Add parallel Print Page Options

Đa-vít được cử làm vua trên Ít-ra-en

Rồi tất cả các chi tộc trong Ít-ra-en đến nói cùng Đa-vít tại Hếp-rôn rằng, “Nầy, chúng tôi cùng trong gia tộc [a] với ông. Khi Sau-lơ còn làm vua, ông đã là người hướng dẫn Ít-ra-en trong chiến trận. CHÚA phán cùng ông, ‘Ngươi sẽ làm người chăn dắt dân Ít-ra-en ta. Ngươi sẽ lãnh đạo họ.’”

Vậy tất cả các bô lão Ít-ra-en đến gặp vua Đa-vít tại Hếp-rôn và ông lập ước với họ tại đó truớc mặt CHÚA. Rồi họ đổ dầu trên Đa-vít để cử ông làm vua trên Ít-ra-en.

Đa-vít được ba mươi tuổi khi lên ngôi vua và trị vì bốn mươi năm. Ông cai trị trên Giu-đa bảy năm sáu tháng ở Hếp-rôn, và làm vua trên cả Ít-ra-en lẫn Giu-đa ba mươi ba năm ở Giê-ru-sa-lem.

Khi vua Đa-vít và những người theo ông đi đến Giê-ru-sa-lem để đánh dân Giê-bu-sít ở đó thì người Giê-bu-sít bảo Đa-vít, “Ngươi không thể xâm nhập vào thành chúng ta [b] được đâu vì bọn mù hay què cũng đủ ngăn chận ngươi rồi.” Chúng đoán rằng Đa-vít không thể xông vào thành chúng được. Nhưng Đa-vít chiếm được thành kiên cố gọi là Xi-ôn, và biến nó ra thành Đa-vít.

Hôm ấy Đa-vít bảo những người đi theo, “Các ngươi phải đi qua đường hầm dẫn nước [c] đến chỗ bọn kẻ thù ‘què’ và ‘mù’ Giê-bu-sít ấy. Các ngươi phải giết chúng vì Đa-vít ghét chúng. Vì thế mà người ta có câu, ‘Kẻ mù và què không được vào cung điện [d].’”

Vậy Đa-vít ở trong thành có vách vững bền, kiên cố và gọi nó là thành Đa-vít. Đa-vít xây thêm nhiều toà nhà quanh đó, bắt đầu từ chỗ Mi-lô [e] và hướng vào trong [f]. Ông cũng xây nhiều toà nhà nữa bên trong thành. 10 Ông trở nên càng ngày càng hùng mạnh vì CHÚA là Thượng Đế Toàn Năng ở với ông.

11 Hi-ram, vua thành Tia sai sứ đến cùng Đa-vít và gởi theo các cây hương nam, thợ mộc, và thợ đẽo đá. Họ xây một cung điện cho Đa-vít. 12 Đa-vít liền hiểu ra rằng CHÚA đã thực sự đặt ông làm vua trên Ít-ra-en và rằng CHÚA đã làm cho vương quốc ông hùng mạnh vì CHÚA yêu dân Ít-ra-en của Ngài.

13 Sau khi từ Hếp-rôn đến, Đa-vít lấy thêm các vợ và thê thiếp ở Giê-ru-sa-lem. Đa-vít sinh thêm nhiều con trai và con gái. 14 Đây là tên của những con trai sinh cho Đa-vít tại Giê-ru-sa-lem: Sam-mua, Sô-báp, Na-than, Sô-lô-môn, 15 Íp-ha, Ê-li-sua, Nê-phéc, Gia-phia, 16 Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa, và Ê-li-phê-lết.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:1 cùng trong gia tộc Nguyên văn, “cùng chung máu mủ.”
  2. II Sa-mu-ên 5:6 Ngươi không thể … thành chúng ta Thành Giê-ru-se-lem được xây trên một ngọn đồi có vách cao bao quanh cho nên rất khó chiếm.
  3. II Sa-mu-ên 5:8 Các ngươi … dẫn nước Hay “Ai muốn tấn công dân Giê-bu-sít phải đi qua đường hầm.” Đây có thể là hầm dẫn nước hay là đường hầm dẫn đến thành phố qua Suối Ghi-hôn nằm bên ngoài vách thành.
  4. II Sa-mu-ên 5:8 cung điện Hay “đền thờ.”
  5. II Sa-mu-ên 5:9 Mi-lô Các bực đất có tường chống đỡ, có lẽ nằm về phía Tây Nam thành phố.
  6. II Sa-mu-ên 5:9 hướng vào trong Hay “hướng về đền thờ.”

Ða-vít Trị Vì Trên Toàn Thể I-sơ-ra-ên

(1 Sử 11:1-9; 14:1-7)

Bấy giờ tất cả các chi tộc của I-sơ-ra-ên đến với Ða-vít tại Hếp-rôn và nói, “Chúng tôi đều là cốt nhục của ông. Trước kia khi Sau-lơ làm vua trị vì trên chúng tôi, chính ông là người đã lãnh đạo chúng tôi ra trận và trở về. Chúa đã phán với ông rằng, ‘Ngươi sẽ chăn dắt I-sơ-ra-ên dân Ta và trị vì trên cả I-sơ-ra-ên.’”

Vậy tất cả các trưởng lão của I-sơ-ra-ên đến với vua tại Hếp-rôn. Vua Ða-vít lập một giao ước với họ tại Hếp-rôn trước mặt Chúa, và họ xức dầu cho Ða-vít làm vua trên I-sơ-ra-ên.

Ða-vít được ba mươi tuổi khi bắt đầu trị vì, và ông trị vì bốn mươi năm. Ông trị vì người Giu-đa tại Hếp-rôn được bảy năm sáu tháng, và ông trị vì trên cả I-sơ-ra-ên và Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm.

Chiếm Thành Giê-ru-sa-lem

Vua và quân đội của ông đi lên tấn công Giê-ru-sa-lem, thành của dân Giê-bu-si, tức dân bản xứ; đó là những kẻ đã nói với Ða-vít, “Ngươi chớ lên đây. Ngay cả những người mù và những người què ở đây cũng đủ sức đánh lui ngươi,” bởi họ nghĩ rằng “Ða-vít không thể nào vào thành ấy được.”

Tuy nhiên Ða-vít đã chiếm được chiến lũy của Si-ôn, về sau nơi ấy trở thành Thành Ða-vít.

Số là hôm đó Ða-vít nói, “Ai vào thành và đánh hạ được những kẻ què và kẻ mù của dân Giê-bu-si – những kẻ lòng Ða-vít ghét– thì hãy trèo theo ống cống dẫn nước mà vào.” Bởi đó nên có câu, “Kẻ mù và kẻ què sẽ không được vào cung điện.”[a]

Vậy Ða-vít ở trong thành kiên cố và đặt tên là Thành Ða-vít. Kế đó Ða-vít cho xây các công sự phòng thủ xung quanh thành, từ các chiến lũy vào trong. 10 Vậy Ða-vít càng ngày càng cường thạnh, vì Chúa, Ðức Chúa Trời các đạo quân, ở với ông.

