tên những người con sanh tại Giê-ru-sa-lem: Sa-mua, Sô-báp, Na-than, Sa-lô-môn, 15 Díp-ha, Ê-li-sua, Nê-phết, Gia-phia, 16 Ê-li-sa-ma, Ên-gia-đa, và Ê-li-phê-lết.

Read full chapter

11 Rồi Sa-mu-ên hỏi Gie-xê, “Ông chỉ có bấy nhiêu con trai đây thôi sao?”

Gie-xê đáp, “Tôi còn đứa út nữa nhưng nó đang chăn chiên.”

Sa-mu-ên bảo, “Hãy cho gọi nó đến. Chúng ta sẽ không ăn cho đến khi nó đến.”

12 Vậy Gie-xê cho gọi con trai út vào. Anh ta tốt tướng, khỏe mạnh [a] và đẹp trai.

CHÚA bảo Sa-mu-ên, “Hãy bổ nhiệm nó vì nó là người ta chọn.”

13 Sa-mu-ên liền lấy chai đựng dầu ô liu và đổ trên đầu con trai út của Gie-xê trước mặt các người anh. Từ hôm đó trở đi Thần Linh của CHÚA hành động trên Đa-vít. Còn Sa-mu-ên lên đường trở về Ra-ma.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Sa-mu-ên 16:12 khỏe mạnh Bản Hê-bơ-rơ ghi “hồng hào,” hay “tóc hung hung đỏ.”

11 Sa-mu-ên hỏi Giê-se, “Có phải đây là tất cả các con trai của ông không?”

Ông đáp, “Thưa tôi còn một cháu út nữa, nhưng cháu nó đang chăn chiên.”

Sa-mu-ên nói với Giê-se, “Xin ông cho người ra kêu cậu ấy về. Chúng ta sẽ không ngồi xuống ăn trước khi cậu ấy đến đây.”

12 Vậy ông sai người ra đồng kêu chàng về. Vả, chàng là một thanh niên có da mặt hồng hào, đôi mắt tinh anh, và diện mạo dễ nhìn. Chúa bảo, “Hãy đứng dậy, xức dầu cho nó. Nó chính là người Ta chọn.”

13 Bấy giờ Sa-mu-ên lấy chiếc sừng đựng dầu xức cho chàng giữa sự chứng kiến của các anh chàng. Từ ngày đó trở đi Thần của Chúa ngự trên Ða-vít một cách mạnh mẽ. Sau đó Sa-mu-ên đứng dậy và trở về Ra-ma.

Read full chapter

11 Sau đó, ông Sa-mu-ên hỏi ông Y-sai: “Ông còn người con nào nữa không?” Ông đáp: “Còn đứa út đang chăn chiên.” Ông Sa-mu-ên bảo: “Ông cho người gọi cậu ấy về, vì chúng ta sẽ không bắt đầu buổi lễ cho đến khi cậu ấy về.” 12 Ông Y-sai cho người gọi cậu út về. Cậu này trông khỏe mạnh hồng hào, đôi mắt sáng ngời, diện mạo khôi ngô. CHÚA bảo ông Sa-mu-ên: “Đây đúng là người Ta chọn. Con đứng lên xức dầu cho nó làm vua!”

13 Ông Sa-mu-ên cầm sừng dầu, đổ lên đầu Đa-vít trước mặt các anh người. Ngay lúc đó, thần linh của CHÚA chiếm ngự Đa-vít, và ở với chàng luôn kể từ ngày hôm ấy.

Sau đó, ông Sa-mu-ên trở về Ra-ma.

Read full chapter

Đa-vít chiến thắng quân Phi-li-tin

17 Khi quân Phi-li-tin nghe Đa-vít đã được bổ nhiệm làm vua trên Ít-ra-en thì tất cả quân Phi-li-tin đi lùng kiếm ông. Khi Đa-vít nghe tin ấy thì liền rút vào mật khu. 18 Quân Phi-li-tin đến đóng trại trong thung lũng Rê-phi-đim.

19 Đa-vít cầu hỏi CHÚA, “Tôi có nên tấn công quân Phi-li-tin không? Ngài có trao chúng vào tay tôi không?”

CHÚA bảo Đa-vít, “Hãy đi tấn công chúng! Ta sẽ trao chúng vào tay ngươi.”

20 Vậy Đa-vít đi đến Ba-anh Phê-ra-xim và đánh bại quân Phi-li-tin ở đó. Đa-vít nói, “CHÚA đã phá vỡ hàng rào địch quân trước mặt tôi như thác lũ.” Đa-vít gọi chỗ đó là Ba-anh Phê-ra-xim. [a] 21 Quân Phi-li-tin bỏ lại các thần tượng của chúng tại Ba-anh Phê-ra-xim, cho nên Đa-vít và những người theo ông lấy mang đi.

22 Một lần nữa người Phi-li-tin đến đóng quân tại thung lũng Rê-phi-đim.

23 Khi Đa-vít cầu hỏi CHÚA thì Ngài đáp, “Đừng tấn công chúng ngay trước mặt nhưng hãy đi vòng và tấn công chúng gần cây dương. 24 Khi ngươi nghe tiếng bước chân xào xạc trên cây dương thì hãy ra tay. Ta sẽ đi trước ngươi để đánh bại đạo quân Phi-li-tin.”

25 Đa-vít làm y như CHÚA truyền dặn. Ông đánh bại quân Phi-li-tin và rượt đuổi theo chúng từ Ghê-be cho đến Ghê-xe.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:20 Ba-anh Phê-ra-xim Nghĩa là “Chúa phá xuyên qua.”

Dân Phi-li-tin Bị Bại Trận

(1 Sử 14:8-17)

17 Khi ấy dân Phi-li-tin nghe rằng Ða-vít đã được xức dầu làm vua trên I-sơ-ra-ên, quân Phi-li-tin bèn kéo hết lực lượng lên để vây bắt Ða-vít. Nghe tin ấy Ða-vít đi xuống chiến lũy. 18 Quân Phi-li-tin kéo đến và bủa ra trong Thung Lũng Rê-pha-im.

19 Ða-vít cầu hỏi ý Chúa, “Con có nên đi lên đương đầu với quân Phi-li-tin không? Ngài sẽ phó quân Phi-li-tin vào tay con không?”

Chúa trả lời ông, “Ngươi hãy đi lên. Ta chắc chắn sẽ trao quân Phi-li-tin vào tay ngươi.”

20 Vậy Ða-vít đến một nơi gọi là Ba-anh Pê-ra-xim, và Ða-vít đánh chúng đại bại tại đó. Ông nói, “Chúa đã đánh tan quân thù của tôi như thể nước bị vỡ bờ.” Vì thế ông gọi chỗ đó là Ba-anh Pê-ra-xim.[a] 21 Chúng bỏ các thần tượng của chúng ở đó mà chạy cứu mạng. Ða-vít và quân lính của ông cướp lấy và mang đi.

22 Sau đó quân Phi-li-tin tái phối trí và kéo lên một lần nữa. Chúng bủa ra khắp Thung Lũng Rê-pha-im.

23 Ða-vít cầu hỏi ý Chúa và Ngài phán, “Ngươi chớ đi lên đối đầu với chúng, nhưng hãy đi vòng ra phía sau và đánh bọc hậu chúng. Ngươi hãy xông tới tấn công chúng ở phía trước nương dâu. 24 Khi ngươi nghe trên ngọn các cây dâu có âm thanh như tiếng của đoàn quân xung trận, thì hãy lập tức tấn công. Vì Chúa sẽ đi trước ngươi và tấn công trại quân Phi-li-tin.”