11 Lúc ấy Hi-ram vua Ty-rơ sai các sứ giả đến ra mắt Ða-vít. Họ mang theo gỗ bá hương, các thợ mộc và các thợ nề, và họ xây cho Ða-vít một cung điện. 12 Bấy giờ Ða-vít biết Chúa đã lập ông làm vua trên I-sơ-ra-ên, và vì cớ dân Ngài, tức dân I-sơ-ra-ên, nên Ngài đã làm cho vương quyền của ông được tôn trọng.

13 Sau khi rời Hếp-rôn và đến Giê-ru-sa-lem, Ða-vít cưới thêm các vợ và các cung phi. Họ đã sinh cho Ða-vít thêm các con trai và con gái. 14 Ðây là tên các con sinh cho Ða-vít tại Giê-ru-sa-lem: Sam-mu-a,[b] Sô-báp, Na-than, Sa-lô-môn, 15 Íp-ha, Ê-li-su-a, Nê-phéc, Gia-phia, 16 Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa, và Ê-li-phê-lét.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:8 ctd: nhà
  2. II Sa-mu-ên 5:14 Trong 1 Sử 3:5 thì gọi là Si-mê-a

11 Rồi Sa-mu-ên hỏi Gie-xê, “Ông chỉ có bấy nhiêu con trai đây thôi sao?”

Gie-xê đáp, “Tôi còn đứa út nữa nhưng nó đang chăn chiên.”

Sa-mu-ên bảo, “Hãy cho gọi nó đến. Chúng ta sẽ không ăn cho đến khi nó đến.”

12 Vậy Gie-xê cho gọi con trai út vào. Anh ta tốt tướng, khỏe mạnh [a] và đẹp trai.

CHÚA bảo Sa-mu-ên, “Hãy bổ nhiệm nó vì nó là người ta chọn.”

13 Sa-mu-ên liền lấy chai đựng dầu ô liu và đổ trên đầu con trai út của Gie-xê trước mặt các người anh. Từ hôm đó trở đi Thần Linh của CHÚA hành động trên Đa-vít. Còn Sa-mu-ên lên đường trở về Ra-ma.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Sa-mu-ên 16:12 khỏe mạnh Bản Hê-bơ-rơ ghi “hồng hào,” hay “tóc hung hung đỏ.”

11 Sa-mu-ên hỏi Giê-se, “Có phải đây là tất cả các con trai của ông không?”

Ông đáp, “Thưa tôi còn một cháu út nữa, nhưng cháu nó đang chăn chiên.”

Sa-mu-ên nói với Giê-se, “Xin ông cho người ra kêu cậu ấy về. Chúng ta sẽ không ngồi xuống ăn trước khi cậu ấy đến đây.”

12 Vậy ông sai người ra đồng kêu chàng về. Vả, chàng là một thanh niên có da mặt hồng hào, đôi mắt tinh anh, và diện mạo dễ nhìn. Chúa bảo, “Hãy đứng dậy, xức dầu cho nó. Nó chính là người Ta chọn.”

13 Bấy giờ Sa-mu-ên lấy chiếc sừng đựng dầu xức cho chàng giữa sự chứng kiến của các anh chàng. Từ ngày đó trở đi Thần của Chúa ngự trên Ða-vít một cách mạnh mẽ. Sau đó Sa-mu-ên đứng dậy và trở về Ra-ma.

Read full chapter

Đa-vít chiến thắng quân Phi-li-tin

17 Khi quân Phi-li-tin nghe Đa-vít đã được bổ nhiệm làm vua trên Ít-ra-en thì tất cả quân Phi-li-tin đi lùng kiếm ông. Khi Đa-vít nghe tin ấy thì liền rút vào mật khu. 18 Quân Phi-li-tin đến đóng trại trong thung lũng Rê-phi-đim.

19 Đa-vít cầu hỏi CHÚA, “Tôi có nên tấn công quân Phi-li-tin không? Ngài có trao chúng vào tay tôi không?”

CHÚA bảo Đa-vít, “Hãy đi tấn công chúng! Ta sẽ trao chúng vào tay ngươi.”

20 Vậy Đa-vít đi đến Ba-anh Phê-ra-xim và đánh bại quân Phi-li-tin ở đó. Đa-vít nói, “CHÚA đã phá vỡ hàng rào địch quân trước mặt tôi như thác lũ.” Đa-vít gọi chỗ đó là Ba-anh Phê-ra-xim. [a] 21 Quân Phi-li-tin bỏ lại các thần tượng của chúng tại Ba-anh Phê-ra-xim, cho nên Đa-vít và những người theo ông lấy mang đi.

22 Một lần nữa người Phi-li-tin đến đóng quân tại thung lũng Rê-phi-đim.

23 Khi Đa-vít cầu hỏi CHÚA thì Ngài đáp, “Đừng tấn công chúng ngay trước mặt nhưng hãy đi vòng và tấn công chúng gần cây dương. 24 Khi ngươi nghe tiếng bước chân xào xạc trên cây dương thì hãy ra tay. Ta sẽ đi trước ngươi để đánh bại đạo quân Phi-li-tin.”

25 Đa-vít làm y như CHÚA truyền dặn. Ông đánh bại quân Phi-li-tin và rượt đuổi theo chúng từ Ghê-be cho đến Ghê-xe.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:20 Ba-anh Phê-ra-xim Nghĩa là “Chúa phá xuyên qua.”

Dân Phi-li-tin Bị Bại Trận

(1 Sử 14:8-17)

17 Khi ấy dân Phi-li-tin nghe rằng Ða-vít đã được xức dầu làm vua trên I-sơ-ra-ên, quân Phi-li-tin bèn kéo hết lực lượng lên để vây bắt Ða-vít. Nghe tin ấy Ða-vít đi xuống chiến lũy. 18 Quân Phi-li-tin kéo đến và bủa ra trong Thung Lũng Rê-pha-im.

19 Ða-vít cầu hỏi ý Chúa, “Con có nên đi lên đương đầu với quân Phi-li-tin không? Ngài sẽ phó quân Phi-li-tin vào tay con không?”

Chúa trả lời ông, “Ngươi hãy đi lên. Ta chắc chắn sẽ trao quân Phi-li-tin vào tay ngươi.”

20 Vậy Ða-vít đến một nơi gọi là Ba-anh Pê-ra-xim, và Ða-vít đánh chúng đại bại tại đó. Ông nói, “Chúa đã đánh tan quân thù của tôi như thể nước bị vỡ bờ.” Vì thế ông gọi chỗ đó là Ba-anh Pê-ra-xim.[a] 21 Chúng bỏ các thần tượng của chúng ở đó mà chạy cứu mạng. Ða-vít và quân lính của ông cướp lấy và mang đi.

22 Sau đó quân Phi-li-tin tái phối trí và kéo lên một lần nữa. Chúng bủa ra khắp Thung Lũng Rê-pha-im.

23 Ða-vít cầu hỏi ý Chúa và Ngài phán, “Ngươi chớ đi lên đối đầu với chúng, nhưng hãy đi vòng ra phía sau và đánh bọc hậu chúng. Ngươi hãy xông tới tấn công chúng ở phía trước nương dâu. 24 Khi ngươi nghe trên ngọn các cây dâu có âm thanh như tiếng của đoàn quân xung trận, thì hãy lập tức tấn công. Vì Chúa sẽ đi trước ngươi và tấn công trại quân Phi-li-tin.”