25 Ða-vít làm như vậy, y như Chúa đã truyền cho ông. Ông đánh đuổi quân Phi-li-tin chạy về xứ của họ, từ Ghê-ba cho đến Ghê-xe.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:20 Nghĩa là Ba-anh bị tan nát

Vua Đa-vít Chiến Thắng Quân Phi-li-tin

17 Khi người Phi-li-tin nghe tin vua Đa-vít được xức dầu làm vua dân Y-sơ-ra-ên, toàn quân Phi-li-tin kéo lên tìm bắt vua Đa-vít. Vua Đa-vít nghe tin liền đi xuống ẩn trong đồn. 18 Quân Phi-li-tin kéo đến và bủa ra trong thung lũng Rê-pha-im. 19 Vua Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đi lên đánh quân Phi-li-tin không? CHÚA có giao chúng vào tay con không?”

CHÚA đáp: “Con hãy đi. Chắc chắn Ta sẽ giao quân Phi-li-tin vào tay con.”

20 Vua Đa-vít đến Ba-anh Phê-ra-xim, đánh bại chúng tại đó. Vua Đa-vít nói: “CHÚA phá vỡ hàng ngũ quân thù trước mặt tôi như nước lũ vỡ bờ.” Vì thế vua đặt tên nơi đó là Ba-anh Phê-ra-xim. 21 Vua Đa-vít và binh sĩ đem về các thần tượng quân Phi-li-tin bỏ lại đó trong khi chạy trốn.

22 Quân Phi-li-tin lại kéo đến và bủa ra trong thung lũng Rê-pha-im một lần nữa. 23 Vua Đa-vít lại cầu hỏi ý CHÚA. Ngài bảo: “Con không nên đi thẳng lên, nhưng hãy đi vòng phía sau chúng và đánh bọc hậu đối ngang lùm cây dương. 24 Ngay khi con nghe tiếng chân bước trên ngọn cây dương, con hãy tấn công ngay, vì lúc bấy giờ CHÚA ra trận đánh quân Phi-li-tin trước con.” 25 Vua Đa-vít làm theo y như lệnh CHÚA truyền. Nhờ vậy, vua đánh đuổi được quân Phi-li-tin từ Ghê-ba đến tận Ghê-xe.

Read full chapter

Ca ngợi Thượng Đế, Đấng giải cứu dân tộc

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca ngợi của Đa-vít.

68 Nguyện Chúa đứng lên phân tán các kẻ thù Ngài;
    nguyện những kẻ ghét Ngài trốn chạy trước mặt Ngài.
Xin hãy thổi bay chúng nó
    như khói bị gió thổi tạt.
Như sáp tan chảy trước lửa ra sao
    nguyện kẻ ác cũng bị tan biến trước Thượng Đế như thế.
Nhưng những ai làm điều công chính sẽ vui mừng,
    và hớn hở trước mặt Thượng Đế;
    họ sẽ mừng rỡ.
Hãy hát cho Thượng Đế; ca ngợi danh Ngài.
Hãy ca tụng Đấng cỡi trên mây gió,
    danh Ngài là CHÚA [a].
Hãy reo vui trước mặt Ngài.
Thượng Đế ngự trong đền thánh Ngài.
    Ngài là cha của kẻ mồ côi,
Đấng bênh vực kẻ góa bụa.
Thượng Đế chuẩn bị nơi ở cho kẻ cô đơn không nhà.
Ngài giải phóng tù nhân trong tiếng reo mừng,
    còn những kẻ chống nghịch Ngài sẽ phải sống trong đất khô cằn.

Lạy Thượng Đế, Ngài dẫn dắt dân Ngài ra khỏi Ai-cập,
    khi Ngài đi qua sa mạc. Xê-la
Đất rung chuyển, các từng trời
    đổ mưa xuống
    khi Thượng Đế của Ít-ra-en ngự đến núi Si-nai,
Lạy Thượng Đế Ngài sai mưa nhuần tưới;
    Ngài phục hồi lại đất khô cằn.
10 Dân Ngài định cư tại đó.
    Lạy Thượng Đế, Ngài chăm sóc kẻ nghèo khổ do lòng nhân từ Ngài.
11 Chúa truyền lệnh,
    thì vô số người loan tin:
12 “Các vua và đạo binh họ bỏ chạy.
    Trong trại quân họ chia nhau của cướp được nơi chiến trận.
13 Những kẻ ngồi quanh lửa trại
    sẽ phân chia những của cướp nơi chiến trận.”
14 Đấng Toàn Năng phân tán các vua
    như tuyết trên núi Sanh-môn.

15 Núi Ba-san cao vút;
    núi Ba-san có nhiều chóp.
16 Tại sao núi có nhiều chóp ganh tị
    nhìn ngọn núi Thượng Đế
    đã chọn làm nơi ở Ngài?
Chúa sẽ ngự ở đó đời đời.
17 Thượng Đế đến cùng với hàng ngàn quân xa;
    từ núi Si-nai Chúa đi đến nơi thánh Ngài.
18 Khi Ngài lên núi cao,
    dắt theo một đoàn tù nhân.
Ngài nhận lễ vật của loài người [b],
    ngay cả lễ vật của kẻ chống nghịch,
    không muốn Ngài là Thượng Đế ở đó.
19 Hãy ca ngợi Chúa, Thượng Đế của chúng ta,
    Đấng cứu giúp chúng ta mỗi ngày. Xê-la

20 Thượng Đế chúng ta là Thượng Đế giải cứu;
    Ngài cứu chúng ta khỏi chết.
21 Thượng Đế sẽ đập đầu kẻ thù Ngài,
    là đầu tóc của những kẻ hay phạm tội.
22 Chúa phán, “Ta sẽ dắt kẻ thù ta về từ Ba-san;
    Ta sẽ mang chúng về từ đáy biển sâu.
23 Lúc đó các ngươi sẽ dẫm trong huyết chúng,
    cho đến mấy con chó các ngươi cũng liếm láp được phần của chúng nó.”

24 Lạy Thượng Đế, người ta đã thấy Ngài bước đi trong chiến thắng;
    Lạy Thượng Đế tôi, vua chúng ta đi vào nơi thánh Ngài [c].
25 Các ca sĩ đi trước, nhạc khí trỗi lên sau;
    còn các thiếu nữ đánh trống cơm đi ở giữa.
26 Hãy ca ngợi Thượng Đế ở nơi nhóm họp [d];
    hãy ca tụng Ngài giữa hội chúng Ít-ra-en.
27 Bên-gia-min, một chi tộc nhỏ nhất hướng dẫn họ.
Trong số có các trưởng tộc Giu-đa
    cùng các trưởng tộc Xê-bu-lôn và Nép-ta-li.

28 Lạy Thượng Đế, xin tỏ ra sức mạnh Ngài;
    xin tỏ ra quyền năng Ngài đã thi thố cho chúng tôi trước đây.
29 Các vua sẽ đem của cải đến cho Ngài,
    đến đền thờ Ngài tại Giê-ru-sa-lem.
30 Xin hãy trừng phạt dân Ai-cập.
    Chúng như con thú sống trong đầm lầy,
    như bò đực ở giữa các bò con.
    Xin hãy sỉ nhục chúng,
Hãy để chúng bò đến cùng Ngài,
    mang theo của lễ bằng bạc.
31 Các sứ giả của Ai-cập mang của lễ đến;
    Ê-thi-ô-bi cũng dâng đồ triều cống cho Ngài.
32 Hỡi các vua trên đất, hãy hát khen Chúa;
    hãy ca tụng Ngài. Xê-la

33 Hãy hát ca tụng Đấng cỡi trên các từng trời thái cổ.
    Tiếng Ngài rền như sấm.
34 Hãy cho mọi người biết Thượng Đế vô cùng quyền năng.
Ngài cai trị trên Ít-ra-en,
    quyền năng Ngài ở trong các từng trời.
35 Lạy Thượng Đế, Ngài thật diệu kỳ trong đền thờ Ngài.
Thượng Đế của Ít-ra-en ban cho dân Ngài sức lực và quyền năng.
    Hãy ca tụng Ngài!

Footnotes

  1. Thánh Thi 68:4 CHÚA Nguyên văn, “YAH” nghĩa là Thượng Đế trong tiếng Hê-bơ-rơ, có khi dịch là CHÚA.
  2. Thánh Thi 68:18 Ngài nhận lễ vật của loài người Hay “nhận loài người làm lễ vật” hoặc “ban lễ vật cho loài người,” theo bản cổ Xy-ri và A-ram. Xem Êph 4:8.
  3. Thánh Thi 68:24 vua chúng ta … thánh Ngài Hay “Thượng Đế thánh và vua dẫn chúng ta.”
  4. Thánh Thi 68:26 nơi nhóm họp Hay “giữa tiếng kèn báo tin nhóm họp!”

Ðức Chúa Trời của Nơi Thánh

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Nguyện Ðức Chúa Trời trỗi dậy;
Nguyện những kẻ chống nghịch Ngài tản lạc;
Nguyện những kẻ ghét Ngài chạy trốn trước mặt Ngài.
Như khói bị tan biến thể nào,
Nguyện chúng bị tan đi thể ấy;
Như sáp bị tan chảy trước ngọn lửa thể nào,
Nguyện những kẻ ác bị diệt mất trước mặt Ðức Chúa Trời thể ấy.
Nguyện những người ngay lành hân hoan,
Nguyện họ vui vẻ trước mặt Ðức Chúa Trời;
Thật vậy nguyện họ hớn hở và vui mừng.

Hãy ca ngợi Ðức Chúa Trời;
Hãy hát ca chúc tụng danh Ngài;
Khá tôn ngợi Ðấng ngự trên các tầng mây;[a]
Danh Ngài là Chúa;
Khá reo vui trước mặt Ngài.
Cha kẻ mồ côi,
Ðấng binh vực người góa bụa,
Chính là Ðức Chúa Trời,
Ðấng ngự trong nơi thánh của Ngài.
Ðức Chúa Trời là Ðấng làm cho kẻ cô đơn có mái ấm gia đình;
Ngài dẫn đưa những kẻ bị tù đày đến nơi sung mãn;
Còn những kẻ bội nghịch phải ở trong xứ khô khan.

Ðức Chúa Trời ôi, khi Ngài đi ra trước mặt con dân Ngài,
Khi Ngài đi qua sa mạc, (Sê-la)
Ðất rúng động, các tầng trời ào ạt đổ cơn mưa,
Trước mặt Ðức Chúa Trời, Thần[b] của Núi Si-nai,
Trước mặt Ðức Chúa Trời, Thần của I-sơ-ra-ên.
Ðức Chúa Trời ôi, Ngài đã ban mưa xuống cách dồi dào,
Khi sản nghiệp của Ngài bị khô khan, Ngài đã bồi bổ nó lại.
10 Con dân Ngài đã định cư trong sản nghiệp đó;
Ðức Chúa Trời ôi, do lòng tốt của Ngài, Ngài đã chu cấp cho những người nghèo khó.

11 Khi Chúa ban lệnh,
Những kẻ loan truyền tin mừng ra đi đông vô số;
Họ báo rằng,
12 “Các vua của các đạo quân đã bỏ chạy. Tất cả đã chạy trốn.”
Những phụ nữ ở nhà đều sẽ được chia các chiến lợi phẩm,
13 Dù họ[c] chỉ nằm nghỉ ở giữa các trại quân.
Kìa họ[d] trông giống như những cánh bồ câu bọc bạc,
Với bộ lông như vàng ròng lóng lánh.
14 Khi Ðấng Toàn Năng đánh văng các vua trong xứ,
Họ như tuyết rơi tơi tả ở Xanh-môn.

15 Núi Ba-san là núi của Ðức Chúa Trời;
Rặng Núi Ba-san quả có nhiều đỉnh cao chót vót.
16 Hỡi những rặng núi cao có nhiều đỉnh,
Tại sao các ngươi ganh tị với ngọn núi Ðức Chúa Trời đã chọn để làm nơi Ngài ngự?
Thật vậy Chúa sẽ ngự tại đó đời đời.

17 Các xe chiến mã của Ðức Chúa Trời nhiều đến hằng vạn, thật là hằng ngàn và hằng vạn;
Chúa ngự giữa chúng như Ngài ngự trong nơi thánh của Ngài ở Si-nai.
18 Ngài đã lên nơi cao,
Ngài dẫn theo đoàn tù binh bị bắt đem đi lưu đày;
Ngài đã nhận những lễ vật của loài người,
Ngay cả những lễ vật của những kẻ bội nghịch,
Ðể chứng tỏ rằng Chúa Ðức Chúa Trời[e] cũng ở tại đó.

19 Tôn ngợi Chúa, Ðấng hằng ngày cưu mang chúng ta;
Ðức Chúa Trời là Ðấng Giải Cứu của chúng ta. (Sê-la)
20 Ðức Chúa Trời chúng ta là Ðức Chúa Trời giải cứu;
Nhờ Chúa Hằng Hữu,[f] chúng ta được thoát chết.

21 Chắc chắn Ðức Chúa Trời sẽ đạp nát đầu kẻ thù của Ngài,
Tức đầu tóc của những kẻ cứ miệt mài trong tội ác.
22 Chúa phán, “Từ Ba-san, Ta sẽ đem chúng về;
Từ các đại dương sâu thẳm, Ta sẽ mang chúng về,
23 Ðể các ngươi có thể giẫm chân trên máu kẻ thù của mình,
Ngay cả lưỡi của chó các ngươi cũng sẽ được phần trên quân thù của các ngươi.”

24 Ðức Chúa Trời ôi, người ta đã chứng kiến lễ nghinh rước Ngài,
Tức lễ nghinh rước Ðức Chúa Trời của con, Vua của con, vào đền thánh.
25 Ca đoàn đi trước ngợi ca, ban nhạc theo sau trỗi nhạc,
Ở giữa là đoàn thiếu nữ đánh trống lục lạc nhịp nhàng.
26 Hãy chúc tụng Ðức Chúa Trời giữa những đoàn người đông đúc dự lễ,
Hãy tôn ngợi Chúa, nguồn cội của I-sơ-ra-ên.
27 Kìa là Bên-gia-min, chi tộc trẻ nhất, đang dẫn đầu;
Kìa là các nhà quyền quý của Giu-đa và phái đoàn của họ;
Kìa là các nhà quyền quý của Xê-bu-lun và các nhà quyền quý của Náp-ta-li.