25 Ða-vít làm như vậy, y như Chúa đã truyền cho ông. Ông đánh đuổi quân Phi-li-tin chạy về xứ của họ, từ Ghê-ba cho đến Ghê-xe.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:20 Nghĩa là Ba-anh bị tan nát

Ca ngợi Thượng Đế, Đấng giải cứu dân tộc

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca ngợi của Đa-vít.

68 Nguyện Chúa đứng lên phân tán các kẻ thù Ngài;
    nguyện những kẻ ghét Ngài trốn chạy trước mặt Ngài.
Xin hãy thổi bay chúng nó
    như khói bị gió thổi tạt.
Như sáp tan chảy trước lửa ra sao
    nguyện kẻ ác cũng bị tan biến trước Thượng Đế như thế.
Nhưng những ai làm điều công chính sẽ vui mừng,
    và hớn hở trước mặt Thượng Đế;
    họ sẽ mừng rỡ.
Hãy hát cho Thượng Đế; ca ngợi danh Ngài.
Hãy ca tụng Đấng cỡi trên mây gió,
    danh Ngài là CHÚA [a].
Hãy reo vui trước mặt Ngài.
Thượng Đế ngự trong đền thánh Ngài.
    Ngài là cha của kẻ mồ côi,
Đấng bênh vực kẻ góa bụa.
Thượng Đế chuẩn bị nơi ở cho kẻ cô đơn không nhà.
Ngài giải phóng tù nhân trong tiếng reo mừng,
    còn những kẻ chống nghịch Ngài sẽ phải sống trong đất khô cằn.

Lạy Thượng Đế, Ngài dẫn dắt dân Ngài ra khỏi Ai-cập,
    khi Ngài đi qua sa mạc. Xê-la
Đất rung chuyển, các từng trời
    đổ mưa xuống
    khi Thượng Đế của Ít-ra-en ngự đến núi Si-nai,
Lạy Thượng Đế Ngài sai mưa nhuần tưới;
    Ngài phục hồi lại đất khô cằn.
10 Dân Ngài định cư tại đó.
    Lạy Thượng Đế, Ngài chăm sóc kẻ nghèo khổ do lòng nhân từ Ngài.
11 Chúa truyền lệnh,
    thì vô số người loan tin:
12 “Các vua và đạo binh họ bỏ chạy.
    Trong trại quân họ chia nhau của cướp được nơi chiến trận.
13 Những kẻ ngồi quanh lửa trại
    sẽ phân chia những của cướp nơi chiến trận.”
14 Đấng Toàn Năng phân tán các vua
    như tuyết trên núi Sanh-môn.

15 Núi Ba-san cao vút;
    núi Ba-san có nhiều chóp.
16 Tại sao núi có nhiều chóp ganh tị
    nhìn ngọn núi Thượng Đế
    đã chọn làm nơi ở Ngài?
Chúa sẽ ngự ở đó đời đời.
17 Thượng Đế đến cùng với hàng ngàn quân xa;
    từ núi Si-nai Chúa đi đến nơi thánh Ngài.
18 Khi Ngài lên núi cao,
    dắt theo một đoàn tù nhân.
Ngài nhận lễ vật của loài người [b],
    ngay cả lễ vật của kẻ chống nghịch,
    không muốn Ngài là Thượng Đế ở đó.
19 Hãy ca ngợi Chúa, Thượng Đế của chúng ta,
    Đấng cứu giúp chúng ta mỗi ngày. Xê-la

20 Thượng Đế chúng ta là Thượng Đế giải cứu;
    Ngài cứu chúng ta khỏi chết.
21 Thượng Đế sẽ đập đầu kẻ thù Ngài,
    là đầu tóc của những kẻ hay phạm tội.
22 Chúa phán, “Ta sẽ dắt kẻ thù ta về từ Ba-san;
    Ta sẽ mang chúng về từ đáy biển sâu.
23 Lúc đó các ngươi sẽ dẫm trong huyết chúng,
    cho đến mấy con chó các ngươi cũng liếm láp được phần của chúng nó.”

24 Lạy Thượng Đế, người ta đã thấy Ngài bước đi trong chiến thắng;
    Lạy Thượng Đế tôi, vua chúng ta đi vào nơi thánh Ngài [c].
25 Các ca sĩ đi trước, nhạc khí trỗi lên sau;
    còn các thiếu nữ đánh trống cơm đi ở giữa.
26 Hãy ca ngợi Thượng Đế ở nơi nhóm họp [d];
    hãy ca tụng Ngài giữa hội chúng Ít-ra-en.
27 Bên-gia-min, một chi tộc nhỏ nhất hướng dẫn họ.
Trong số có các trưởng tộc Giu-đa
    cùng các trưởng tộc Xê-bu-lôn và Nép-ta-li.

28 Lạy Thượng Đế, xin tỏ ra sức mạnh Ngài;
    xin tỏ ra quyền năng Ngài đã thi thố cho chúng tôi trước đây.
29 Các vua sẽ đem của cải đến cho Ngài,
    đến đền thờ Ngài tại Giê-ru-sa-lem.
30 Xin hãy trừng phạt dân Ai-cập.
    Chúng như con thú sống trong đầm lầy,
    như bò đực ở giữa các bò con.
    Xin hãy sỉ nhục chúng,
Hãy để chúng bò đến cùng Ngài,
    mang theo của lễ bằng bạc.
31 Các sứ giả của Ai-cập mang của lễ đến;
    Ê-thi-ô-bi cũng dâng đồ triều cống cho Ngài.
32 Hỡi các vua trên đất, hãy hát khen Chúa;
    hãy ca tụng Ngài. Xê-la

33 Hãy hát ca tụng Đấng cỡi trên các từng trời thái cổ.
    Tiếng Ngài rền như sấm.
34 Hãy cho mọi người biết Thượng Đế vô cùng quyền năng.
Ngài cai trị trên Ít-ra-en,
    quyền năng Ngài ở trong các từng trời.
35 Lạy Thượng Đế, Ngài thật diệu kỳ trong đền thờ Ngài.
Thượng Đế của Ít-ra-en ban cho dân Ngài sức lực và quyền năng.
    Hãy ca tụng Ngài!

Footnotes

  1. Thánh Thi 68:4 CHÚA Nguyên văn, “YAH” nghĩa là Thượng Đế trong tiếng Hê-bơ-rơ, có khi dịch là CHÚA.
  2. Thánh Thi 68:18 Ngài nhận lễ vật của loài người Hay “nhận loài người làm lễ vật” hoặc “ban lễ vật cho loài người,” theo bản cổ Xy-ri và A-ram. Xem Êph 4:8.
  3. Thánh Thi 68:24 vua chúng ta … thánh Ngài Hay “Thượng Đế thánh và vua dẫn chúng ta.”
  4. Thánh Thi 68:26 nơi nhóm họp Hay “giữa tiếng kèn báo tin nhóm họp!”