28 Ðức Chúa Trời ôi, xin thể hiện quyền năng Ngài;[g]
Ðức Chúa Trời ôi, xin bày tỏ sức mạnh Ngài,
Như Ngài đã từng làm cho chúng con khi trước.
29 Vì đền thờ Ngài tọa lạc tại Giê-ru-sa-lem,
Nên các vua sẽ đem các lễ vật đến dâng lên Ngài tại đó.
30 Cầu xin Ngài trách phạt bầy thú hoang trong đám lau sậy,
Cùng đám bò đực ở giữa đàn bò con của các dân.
Xin Ngài bắt chúng phải đem bạc nén đến quỳ dâng;
Còn những dân hiếu chiến, xin Ngài làm cho chúng bị tản lạc khắp nơi trên đất.
31 Những đoàn người quyền thế sẽ từ Ai-cập đến thờ phượng;
Người Ê-thi-ô-pi[h] sẽ sớm đưa tay lên hướng về Ðức Chúa Trời.

32 Hỡi tất cả quốc gia trên thế giới, hãy ca tụng Ðức Chúa Trời;
Hãy ca ngợi Chúa, (Sê-la)
33 Ðấng ngự trên nơi chí cao của các tầng trời,
Tức các tầng trời đã được dựng nên từ thời thái cổ;
Kìa, Ngài cất tiếng nói,
Giọng Ngài thật oai hùng.
34 Khá biết rằng mọi quyền lực đều thuộc về Ðức Chúa Trời;
Nguyện uy nghi Ngài tỏa rạng trên I-sơ-ra-ên,
Và quyền năng Ngài đầy dẫy khắp không trung.
35 Ðức Chúa Trời ôi, trong đền thánh Ngài, Ngài đáng kinh hãi biết bao!
Chính Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên đã ban sức mạnh và quyền lực cho con dân Ngài.
Tôn ngợi Ðức Chúa Trời!

Footnotes

  1. Thánh Thi 68:4 Có bản chép, “.. cỡi trên các tầng mây” hay “Hãy xây một đại lộ cho Ðấng cỡi ngựa (hoặc lạc đà) băng qua sa mạc.”
  2. Thánh Thi 68:8 ctd: Ðức Chúa Trời, Thượng Ðế, Thiên Chúa
  3. Thánh Thi 68:13 nt: các người
  4. Thánh Thi 68:13 ctd: các người
  5. Thánh Thi 68:18 nt: Ya Elohim
  6. Thánh Thi 68:20 nt: Yahweh Adonai
  7. Thánh Thi 68:28 Một số bản Hebrew ghi, “Ðức Chúa Trời của bạn đã ra lịnh ban cho bạn sức mạnh.”
  8. Thánh Thi 68:31 ctd: từ xứ Cút

Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng. Bài Hát

68 Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy đứng dậy, khiến kẻ thù Ngài chạy tan tác,
    Đuổi những kẻ ghét Ngài trốn khỏi trước mặt Ngài.[a]
Như khói tan đi thể nào,
    Xin Ngài đánh tan chúng nó thể ấy,
Như sáp tan chảy trong lửa thể nào,
    Những kẻ ác cũng sẽ bị hủy diệt trước mặt Đức Chúa Trời thể ấy.
Nhưng người công chính sẽ vui mừng,
    Hân hoan trước mặt Đức Chúa Trời.
    Họ sẽ vô cùng vui mừng.[b]
Hãy hát mừng Đức Chúa Trời, hãy ca ngợi danh Ngài.
    Hãy cất tiếng hát cho Đấng cưỡi trên các tầng mây.[c]
Danh Ngài là CHÚA,
    Hãy vui mừng trước mặt Ngài.
Đức Chúa Trời ở trong Nơi Thánh, Ngài là cha của những trẻ mồ côi
    Và là Đấng bảo vệ những người góa bụa.
Đức Chúa Trời làm cho kẻ cô đơn có gia đình để ở,
    Dẫn kẻ bị cầm tù ra chỗ thịnh vượng.[d]
    Nhưng những kẻ phản nghịch phải ở nơi đồng hoang cỏ cháy.
Lạy Đức Chúa Trời, khi Ngài đi ra trước dân Ngài,
    Khi Ngài đi băng qua sa mạc, Sê-la
Thì đất rung chuyển,
    Các tầng trời đổ mưa xuống trước mặt Đức Chúa Trời,
Núi Si-nai rúng động, trước mặt Đức Chúa Trời,
    Là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
Lạy Đức Chúa Trời, Ngài ban mưa dồi dào,
    Ngài phục hồi sản nghiệp Ngài khi đã điêu tàn.[e]
10 Dân Ngài sinh sống tại đó.
    Lạy Đức Chúa Trời, vì lòng nhân từ, Ngài cung cấp cho kẻ khốn cùng.
11 Chúa truyền lịnh,
    Thì ngay cả đàn bà cũng loan tin như một đạo binh đông đảo.
12 Các vua và các đạo binh[f] bỏ chạy, họ chạy trốn.
    Những người đàn bà tại nhà chia của cướp được.
13 Dù các người ở lại giữa chuồng chiên,[g]
    Thì cũng có cánh bồ câu bọc bạc
    Và lông nó mạ vàng xanh.
14 Đấng toàn năng đánh các vua ở đó
    Chạy tan tác như tuyết đổ tại Sanh-môn.
15 Hỡi núi hùng vĩ,
    Hỡi núi của các thần, núi Ba-san,
    Hỡi núi có nhiều đỉnh, núi Ba-san.
16 Hỡi núi có nhiều đỉnh, tại sao ngươi nhìn một cách ghen tị
    Núi mà Đức Chúa Trời đã chọn để ngự.
    Phải, CHÚA sẽ ở tại đó đời đời.
17 Các xe chiến mã của Đức Chúa Trời đông
    Hàng ngàn hàng vạn,[h]
    Chúa ở giữa chúng, Đức Chúa Trời từ núi Si-nai[i] vào Nơi Thánh.
18 Ngài đã ngự lên núi cao,
    Đem theo tù binh;
    Ngài nhận lễ vật từ nhiều người,
Ngay cả những kẻ phản nghịch.[j]
    CHÚA, Đức Chúa Trời sẽ ngự tại đó.
19 Hãy ca ngợi Chúa, Ngài mang gánh nặng cho chúng ta hằng ngày,
    Tức là Đức Chúa Trời cứu rỗi chúng ta.
20 Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời cứu rỗi.
    Nhờ CHÚA là Chúa mà chúng ta thoát khỏi sự chết.
21 Thật vậy, Đức Chúa Trời sẽ đập nát đầu của các kẻ thù nghịch,
    Là những kẻ đầu tóc xõa[k] cứ miệt mài phạm tội.
22 Chúa đã phán: từ Ba-san Ta sẽ đem chúng nó về,
    Ta sẽ đem chúng nó về từ các vực sâu biển cả.
23 Để chân các ngươi dẫm lên máu kẻ thù nghịch,
    Và lưỡi của chó nhà ngươi cũng được phần nơi kẻ thù.
24 Lạy Đức Chúa Trời, người ta đã thấy lễ nghinh rước Ngài,
    Đám rước của Đức Chúa Trời tôi, vua của tôi đi vào Nơi Thánh.[l]
25 Những người ca hát đi trước, các kẻ khảy đàn theo sau,
    Ở giữa là các cô gái đánh trống cơm.
26 Hỡi những người có nguồn gốc Y-sơ-ra-ên,
    Từ giữa hội chúng lớn, hãy ca ngợi Đức Chúa Trời, là CHÚA.
27 Kìa, Bên-gia-min, bộ tộc nhỏ nhất dẫn đầu,[m]
    Những người lãnh đạo Giu-đa và đoàn tùy tùng,[n]
    Những người lãnh đạo Sa-bu-luân và những người lãnh đạo Nép-ta-li.
28 Đức Chúa Trời ngươi đã truyền sức lực cho người,[o]
    Lạy Đức Chúa Trời, hãy bày tỏ quyền năng Ngài như Ngài đã làm cho chúng tôi.
29 Từ đền thờ Ngài tại Giê-ru-sa-lem,
    Các vua sẽ đem lễ vật đến dâng Ngài.
30 Xin hãy trách những dã thú nơi lau sậy,
    Hãy mắng đàn bò đực cùng các con bê, tức là các dân,[p]
Là những kẻ dẫm chân lên những miếng bạc.[q]
    Xin hãy làm tản lạc các dân tộc thích chiến tranh.
31 Các sứ giả từ Ai-cập sẽ đến,
    Người Ê-thi-ô-bi sẽ vội vàng đưa tay cầu khẩn Đức Chúa Trời.
32 Hỡi các vương quốc trên đất, hãy hát mừng Đức Chúa Trời,
    Hãy ca ngợi Chúa. Sê-la
33 Tức là Đấng cưỡi trên các tầng trời, các tầng trời thái cổ.
    Kìa, Ngài lên tiếng,[r] tiếng đầy uy lực.
34 Hãy tuyên dương uy lực cho Đức Chúa Trời,
    Là sự uy nghiêm Ngài trên Y-sơ-ra-ên
    Và uy lực Ngài trên các tầng trời.
35 Lạy Đức Chúa Trời, từ Nơi Thánh, Ngài thật đáng sợ.[s]
    Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là Đấng ban uy lực và sức mạnh cho dân Ngài.
Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời.

Footnotes

  1. 68:1 Ctd: Đức Chúa Trời sẽ đứng dậy… sẽ đánh… sẽ đuổi…
  2. 68:3 Nt: vui vẽ trong vui mừng
  3. 68:4 Ctd: hãy sửa soạn đường cho Đấng cưỡi mây băng qua sa mạc
  4. 68:6 Ctd: ra nơi ca hát
  5. 68:9 Nt: úa tàn, mệt mỏi
  6. 68:12 Nt: các vua của các đạo binh
  7. 68:13 Ctd: ngồi giữa các bao
  8. 68:17 Nt: gấp đôi một vạn, ngàn trên ngàn
  9. 68:17 Nt: của núi Si-nai ở trong Nơi Thánh
  10. 68:18 Ctd: ngay cả những kẻ phản nghịch sẽ ở đó với CHÚA Đức Chúa Trời
  11. 68:21 Nt: mão tóc
  12. 68:24 Ctd: “đi trong sự thánh khiết” hay “đi giữa các thánh”
  13. 68:27 Ctd: cai trị chúng
  14. 68:27 Ctd: người truyền lệnh cho họ
  15. 68:28 Một số bản dịch cổ: Hỡi Đức Chúa Trời, hãy tập trung sức lực Ngài
  16. 68:30 Nt: cùng các con bê của các dân
  17. 68:30 Ctd: xin hãy giày xéo dưới chân những kẻ tham lam lễ vật
  18. 68:33 Nt: truyền đi tiếng Ngài
  19. 68:35 Ctd: Đức Chúa Trời thật đáng sợ trong Nơi Thánh Ngài

Rước Rương Giao Ước về Giê-ru-sa-lem

Đa-vít một lần nữa tập họp những binh sĩ chọn lọc trong Ít-ra-en khoảng ba mươi ngàn người. Rồi ông và toàn thể dân chúng đi đến Ba-a-la trong Giu-đa [a] rước Rương Giao Ước của Thượng Đế về. Rương được gọi theo tên đó, tức danh CHÚA Toàn Năng, ngôi Ngài ở bên trên hai sinh vật bằng vàng có cánh. Họ đặt Rương trên một cái xe đẩy mới và mang ra khỏi nhà A-bi-na đáp trên đồi. U-xa và A-hi-ô, hai con trai A-bi-na-đáp hướng dẫn chiếc xe trên đó có Rương của Thượng Đế. A-hi-ô đi trước rương. Đa-vít và toàn dân Ít-ra-en reo mừng trước mặt CHÚA. Họ trỗi các loại đờn bằng gỗ: đờn tranh, đờn cầm, trống cơm, chập chỏa. Khi những người của Đa-vít đến sân đập lúa của Na-côn thì các con bò bị vấp chân ngã. U-xa liền giơ tay ra đỡ Rương của Thượng Đế. CHÚA nổi giận và giết U-xa ngay tại chỗ. U-xa chết bên cạnh Rương của Thượng Đế. Đa-vít tức giận vì CHÚA giết U-xa. Ngày nay chỗ đó gọi là Phê-rê U-xa [b].

Hôm ấy Đa-vít sợ CHÚA nên ông bảo, “Làm sao Rương của CHÚA vào nơi ta được?” 10 Nên Đa-vít không rước Rương của CHÚA vào thành Đa-vít mà đưa Rương đến nhà Ô-bết Ê-đôm, người miền Gát. 11 Rương của CHÚA ở trong nhà Ô-bết Ê-đôm ba tháng. CHÚA ban phước cho Ô-bết Ê-đôm [c], người miền Gát và gia đình ông.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 6:2 Ba-a-la trong Giu-đa Một tên khác của Ki-ri-át Giê-a-rim. Xem I Sử 13:6.
  2. II Sa-mu-ên 6:8 Phê-rê U-xa Nghĩa là “Sự trừng phạt U-xa.”
  3. II Sa-mu-ên 6:11 Ô-bết Ê-đôm Một người thuộc chi tộc Lê-vi sống gần Giê-ru-sa-lem.

Rước Rương Giao Ước về Giê-ru-sa-lem

(1 Sử 13:1-14; 15:25-16:6, 43)

Ða-vít lại tập họp tất cả quân tinh nhuệ của I-sơ-ra-ên; tổng cộng được ba mươi ngàn người. Ða-vít đứng dậy và đi với tất cả những người đang có mặt với ông đến Ba-a-la trong miền Giu-đa để rước Rương của Ðức Chúa Trời, Rương được gọi bằng danh của Chúa các đạo quân, Ðấng ngự giữa các chê-ru-bim. Họ để Rương của Ðức Chúa Trời trên một cỗ xe mới, rồi từ nhà A-bi-na-đáp ở trên đồi mà chở Rương ấy ra đi. U-xa và A-hi-ô, hai con trai của A-bi-na-đáp, dẫn cỗ xe mới. Họ chở Rương từ nhà A-bi-na-đáp ở trên đồi ra đi và họ đi theo hộ tống Rương của Ðức Chúa Trời. Có A-hi-ô đi phía trước Rương. Ða-vít và toàn thể nhà I-sơ-ra-ên vui mừng dùng đủ loại nhạc khí mà tấu lên trước mặt Chúa. Ðó là những nhạc khí làm bằng gỗ trắc bá, các hạc cầm, các loại đàn, các trống lục lạc, các chập chõa, và các khánh chiêng.