Ðức Chúa Trời của Nơi Thánh

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Nguyện Ðức Chúa Trời trỗi dậy;
Nguyện những kẻ chống nghịch Ngài tản lạc;
Nguyện những kẻ ghét Ngài chạy trốn trước mặt Ngài.
Như khói bị tan biến thể nào,
Nguyện chúng bị tan đi thể ấy;
Như sáp bị tan chảy trước ngọn lửa thể nào,
Nguyện những kẻ ác bị diệt mất trước mặt Ðức Chúa Trời thể ấy.
Nguyện những người ngay lành hân hoan,
Nguyện họ vui vẻ trước mặt Ðức Chúa Trời;
Thật vậy nguyện họ hớn hở và vui mừng.

Hãy ca ngợi Ðức Chúa Trời;
Hãy hát ca chúc tụng danh Ngài;
Khá tôn ngợi Ðấng ngự trên các tầng mây;[a]
Danh Ngài là Chúa;
Khá reo vui trước mặt Ngài.
Cha kẻ mồ côi,
Ðấng binh vực người góa bụa,
Chính là Ðức Chúa Trời,
Ðấng ngự trong nơi thánh của Ngài.
Ðức Chúa Trời là Ðấng làm cho kẻ cô đơn có mái ấm gia đình;
Ngài dẫn đưa những kẻ bị tù đày đến nơi sung mãn;
Còn những kẻ bội nghịch phải ở trong xứ khô khan.

Ðức Chúa Trời ôi, khi Ngài đi ra trước mặt con dân Ngài,
Khi Ngài đi qua sa mạc, (Sê-la)
Ðất rúng động, các tầng trời ào ạt đổ cơn mưa,
Trước mặt Ðức Chúa Trời, Thần[b] của Núi Si-nai,
Trước mặt Ðức Chúa Trời, Thần của I-sơ-ra-ên.
Ðức Chúa Trời ôi, Ngài đã ban mưa xuống cách dồi dào,
Khi sản nghiệp của Ngài bị khô khan, Ngài đã bồi bổ nó lại.
10 Con dân Ngài đã định cư trong sản nghiệp đó;
Ðức Chúa Trời ôi, do lòng tốt của Ngài, Ngài đã chu cấp cho những người nghèo khó.

11 Khi Chúa ban lệnh,
Những kẻ loan truyền tin mừng ra đi đông vô số;
Họ báo rằng,
12 “Các vua của các đạo quân đã bỏ chạy. Tất cả đã chạy trốn.”
Những phụ nữ ở nhà đều sẽ được chia các chiến lợi phẩm,
13 Dù họ[c] chỉ nằm nghỉ ở giữa các trại quân.
Kìa họ[d] trông giống như những cánh bồ câu bọc bạc,
Với bộ lông như vàng ròng lóng lánh.
14 Khi Ðấng Toàn Năng đánh văng các vua trong xứ,
Họ như tuyết rơi tơi tả ở Xanh-môn.

15 Núi Ba-san là núi của Ðức Chúa Trời;
Rặng Núi Ba-san quả có nhiều đỉnh cao chót vót.
16 Hỡi những rặng núi cao có nhiều đỉnh,
Tại sao các ngươi ganh tị với ngọn núi Ðức Chúa Trời đã chọn để làm nơi Ngài ngự?
Thật vậy Chúa sẽ ngự tại đó đời đời.

17 Các xe chiến mã của Ðức Chúa Trời nhiều đến hằng vạn, thật là hằng ngàn và hằng vạn;
Chúa ngự giữa chúng như Ngài ngự trong nơi thánh của Ngài ở Si-nai.
18 Ngài đã lên nơi cao,
Ngài dẫn theo đoàn tù binh bị bắt đem đi lưu đày;
Ngài đã nhận những lễ vật của loài người,
Ngay cả những lễ vật của những kẻ bội nghịch,
Ðể chứng tỏ rằng Chúa Ðức Chúa Trời[e] cũng ở tại đó.

19 Tôn ngợi Chúa, Ðấng hằng ngày cưu mang chúng ta;
Ðức Chúa Trời là Ðấng Giải Cứu của chúng ta. (Sê-la)
20 Ðức Chúa Trời chúng ta là Ðức Chúa Trời giải cứu;
Nhờ Chúa Hằng Hữu,[f] chúng ta được thoát chết.

21 Chắc chắn Ðức Chúa Trời sẽ đạp nát đầu kẻ thù của Ngài,
Tức đầu tóc của những kẻ cứ miệt mài trong tội ác.
22 Chúa phán, “Từ Ba-san, Ta sẽ đem chúng về;
Từ các đại dương sâu thẳm, Ta sẽ mang chúng về,
23 Ðể các ngươi có thể giẫm chân trên máu kẻ thù của mình,
Ngay cả lưỡi của chó các ngươi cũng sẽ được phần trên quân thù của các ngươi.”

24 Ðức Chúa Trời ôi, người ta đã chứng kiến lễ nghinh rước Ngài,
Tức lễ nghinh rước Ðức Chúa Trời của con, Vua của con, vào đền thánh.
25 Ca đoàn đi trước ngợi ca, ban nhạc theo sau trỗi nhạc,
Ở giữa là đoàn thiếu nữ đánh trống lục lạc nhịp nhàng.
26 Hãy chúc tụng Ðức Chúa Trời giữa những đoàn người đông đúc dự lễ,
Hãy tôn ngợi Chúa, nguồn cội của I-sơ-ra-ên.
27 Kìa là Bên-gia-min, chi tộc trẻ nhất, đang dẫn đầu;
Kìa là các nhà quyền quý của Giu-đa và phái đoàn của họ;
Kìa là các nhà quyền quý của Xê-bu-lun và các nhà quyền quý của Náp-ta-li.

28 Ðức Chúa Trời ôi, xin thể hiện quyền năng Ngài;[g]
Ðức Chúa Trời ôi, xin bày tỏ sức mạnh Ngài,
Như Ngài đã từng làm cho chúng con khi trước.
29 Vì đền thờ Ngài tọa lạc tại Giê-ru-sa-lem,
Nên các vua sẽ đem các lễ vật đến dâng lên Ngài tại đó.
30 Cầu xin Ngài trách phạt bầy thú hoang trong đám lau sậy,
Cùng đám bò đực ở giữa đàn bò con của các dân.
Xin Ngài bắt chúng phải đem bạc nén đến quỳ dâng;
Còn những dân hiếu chiến, xin Ngài làm cho chúng bị tản lạc khắp nơi trên đất.
31 Những đoàn người quyền thế sẽ từ Ai-cập đến thờ phượng;
Người Ê-thi-ô-pi[h] sẽ sớm đưa tay lên hướng về Ðức Chúa Trời.