Khi họ đến sân đập lúa của Na-côn, U-xa đã đưa tay ra đỡ lấy Rương của Ðức Chúa Trời, vì con bò kéo xe bị trượt chân. Chúa nổi giận với U-xa. Vì lỗi ấy Ðức Chúa Trời đánh ông tại đó, và ông đã ngã chết ngay bên cạnh Rương của Ðức Chúa Trời.

Bấy giờ Ða-vít cảm thấy bất mãn, vì Chúa đã nổi giận và giết chết U-xa. Ông gọi chỗ đó là “Bộc Giận với U-xa” cho đến ngày nay. Ngày hôm đó Ða-vít đâm ra sợ Chúa, ông nói, “Làm sao tôi dám đem Rương của Chúa về với tôi?” 10 Vì thế Ða-vít không mang Rương của Chúa về với ông trong Thành Ða-vít nữa, nhưng Ða-vít cho đổi hướng và đem Rương gởi nơi nhà của Ô-bết Ê-đôm người Ghít-ti. 11 Rương của Chúa ở trong nhà Ô-bết Ê-đôm người Ghít-ti được ba tháng. Chúa ban phước cho Ô-bết Ê-đôm và mọi người trong gia đình ông.

Read full chapter

Vua Đa-vít Quyết Định Dời Rương Giao Ước Về Thành Giê-ru-sa-lem

Vua Đa-vít lại tập hợp toàn quân tinh nhuệ trong Y-sơ-ra-ên, số là 30,000 người. Vua dẫn toàn quân đến thành Ba-a-la trong xứ Giu-đa[a] để thỉnh Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời về. Rương Giao Ước mang danh của CHÚA Vạn Quân. Ngài đặt ngôi của Ngài trên các thần hộ giá, trên nắp rương. Họ đặt Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời lên một cỗ xe mới, đem ra khỏi nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi. Ông U-xa và ông A-hi-giô, hai người con của ông A-bi-na-đáp, dẫn chiếc xe mới đi. Họ dẫn xe ra khỏi nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời, ông U-xa đi bên cạnh rương[b] và ông A-hi-giô đi trước rương. Vua Đa-vít và toàn dân Y-sơ-ra-ên vui mừng nhảy múa trước mặt CHÚA, theo tiếng đàn của đủ loại nhạc cụ bằng gỗ tùng như đàn hạc và đàn lia, có đệm theo tiếng trống con, chũm chọe, thanh la.

Khi đến sân đạp lúa của Na-côn, bò vấp chân, nên ông U-xa giơ tay ra đỡ Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời. CHÚA nổi giận với ông U-xa. Đức Chúa Trời đánh phạt ông ngay tại chỗ vì cử chỉ sơ ý đó.[c] Ông chết ngay đó, cạnh bên Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời.

Vua Đa-vít buồn bực vì CHÚA đã đánh chết ông U-xa, khiến cho dòng dõi ông bị đứt đoạn; vua gọi nơi đó là Pê-rết U-xa[d] tên này vẫn còn cho đến nay.

Ngày hôm ấy, vua Đa-vít sợ CHÚA và tự nhủ: “Làm sao tôi dám đem Rương Giao Ước của CHÚA về với tôi được?” 10 Vua Đa-vít không muốn đem Rương Giao Ước của CHÚA về thành Đa-vít với mình nên chuyển hướng, đưa rương về nhà ông Ô-bết-Ê-đôm, quê ở thành Gát. 11 Rương Giao Ước của CHÚA ở ba tháng trong nhà của ông Ô-bết-Ê-đôm, người thành Gát. CHÚA ban phước cho ông Ô-bết-Ê-đôm và cả gia đình ông.

Read full chapter

Footnotes

  1. 6:2 Gọi là thành Ki-ri-át Giê-a-rim trong 1Sa 6:21; 7:1
  2. 6:4 Dịch theo LXX; Nt: chép nhảy chữ nên không có phần này
  3. 6:7 1Sử 13:10: vì ông giơ tay ra đỡ Rương Giao Ước
  4. 6:8 Nghĩa là “dòng dõi U-xa bị đứt đoạn”

Mang Rương Giao Ước trở về

13 Đa-vít nói chuyện với các sĩ quan trong quân lực mình, các viên chỉ huy một trăm và một ngàn quân. Rồi Đa-vít gọi cả dân Ít-ra-en lại bảo rằng, “Nếu các ngươi cho rằng đây là ý hay và rằng đây là điều CHÚA và Thượng Đế chúng ta muốn thì hãy thông báo. Hãy mời mọi người trong toàn cõi Ít-ra-en cùng các thầy tế lễ và người Lê-vi sống trong các thị trấn và đồng cỏ đến nhập với chúng ta. Hãy mang Rương của Thượng Đế về với chúng ta. Khi Sau-lơ còn làm vua, chúng ta không dùng Rương để cầu hỏi Thượng Đế.” Toàn thể dân chúng đều đồng ý với Đa-vít vì mọi người cho rằng đó là việc nên làm.

Vậy Đa-vít triệu tập toàn dân Ít-ra-en lại từ sông Si-ho ở Ai-cập cho đến Lê-bo Ha-mát để rước Rương của Thượng Đế về từ thị trấn Ki-ri-át Giê-a-rim. Đa-vít cùng toàn dân Ít-ra-en đi đến Ba-a-la thuộc Giu-đa, gọi là Ki-ri-át Giê-a-rim để mang Rương Giao Ước của Thượng Đế về. Ngôi của Ngài nằm giữa hai con thú có cánh bằng vàng trên nắp Rương, và Rương được gọi bằng danh Ngài.

Dân chúng mang Rương của Thượng Đế từ nhà A-bi-na-đáp để trên một cái xe kéo mới có U-xa và A-hi-ô hướng dẫn.

Đa-vít cùng toàn dân Ít-ra-en hân hoan reo mừng trước mặt Thượng Đế. Họ hăng say ca hát, khảy đờn sắt, đờn cầm, đánh trống cơm, chập chỏa và thổi kèn.

Khi những người của Đa-vít đến sân đập lúa của Ki-đôn thì mấy con bò kéo xe bị vấp nên U-xa giơ tay ra đỡ Rương. 10 CHÚA nổi giận cùng U-xa và giết ông vì dám đụng đến Rương. U-xa chết tại chỗ trước mặt Thượng Đế. 11 Đa-vít bất bình vì CHÚA nổi giận trừng phạt U-xa. Hiện nay chỗ đó gọi là Phê-rê U-xa [a].

12 Ngày đó Đa-vít sợ Thượng Đế nên hỏi, “Làm sao tôi mang Rương của Thượng Đế về cùng tôi được?” 13 Nên Đa-vít không mang Rương về với mình ở Giê-ru-sa-lem, mà cho mang về nhà Ô-bết Ê-đôm, người miền Gát. 14 Rương của Thượng Đế ở nhà Ô-bết Ê-đôm trong ba tháng. CHÚA ban phước cho gia đình Ô-bết Ê-đôm và mọi vật thuộc về ông.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Sử Ký 13:11 Phê-rê U-xa Hay là “Nơi Trừng Phạt U-xa.”

Rước Rương Giao Ước từ Ki-ri-át Giê-a-rim về Giê-ru-sa-lem

(2 Sa 6:1-11)

13 Ða-vít tham khảo ý kiến các chỉ huy trưởng hàng ngàn quân, các chỉ huy trưởng hàng trăm quân, và từng vị lãnh đạo. Sau đó Ða-vít nói với toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, “Nếu quý vị thấy là việc tốt, và nếu đây là ý Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, chúng ta sẽ sai người ra đi, mời đồng bào chúng ta trong toàn cõi I-sơ-ra-ên, kể cả các tư tế và những người Lê-vi ở trong các thành có đồng cỏ chung quanh, để họ đến hiệp với chúng ta, rồi chúng ta sẽ cùng nhau rước Rương của Ðức Chúa Trời chúng ta về, vì từ thời của Vua Sau-lơ đến nay, chúng ta không quan tâm gì đến việc nầy.” Toàn thể hội chúng tán thành làm điều đó, vì điều đó đẹp ý mọi người.

Vậy Ða-vít triệu tập toàn dân I-sơ-ra-ên từ Si-hơ ở Ai-cập cho đến Lê-bô Ha-mát để rước Rương của Ðức Chúa Trời từ Ki-ri-át Giê-a-rim về. Ða-vít và toàn dân I-sơ-ra-ên đi lên Ba-a-la, tức Ki-ri-át Giê-a-rim, trong lãnh thổ của Giu-đa, để rước Rương của Ðức Chúa Trời, Chúa, Ðấng ngự giữa các chê-ru-bim, nơi danh Ngài được cầu khẩn. Họ chở Rương của Ðức Chúa Trời trên một cỗ xe mới, từ nhà của A-bi-na-đáp ra đi; có U-xa và A-hi-ô dẫn xe. Ða-vít và toàn dân I-sơ-ra-ên vui mừng nhảy múa hết sức trước thánh nhan của Ðức Chúa Trời giữa tiếng ca hát, tiếng đàn lia, tiếng hạc cầm, tiếng trống lục lạc, tiếng khánh chiêng, và tiếng kèn.

Khi họ đến sân đập lúa ở Ki-đôn, U-xa đưa tay ra đỡ Rương Thánh, vì đôi bò sụp bước. 10 Cơn giận của Chúa nổi bừng lên đối với U-xa. Ngài đánh ông, vì ông đã đưa tay ra đụng vào Rương Thánh, và ông chết ngay tại chỗ trước mặt Ðức Chúa Trời. 11 Ða-vít lấy làm bất mãn vì Chúa đã đánh U-xa chết tức khắc như vậy. Vì thế nơi đó được gọi là Pê-rê U-xa cho đến ngày nay. 12 Ngày hôm đó Ða-vít khiếp sợ Ðức Chúa Trời. Ông nói, “Làm sao tôi có thể rước Rương của Ðức Chúa Trời về với tôi được?” 13 Vậy Ða-vít không tiếp tục rước Rương Thánh về với ông trong Thành Ða-vít, thay vào đó ông đưa Rương Thánh đến nhà của Ô-bết Ê-đôm người Ghít-ti. 14 Rương của Ðức Chúa Trời ở với gia đình của Ô-bết Ê-đôm, ngự trong nhà của ông ba tháng. Chúa ban phước cho gia đình Ô-bết Ê-đôm và mọi vật thuộc về ông.

Read full chapter

Đa-vít Đem Rương Giao Ước Về

13 Bấy giờ Đa-vít tham khảo ý kiến những người chỉ huy ngàn quân và trăm quân cùng tất cả các quan.

Đa-vít nói với toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên: “Nếu các người thấy tốt và hợp ý CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, hãy sai người đi đến cùng anh chị em ở khắp xứ Y-sơ-ra-ên, cũng mời các thầy tế lễ, người Lê-vi trong các thành và vùng đồng quê, để tụ họp họ lại cùng chúng ta. Chúng ta hãy đem Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời về cùng chúng ta vì trong thời Sau-lơ chúng ta không cầu vấn CHÚA.” Cả hội chúng bằng lòng làm như thế vì họ thấy điều đó là phải.

Vậy, Đa-vít tụ họp tất cả người Y-sơ-ra-ên từ Si-hô ở Ai Cập đến tận cổng Ha-mát để đem Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át Giê-a-rim về. Đa-vít và toàn thể người Y-sơ-ra-ên đi lên Ba-a-la, tức là Ki-ri-át Giê-a-rim, ở trong vùng Giu-đa để lấy Rương Giao Ước, là rương mang tên Đức Chúa Trời, tức là CHÚA, Đấng ngự giữa các chê-ru-bim.

Họ chở Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời trên một chiếc xe mới từ nhà A-bi-na-đáp; có U-xa và A-hi-ô hướng dẫn xe. Vua Đa-vít và toàn thể người Y-sơ-ra-ên hết sức vui mừng nhảy múa trước mặt Đức Chúa Trời giữa tiếng hát, đàn hạc, đàn lia, trống cơm, chập chỏa và kèn.

Khi đến sân đạp lúa của Ki-đôn, U-xa đưa tay giữ lấy rương cho vững vì con bò vấp chân. 10 CHÚA nổi giận cùng U-xa và đánh phạt người vì người đã đưa tay đụng đến Rương Giao Ước, và người chết tại đó, ngay trước mặt Đức Chúa Trời.

11 Đa-vít giận vì CHÚA đã đổ cơn thịnh nộ trên U-xa, người gọi nơi ấy là Bê-rết U-xa cho đến ngày nay. 12 Ngày hôm ấy, Đa-vít sợ Đức Chúa Trời và nói rằng: “Làm sao ta có thể đem Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời về nhà ta được?” 13 Vậy, Đa-vít không đem Rương Giao Ước về nhà mình trong thành Đa-vít nhưng đem rương qua nhà Ô-bết Ê-đôm, người Gát. 14 Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời ở trong nhà của Ô-bết Ê-đôm ba tháng; CHÚA ban phước cho nhà Ô-bết Ê-đôm và mọi sự thuộc về người.

Read full chapter

Rương Giao Ước

10 Dùng gỗ cây keo đóng một Rương dài một trăm hai mươi lăm phân, rộng bảy mươi lăm phân, và cao bảy mươi bảy lăm phân. 11 Lấy vàng ròng bọc bên trong lẫn bên ngoài Rương, rồi đóng một đường viền vàng quanh Rương. 12 Làm bốn khoen vàng cho Rương và gắn nơi bốn chân, mỗi bên hai khoen. 13 Làm các cây đòn bằng gỗ cây keo và bọc vàng các cây đòn đó. 14 Xỏ các cây đòn qua các khoen hai bên Rương và dùng đòn đó để khiêng Rương. 15 Các cây đòn đó phải luôn luôn xỏ vào các khoen trong Rương, không được rút ra.

16 Xong đặt Giao Ước ta sẽ lập với các con vào trong Rương. 17 Rồi làm một cái nắp bằng vàng ròng cho Rương; đó là ngôi nhân ái. Nắp dài một trăm hai mươi lăm phân, rộng bảy mươi lăm phân. 18 Tạc bằng vàng hai con vật có cánh, đặt mỗi con một đầu Rương. 19 Gắn một con vật vào đầu nắp và liền với cuối nắp Rương. 20 Các cánh của hai con vật phải giương lên trên, che nắp Rương, và hai con vật phải đối diện nhau trên nắp.

21 Gắn nắp đó lên trên Rương, và đặt vào trong Rương Giao Ước mà ta sẽ lập với các con. 22 Ta sẽ gặp các con tại đó, phía trên nắp giữa hai con vật có cánh trên Rương Giao Ước. Tại đó ta sẽ cho con mọi huấn lệnh cho dân Ít-ra-en.”