32 Hỡi tất cả quốc gia trên thế giới, hãy ca tụng Ðức Chúa Trời;
Hãy ca ngợi Chúa, (Sê-la)
33 Ðấng ngự trên nơi chí cao của các tầng trời,
Tức các tầng trời đã được dựng nên từ thời thái cổ;
Kìa, Ngài cất tiếng nói,
Giọng Ngài thật oai hùng.
34 Khá biết rằng mọi quyền lực đều thuộc về Ðức Chúa Trời;
Nguyện uy nghi Ngài tỏa rạng trên I-sơ-ra-ên,
Và quyền năng Ngài đầy dẫy khắp không trung.
35 Ðức Chúa Trời ôi, trong đền thánh Ngài, Ngài đáng kinh hãi biết bao!
Chính Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên đã ban sức mạnh và quyền lực cho con dân Ngài.
Tôn ngợi Ðức Chúa Trời!

Footnotes

  1. Thánh Thi 68:4 Có bản chép, “.. cỡi trên các tầng mây” hay “Hãy xây một đại lộ cho Ðấng cỡi ngựa (hoặc lạc đà) băng qua sa mạc.”
  2. Thánh Thi 68:8 ctd: Ðức Chúa Trời, Thượng Ðế, Thiên Chúa
  3. Thánh Thi 68:13 nt: các người
  4. Thánh Thi 68:13 ctd: các người
  5. Thánh Thi 68:18 nt: Ya Elohim
  6. Thánh Thi 68:20 nt: Yahweh Adonai
  7. Thánh Thi 68:28 Một số bản Hebrew ghi, “Ðức Chúa Trời của bạn đã ra lịnh ban cho bạn sức mạnh.”
  8. Thánh Thi 68:31 ctd: từ xứ Cút

Rước Rương Giao Ước về Giê-ru-sa-lem

Đa-vít một lần nữa tập họp những binh sĩ chọn lọc trong Ít-ra-en khoảng ba mươi ngàn người. Rồi ông và toàn thể dân chúng đi đến Ba-a-la trong Giu-đa [a] rước Rương Giao Ước của Thượng Đế về. Rương được gọi theo tên đó, tức danh CHÚA Toàn Năng, ngôi Ngài ở bên trên hai sinh vật bằng vàng có cánh. Họ đặt Rương trên một cái xe đẩy mới và mang ra khỏi nhà A-bi-na đáp trên đồi. U-xa và A-hi-ô, hai con trai A-bi-na-đáp hướng dẫn chiếc xe trên đó có Rương của Thượng Đế. A-hi-ô đi trước rương. Đa-vít và toàn dân Ít-ra-en reo mừng trước mặt CHÚA. Họ trỗi các loại đờn bằng gỗ: đờn tranh, đờn cầm, trống cơm, chập chỏa. Khi những người của Đa-vít đến sân đập lúa của Na-côn thì các con bò bị vấp chân ngã. U-xa liền giơ tay ra đỡ Rương của Thượng Đế. CHÚA nổi giận và giết U-xa ngay tại chỗ. U-xa chết bên cạnh Rương của Thượng Đế. Đa-vít tức giận vì CHÚA giết U-xa. Ngày nay chỗ đó gọi là Phê-rê U-xa [b].

Hôm ấy Đa-vít sợ CHÚA nên ông bảo, “Làm sao Rương của CHÚA vào nơi ta được?” 10 Nên Đa-vít không rước Rương của CHÚA vào thành Đa-vít mà đưa Rương đến nhà Ô-bết Ê-đôm, người miền Gát. 11 Rương của CHÚA ở trong nhà Ô-bết Ê-đôm ba tháng. CHÚA ban phước cho Ô-bết Ê-đôm [c], người miền Gát và gia đình ông.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 6:2 Ba-a-la trong Giu-đa Một tên khác của Ki-ri-át Giê-a-rim. Xem I Sử 13:6.
  2. II Sa-mu-ên 6:8 Phê-rê U-xa Nghĩa là “Sự trừng phạt U-xa.”
  3. II Sa-mu-ên 6:11 Ô-bết Ê-đôm Một người thuộc chi tộc Lê-vi sống gần Giê-ru-sa-lem.

Rước Rương Giao Ước về Giê-ru-sa-lem

(1 Sử 13:1-14; 15:25-16:6, 43)

Ða-vít lại tập họp tất cả quân tinh nhuệ của I-sơ-ra-ên; tổng cộng được ba mươi ngàn người. Ða-vít đứng dậy và đi với tất cả những người đang có mặt với ông đến Ba-a-la trong miền Giu-đa để rước Rương của Ðức Chúa Trời, Rương được gọi bằng danh của Chúa các đạo quân, Ðấng ngự giữa các chê-ru-bim. Họ để Rương của Ðức Chúa Trời trên một cỗ xe mới, rồi từ nhà A-bi-na-đáp ở trên đồi mà chở Rương ấy ra đi. U-xa và A-hi-ô, hai con trai của A-bi-na-đáp, dẫn cỗ xe mới. Họ chở Rương từ nhà A-bi-na-đáp ở trên đồi ra đi và họ đi theo hộ tống Rương của Ðức Chúa Trời. Có A-hi-ô đi phía trước Rương. Ða-vít và toàn thể nhà I-sơ-ra-ên vui mừng dùng đủ loại nhạc khí mà tấu lên trước mặt Chúa. Ðó là những nhạc khí làm bằng gỗ trắc bá, các hạc cầm, các loại đàn, các trống lục lạc, các chập chõa, và các khánh chiêng.

Khi họ đến sân đập lúa của Na-côn, U-xa đã đưa tay ra đỡ lấy Rương của Ðức Chúa Trời, vì con bò kéo xe bị trượt chân. Chúa nổi giận với U-xa. Vì lỗi ấy Ðức Chúa Trời đánh ông tại đó, và ông đã ngã chết ngay bên cạnh Rương của Ðức Chúa Trời.

Bấy giờ Ða-vít cảm thấy bất mãn, vì Chúa đã nổi giận và giết chết U-xa. Ông gọi chỗ đó là “Bộc Giận với U-xa” cho đến ngày nay. Ngày hôm đó Ða-vít đâm ra sợ Chúa, ông nói, “Làm sao tôi dám đem Rương của Chúa về với tôi?” 10 Vì thế Ða-vít không mang Rương của Chúa về với ông trong Thành Ða-vít nữa, nhưng Ða-vít cho đổi hướng và đem Rương gởi nơi nhà của Ô-bết Ê-đôm người Ghít-ti. 11 Rương của Chúa ở trong nhà Ô-bết Ê-đôm người Ghít-ti được ba tháng. Chúa ban phước cho Ô-bết Ê-đôm và mọi người trong gia đình ông.

Read full chapter

Mang Rương Giao Ước trở về

13 Đa-vít nói chuyện với các sĩ quan trong quân lực mình, các viên chỉ huy một trăm và một ngàn quân. Rồi Đa-vít gọi cả dân Ít-ra-en lại bảo rằng, “Nếu các ngươi cho rằng đây là ý hay và rằng đây là điều CHÚA và Thượng Đế chúng ta muốn thì hãy thông báo. Hãy mời mọi người trong toàn cõi Ít-ra-en cùng các thầy tế lễ và người Lê-vi sống trong các thị trấn và đồng cỏ đến nhập với chúng ta. Hãy mang Rương của Thượng Đế về với chúng ta. Khi Sau-lơ còn làm vua, chúng ta không dùng Rương để cầu hỏi Thượng Đế.” Toàn thể dân chúng đều đồng ý với Đa-vít vì mọi người cho rằng đó là việc nên làm.

Vậy Đa-vít triệu tập toàn dân Ít-ra-en lại từ sông Si-ho ở Ai-cập cho đến Lê-bo Ha-mát để rước Rương của Thượng Đế về từ thị trấn Ki-ri-át Giê-a-rim. Đa-vít cùng toàn dân Ít-ra-en đi đến Ba-a-la thuộc Giu-đa, gọi là Ki-ri-át Giê-a-rim để mang Rương Giao Ước của Thượng Đế về. Ngôi của Ngài nằm giữa hai con thú có cánh bằng vàng trên nắp Rương, và Rương được gọi bằng danh Ngài.

Dân chúng mang Rương của Thượng Đế từ nhà A-bi-na-đáp để trên một cái xe kéo mới có U-xa và A-hi-ô hướng dẫn.

Đa-vít cùng toàn dân Ít-ra-en hân hoan reo mừng trước mặt Thượng Đế. Họ hăng say ca hát, khảy đờn sắt, đờn cầm, đánh trống cơm, chập chỏa và thổi kèn.

Khi những người của Đa-vít đến sân đập lúa của Ki-đôn thì mấy con bò kéo xe bị vấp nên U-xa giơ tay ra đỡ Rương. 10 CHÚA nổi giận cùng U-xa và giết ông vì dám đụng đến Rương. U-xa chết tại chỗ trước mặt Thượng Đế. 11 Đa-vít bất bình vì CHÚA nổi giận trừng phạt U-xa. Hiện nay chỗ đó gọi là Phê-rê U-xa [a].

12 Ngày đó Đa-vít sợ Thượng Đế nên hỏi, “Làm sao tôi mang Rương của Thượng Đế về cùng tôi được?” 13 Nên Đa-vít không mang Rương về với mình ở Giê-ru-sa-lem, mà cho mang về nhà Ô-bết Ê-đôm, người miền Gát. 14 Rương của Thượng Đế ở nhà Ô-bết Ê-đôm trong ba tháng. CHÚA ban phước cho gia đình Ô-bết Ê-đôm và mọi vật thuộc về ông.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Sử Ký 13:11 Phê-rê U-xa Hay là “Nơi Trừng Phạt U-xa.”

Rước Rương Giao Ước từ Ki-ri-át Giê-a-rim về Giê-ru-sa-lem

(2 Sa 6:1-11)

13 Ða-vít tham khảo ý kiến các chỉ huy trưởng hàng ngàn quân, các chỉ huy trưởng hàng trăm quân, và từng vị lãnh đạo. Sau đó Ða-vít nói với toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, “Nếu quý vị thấy là việc tốt, và nếu đây là ý Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, chúng ta sẽ sai người ra đi, mời đồng bào chúng ta trong toàn cõi I-sơ-ra-ên, kể cả các tư tế và những người Lê-vi ở trong các thành có đồng cỏ chung quanh, để họ đến hiệp với chúng ta, rồi chúng ta sẽ cùng nhau rước Rương của Ðức Chúa Trời chúng ta về, vì từ thời của Vua Sau-lơ đến nay, chúng ta không quan tâm gì đến việc nầy.” Toàn thể hội chúng tán thành làm điều đó, vì điều đó đẹp ý mọi người.

Vậy Ða-vít triệu tập toàn dân I-sơ-ra-ên từ Si-hơ ở Ai-cập cho đến Lê-bô Ha-mát để rước Rương của Ðức Chúa Trời từ Ki-ri-át Giê-a-rim về. Ða-vít và toàn dân I-sơ-ra-ên đi lên Ba-a-la, tức Ki-ri-át Giê-a-rim, trong lãnh thổ của Giu-đa, để rước Rương của Ðức Chúa Trời, Chúa, Ðấng ngự giữa các chê-ru-bim, nơi danh Ngài được cầu khẩn. Họ chở Rương của Ðức Chúa Trời trên một cỗ xe mới, từ nhà của A-bi-na-đáp ra đi; có U-xa và A-hi-ô dẫn xe. Ða-vít và toàn dân I-sơ-ra-ên vui mừng nhảy múa hết sức trước thánh nhan của Ðức Chúa Trời giữa tiếng ca hát, tiếng đàn lia, tiếng hạc cầm, tiếng trống lục lạc, tiếng khánh chiêng, và tiếng kèn.

Khi họ đến sân đập lúa ở Ki-đôn, U-xa đưa tay ra đỡ Rương Thánh, vì đôi bò sụp bước. 10 Cơn giận của Chúa nổi bừng lên đối với U-xa. Ngài đánh ông, vì ông đã đưa tay ra đụng vào Rương Thánh, và ông chết ngay tại chỗ trước mặt Ðức Chúa Trời. 11 Ða-vít lấy làm bất mãn vì Chúa đã đánh U-xa chết tức khắc như vậy. Vì thế nơi đó được gọi là Pê-rê U-xa cho đến ngày nay. 12 Ngày hôm đó Ða-vít khiếp sợ Ðức Chúa Trời. Ông nói, “Làm sao tôi có thể rước Rương của Ðức Chúa Trời về với tôi được?” 13 Vậy Ða-vít không tiếp tục rước Rương Thánh về với ông trong Thành Ða-vít, thay vào đó ông đưa Rương Thánh đến nhà của Ô-bết Ê-đôm người Ghít-ti. 14 Rương của Ðức Chúa Trời ở với gia đình của Ô-bết Ê-đôm, ngự trong nhà của ông ba tháng. Chúa ban phước cho gia đình Ô-bết Ê-đôm và mọi vật thuộc về ông.

Read full chapter

Rương Giao Ước

10 Dùng gỗ cây keo đóng một Rương dài một trăm hai mươi lăm phân, rộng bảy mươi lăm phân, và cao bảy mươi bảy lăm phân. 11 Lấy vàng ròng bọc bên trong lẫn bên ngoài Rương, rồi đóng một đường viền vàng quanh Rương. 12 Làm bốn khoen vàng cho Rương và gắn nơi bốn chân, mỗi bên hai khoen. 13 Làm các cây đòn bằng gỗ cây keo và bọc vàng các cây đòn đó. 14 Xỏ các cây đòn qua các khoen hai bên Rương và dùng đòn đó để khiêng Rương. 15 Các cây đòn đó phải luôn luôn xỏ vào các khoen trong Rương, không được rút ra.

16 Xong đặt Giao Ước ta sẽ lập với các con vào trong Rương. 17 Rồi làm một cái nắp bằng vàng ròng cho Rương; đó là ngôi nhân ái. Nắp dài một trăm hai mươi lăm phân, rộng bảy mươi lăm phân. 18 Tạc bằng vàng hai con vật có cánh, đặt mỗi con một đầu Rương. 19 Gắn một con vật vào đầu nắp và liền với cuối nắp Rương. 20 Các cánh của hai con vật phải giương lên trên, che nắp Rương, và hai con vật phải đối diện nhau trên nắp.