Read full chapter

Rương Giao Ước

(Xuất 37:1-9)

10 Chúng sẽ làm một cái rương bằng gỗ si-tim. Rương ấy sẽ dài một mét hai mươi lăm, rộng bảy tấc rưỡi, và cao bảy tấc rưỡi.[a] 11 Ngươi sẽ bọc rương ấy bằng vàng ròng; ngươi sẽ bọc rương bằng vàng cả trong lẫn ngoài; ngươi cũng hãy làm trên rương ấy một đường viền chung quanh bằng vàng. 12 Ngươi hãy đúc bốn khoen bằng vàng và gắn vào bốn chân rương, hai cái bên nầy và hai cái bên kia. 13 Ngươi cũng hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi bọc vàng các đòn khiêng ấy. 14 Ngươi hãy xỏ các đòn khiêng vào các khoen gắn ở hai bên để khiêng rương. 15 Các đòn khiêng sẽ để luôn trong khoen rương, và không được rút ra. 16 Sau đó ngươi sẽ đặt vào rương các Bảng Giao Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.

17 Ngươi hãy làm một Nắp Thi Ân[b] bằng vàng ròng, dài một mét hai mươi lăm, và rộng bảy tấc rưỡi.[c] 18 Ngươi hãy làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng ở hai đầu nắp. 19 Ngươi hãy làm một chê-rúp[d] ở đầu nầy và một chê-rúp ở đầu kia. Ngươi sẽ làm hai chê-ru-bim dính liền với Nắp Thi Ân trên hai đầu nắp. 20 Các chê-ru-bim sẽ dang cánh ra ở trên nắp, dùng đôi cánh mình che phủ Nắp Thi Ân. Hai chê-ru-bim đó sẽ đối diện nhau, nhưng mặt của hai chê-ru-bim sẽ nhìn vào nắp. 21 Ngươi sẽ đậy Nắp Thi Ân đó trên rương, và ngươi sẽ đặt vào trong rương các Bảng Giao Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. 22 Ta sẽ gặp ngươi tại đó. Từ trên Nắp Thi Ân, tức từ giữa hai chê-ru-bim ở trên Rương Giao Ước, Ta sẽ truyền cho ngươi mọi mạng lịnh cho dân I-sơ-ra-ên.

Read full chapter

Footnotes

  1. Xuất Hành 25:10 nt: dài 2,5 cubits, rộng 1,5 cubit, cao 1,5 cubit. Một cubit dài khoảng nửa mét
  2. Xuất Hành 25:17 nt: kapporeth, có hai nghĩa: che đậy và chuộc tội
  3. Xuất Hành 25:17 nt: dài 2,5 cubits, rộng 1,5 cubit
  4. Xuất Hành 25:19 Hebrew: cherub (số ít), cherubim (số nhiều)

Rương Giao Ước

10 “Làm một cái rương bằng gỗ si-tim, dài hai am-ma rưỡi, rộng một am-ma rưỡi và cao một am-ma rưỡi[a] 11 Dùng vàng ròng bọc bên ngoài lẫn bên trong và làm cái viền bằng vàng quanh rương. 12 Đúc bốn khoen vàng và gắn khoen vào bốn góc rương, hai khoen bên này và hai khoen bên kia. 13 Làm hai cái đòn bằng gỗ si-tim và dùng vàng bọc đòn. 14 Xỏ hai cái đòn vào các khoen hai bên rương để khiêng rương. 15 Phải để đòn khiêng trong khoen, đừng bao giờ rút ra. 16 Sau đó con sẽ để trong rương Bảng Giao Ước Ta sẽ ban cho con.

17 Làm cái Nắp Chuộc Tội bằng vàng ròng, dài hai am-ma rưỡi và rộng một am-ma rưỡi[b] 18 Làm hai chê-ru-bim bằng vàng đặt ở hai đầu Nắp Chuộc Tội, 19 một chê-ru-bim ở đầu này và một ở đầu kia; hai chê-ru-bim phải dính liền với nắp và đứng ở hai đầu nắp. 20 Các chê-ru-bim đứng đối diện nhau, với hai cánh xòe ra hướng lên phía trên và che trên nắp. 21 Đặt nắp lên trên rương và đặt Bảng Giao Ước Ta sẽ ban cho vào trong rương. 22 Trên Nắp Chuộc Tội, giữa hai chê-ru-bim và trên Rương Giao Ước là nơi Ta sẽ gặp con để ban cho con tất cả các mạng lệnh áp dụng cho dân Y-sơ-ra-ên.”

Read full chapter

Footnotes

  1. 25:10 Nt: 1.25m x 0.75m x 0.75m
  2. 25:17 Nt: 1.25m x 0.75m

Khi dân Ít-ra-en sắp di chuyển thì A-rôn và các con trai người phải đi vào Lều Thánh, tháo gỡ bức màn rồi dùng màn đó bọc Rương Giao Ước. Lấy một miếng phủ làm bằng da tốt bọc lại, trải tấm vải xanh lên, rồi xỏ các đòn khiêng vào.

Read full chapter

Mỗi khi nhổ trại ra đi, A-rôn và các con trai ông sẽ đi vào và gỡ tấm màn ngăn đôi trong Nơi Thánh xuống, rồi dùng nó bao Rương Giao Ước lại. Kế đến họ sẽ phủ lên trên một tấm đậy làm bằng da thú thượng hạng,[a] rồi phủ bên trên tấm đậy ấy một tấm vải xanh dương; sau đó họ xỏ các đòn khiêng vào.

Read full chapter

Footnotes

  1. Dân Số 4:6 Nguyên liệu làm tấm đậy nầy trong Hebrew trong rõ nghĩa; có thể là da dê, cũng có thể là da cá heo.

Khi nào trại quân dời đi, A-rôn và các con trai người phải vào gỡ bức màn ngăn che Nơi Thánh và phủ lên Rương Chứng Cớ; rồi phủ lên trên các tấm da cá heo, trải tấm vải mầu xanh lên trên cùng, rồi sửa đòn khiêng cho ngay ngắn.

Read full chapter

15 Khi dân Ít-ra-en sẵn sàng lên đường và sau khi A-rôn cùng các con trai người đã đậy khu vực thánh và các vật thánh rồi, thì con cháu Cô-hát vào khiêng đi. Như thế họ sẽ không đụng đến các vật thánh và khỏi chết. Nhiệm vụ của con cháu Cô-hát là khiêng các vật dụng trong Lều Họp.

Read full chapter

15 Sau khi A-rôn và các con ông hoàn tất công việc che phủ Nơi Thánh và tất cả khí dụng của Nơi Thánh, lúc sắp sửa nhổ trại ra đi, bấy giờ các con cháu Kê-hát mới đến để mang các vật thánh ấy đi. Tuy nhiên họ không được phép chạm vào bất cứ vật thánh nào, nếu không họ sẽ chết. Ðó là những vật dụng của Lều Hội Kiến mà các con cháu Kê-hát có nhiệm vụ mang đi.

Read full chapter

15 Sau khi A-rôn và các con trai người đậy xong Nơi Thánh và tất cả các khí dụng thánh, và khi trại quân sẵn sàng dời đi, gia tộc Kê-hát phải đến khuân vác, nhưng họ không được chạm đến các vật thánh kẻo bị thiệt mạng. Gia tộc Kê-hát phải khuân vác các vật dụng trong Trại Hội Kiến.

Read full chapter