21 Gắn nắp đó lên trên Rương, và đặt vào trong Rương Giao Ước mà ta sẽ lập với các con. 22 Ta sẽ gặp các con tại đó, phía trên nắp giữa hai con vật có cánh trên Rương Giao Ước. Tại đó ta sẽ cho con mọi huấn lệnh cho dân Ít-ra-en.”

Read full chapter

Rương Giao Ước

(Xuất 37:1-9)

10 Chúng sẽ làm một cái rương bằng gỗ si-tim. Rương ấy sẽ dài một mét hai mươi lăm, rộng bảy tấc rưỡi, và cao bảy tấc rưỡi.[a] 11 Ngươi sẽ bọc rương ấy bằng vàng ròng; ngươi sẽ bọc rương bằng vàng cả trong lẫn ngoài; ngươi cũng hãy làm trên rương ấy một đường viền chung quanh bằng vàng. 12 Ngươi hãy đúc bốn khoen bằng vàng và gắn vào bốn chân rương, hai cái bên nầy và hai cái bên kia. 13 Ngươi cũng hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi bọc vàng các đòn khiêng ấy. 14 Ngươi hãy xỏ các đòn khiêng vào các khoen gắn ở hai bên để khiêng rương. 15 Các đòn khiêng sẽ để luôn trong khoen rương, và không được rút ra. 16 Sau đó ngươi sẽ đặt vào rương các Bảng Giao Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.

17 Ngươi hãy làm một Nắp Thi Ân[b] bằng vàng ròng, dài một mét hai mươi lăm, và rộng bảy tấc rưỡi.[c] 18 Ngươi hãy làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng ở hai đầu nắp. 19 Ngươi hãy làm một chê-rúp[d] ở đầu nầy và một chê-rúp ở đầu kia. Ngươi sẽ làm hai chê-ru-bim dính liền với Nắp Thi Ân trên hai đầu nắp. 20 Các chê-ru-bim sẽ dang cánh ra ở trên nắp, dùng đôi cánh mình che phủ Nắp Thi Ân. Hai chê-ru-bim đó sẽ đối diện nhau, nhưng mặt của hai chê-ru-bim sẽ nhìn vào nắp. 21 Ngươi sẽ đậy Nắp Thi Ân đó trên rương, và ngươi sẽ đặt vào trong rương các Bảng Giao Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. 22 Ta sẽ gặp ngươi tại đó. Từ trên Nắp Thi Ân, tức từ giữa hai chê-ru-bim ở trên Rương Giao Ước, Ta sẽ truyền cho ngươi mọi mạng lịnh cho dân I-sơ-ra-ên.

Read full chapter

Footnotes

  1. Xuất Hành 25:10 nt: dài 2,5 cubits, rộng 1,5 cubit, cao 1,5 cubit. Một cubit dài khoảng nửa mét
  2. Xuất Hành 25:17 nt: kapporeth, có hai nghĩa: che đậy và chuộc tội
  3. Xuất Hành 25:17 nt: dài 2,5 cubits, rộng 1,5 cubit
  4. Xuất Hành 25:19 Hebrew: cherub (số ít), cherubim (số nhiều)

Khi dân Ít-ra-en sắp di chuyển thì A-rôn và các con trai người phải đi vào Lều Thánh, tháo gỡ bức màn rồi dùng màn đó bọc Rương Giao Ước. Lấy một miếng phủ làm bằng da tốt bọc lại, trải tấm vải xanh lên, rồi xỏ các đòn khiêng vào.

Read full chapter

Mỗi khi nhổ trại ra đi, A-rôn và các con trai ông sẽ đi vào và gỡ tấm màn ngăn đôi trong Nơi Thánh xuống, rồi dùng nó bao Rương Giao Ước lại. Kế đến họ sẽ phủ lên trên một tấm đậy làm bằng da thú thượng hạng,[a] rồi phủ bên trên tấm đậy ấy một tấm vải xanh dương; sau đó họ xỏ các đòn khiêng vào.

Read full chapter

Footnotes

  1. Dân Số 4:6 Nguyên liệu làm tấm đậy nầy trong Hebrew trong rõ nghĩa; có thể là da dê, cũng có thể là da cá heo.

15 Khi dân Ít-ra-en sẵn sàng lên đường và sau khi A-rôn cùng các con trai người đã đậy khu vực thánh và các vật thánh rồi, thì con cháu Cô-hát vào khiêng đi. Như thế họ sẽ không đụng đến các vật thánh và khỏi chết. Nhiệm vụ của con cháu Cô-hát là khiêng các vật dụng trong Lều Họp.

Read full chapter

15 Sau khi A-rôn và các con ông hoàn tất công việc che phủ Nơi Thánh và tất cả khí dụng của Nơi Thánh, lúc sắp sửa nhổ trại ra đi, bấy giờ các con cháu Kê-hát mới đến để mang các vật thánh ấy đi. Tuy nhiên họ không được phép chạm vào bất cứ vật thánh nào, nếu không họ sẽ chết. Ðó là những vật dụng của Lều Hội Kiến mà các con cháu Kê-hát có nhiệm vụ mang đi.

Read full chapter

12 Dân chúng bảo Đa-vít, “CHÚA đã ban phước cho gia đình Ô-bết Ê-đôm và những gì thuộc về người vì Rương Giao Ước của CHÚA ở đó.” Vậy Đa-vít xuống rước Rương từ nhà Ô-bết Ê-đôm lên thành Đa-vít trong niềm hân hoan. 13 Khi những người mang Rương của CHÚA đi được sáu bước thì Đa-vít dâng một con bò đực và một con bò con mập làm sinh tế. 14 Rồi Đa-vít ra sức nhảy múa trước mặt CHÚA. Ông mặc một cái áo thánh ngắn.

15 Đa-vít và toàn dân Ít-ra-en reo mừng vui vẻ và thổi kèn khi họ rước Rương của CHÚA vào trong thành. 16 Khi Rương của CHÚA vào trong thành Đa-vít thì Mi-canh, con gái Sau-lơ, nhìn qua cửa sổ. Khi nàng thấy Đa-vít nhảy múa trước mặt CHÚA thì trong lòng khinh dể ông.

17 Đa-vít dựng một cái lều cho Rương của CHÚA, và dân Ít-ra-en đặt Rương ấy vào trong lều. Đa-vít dâng của lễ toàn thiêu và của lễ thân hữu trước mặt CHÚA.

18 Sau khi Đa-vít đã dâng của lễ toàn thiêu và của lễ thân hữu thì ông chúc phước cho dân chúng nhân danh CHÚA Toàn Năng. 19 Đa-vít cấp cho mỗi người đàn ông và đàn bà Ít-ra-en một ổ bánh, một bánh trái chà là, một bánh nho khô. Rồi mỗi người đi về nhà mình.

20 Đa-vít cũng về chúc phước cho những người trong gia đình mình nhưng Mi-canh con gái Sau-lơ ra đón ông và bảo, “Vua Ít-ra-en hôm nay hành động đẹp mặt lắm! Anh cởi quần áo trước mặt các nàng hầu của các sĩ quan anh như người thoát y không biết xấu hổ!”

21 Đa-vít bảo Mi-canh, “Anh làm điều đó trước mặt CHÚA. CHÚA chọn anh, không chọn cha em hay người nào trong nhà Sau-lơ. CHÚA bổ nhiệm anh cai trị trên Ít-ra-en cho nên anh sẽ còn reo vui trước mặt CHÚA. 22 Mất thêm danh dự nữa cũng không sao. Có thể theo ý em, anh sẽ xấu hổ thêm nhưng những nàng hầu mà em nói sẽ tôn trọng anh!”

23 Từ đó, Mi-canh, con gái Sau-lơ không có con nữa cho đến khi nàng chết.

Read full chapter

12 Có người đến thuật cho Vua Ða-vít hay rằng, “Chúa đã ban phước cho gia đình Ô-bết Ê-đôm và tất cả những gì thuộc về ông ấy, vì Rương của Ðức Chúa Trời đang ở đó.” Vậy Ða-vít đến và rước Rương của Ðức Chúa Trời từ nhà của Ô-bết Ê-đôm vào Thành Ða-vít trong niềm vui mừng.

13 Vả, khi những người khiêng Rương của Chúa vừa đi được sáu bước thì Ða-vít dâng một con bò và một con chiên mập làm sinh tế. 14 Ða-vít mặc một chiếc ê-phót bằng vải gai, rồi Ða-vít vui mừng nhảy nhót hết lòng hết sức trước mặt Chúa. 15 Vậy Ða-vít và toàn thể nhà I-sơ-ra-ên mang Rương của Chúa lên, với tiếng reo mừng hòa lẫn với tiếng kèn trỗi lên vang dội. 16 Khi Rương của Chúa vào trong Thành Ða-vít, Mi-khanh con gái của Sau-lơ nhìn qua cửa sổ và thấy Vua Ða-vít đang nhảy nhót quay cuồng trước mặt Chúa, lòng bà thầm khinh ông.

17 Vậy họ mang Rương của Chúa vào và đặt Rương ấy vào chỗ Ða-vít đã xây sẵn bên trong Lều Tạm. Kế đến Ða-vít dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an lên trước mặt Chúa. 18 Sau khi Ða-vít dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an, ông nhân danh Chúa các đạo quân mà chúc phước cho dân. 19 Kế đến ông phát cho mọi người, tất cả những ai trong đám đông của người I-sơ-ra-ên hôm đó, bất luận nam hay nữ, mỗi người một ổ bánh, một miếng thịt, và một bánh nho khô. Sau đó mọi người ra về, ai về nhà nấy.

20 Ða-vít trở về nhà ông để chúc phước cho gia đình ông. Nhưng Mi-khanh con gái Sau-lơ đi ra đón Ða-vít và nói, “Hôm nay vua I-sơ-ra-ên trông thật vẻ vang ghê! Bữa nay nhà vua đã để thân thể lộ liễu trước mặt bọn nữ tỳ, chẳng khác gì một tiện dân phô bày da thịt mà không biết xấu hổ.”

21 Ða-vít nói với Mi-khanh, “Vì trước mặt Chúa, Ðấng đã chọn anh thay vì cha em và toàn thể nhà người, và lập anh làm người cai trị trên dân Chúa, tức dân I-sơ-ra-ên, nên anh không ngại mà vui mừng nhảy nhót trước mặt Chúa. 22 Anh sẽ còn hạ mình hơn thế nữa, và anh sẽ xem mình chẳng ra gì trước mặt Ngài. Còn về mấy đứa nữ tỳ em nói đó, anh biết họ vẫn còn tôn trọng anh.” 23 Vậy Mi-khanh con gái Sau-lơ không có con cho đến ngày bà qua đời.

Read full chapter

Đón rước Rương Giao Ước vào Giê-ru-sa-lem

15 Đa-vít cất nhiều nhà cho ông ở Giê-ru-sa-lem. Rồi ông chuẩn bị một nơi cho Rương của Thượng Đế, và dựng một lều cho Rương. Đa-vít dặn, “Chỉ có người Lê-vi mới được phép khiêng Rương của Thượng Đế thôi. CHÚA đã chọn họ khiêng Rương Ngài và phục vụ Ngài đời đời.”

Đa-vít triệu tập toàn dân Ít-ra-en đến Giê-ru-sa-lem. Ông muốn mang Rương của CHÚA vào nơi ông đã chuẩn bị. Đa-vít gọi tất cả con cháu A-rôn và người Lê-vi lại. Trong họ hàng Cô-hát có một trăm hai mươi người, đứng đầu là U-ri-ên. Có một trăm hai mươi người trong họ hàng Mê-ra-ri, đứng đầu là A-xai-gia. Trong họ hàng Ghẹt-sôn có một trăm ba mươi người, đứng đầu là Giô-ên. Có hai trăm người từ họ hàng Ê-li-xa-phan, đứng đầu là Sê-mai-gia. Trong họ hàng Hếp-rôn có tám mươi người, đứng đầu là Ê-li-ên. 10 Và trong họ hàng U-xi-ên có một trăm mười hai người, đứng đầu là Am-mi-na-đáp.

Đa-vít nói chuyện với các thầy tế lễ và người Lê-vi

11 Rồi Đa-vít mời các thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha cùng những người Lê-vi sau đây đến: U-ri-ên, A-sai-gia, Giô-ên, Sê-mai-gia, Ê-li-ên, và Am-mi-na-đáp. 12 Đa-vít bảo họ, “Các anh em là gia trưởng của người Lê-vi. Các anh em và những người Lê-vi khác phải sẵn sàng phục vụ CHÚA [a]. Hãy mang Rương của CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, đến nơi ta đã chuẩn bị sẵn. 13 Lần trước chúng ta không hỏi ý CHÚA xem phải khiêng Rương của Ngài ra sao. Các ngươi là người Lê-vi không khiêng Rương đó cho nên CHÚA là Thượng Đế đã trừng phạt chúng ta.”

14 Sau đó các thầy tế lễ và người Lê-vi dọn mình sẵn sàng phục vụ CHÚA để có thể khiêng Rương của CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 15 Người Lê-vi dùng các đòn đặc biệt để khiêng Rương của Thượng Đế lên vai theo như Mô-se truyền dặn, và theo như điều CHÚA dặn bảo.

Các ca sĩ

16 Đa-vít bảo các lãnh tụ người Lê-vi chỉ định các anh em mình vào nhiệm vụ ca hát, chơi đờn sắt, đờn cầm, trống cơm và hát những bài ca vui.

17 Người Lê-vi liền chỉ định Hê-man và các thân quyến ông như A-sáp và Ê-than. Hê-man là con trai Giô-ên. A-sáp là con trai Bê-rê-kia. Còn Ê-than, thuộc họ Mê-ra-ri, là con của Cu-sai-gia. 18 Ngoài ra cũng có toán người Lê-vi thứ nhì gồm: Xa-cha-ri, Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Bê-nai-gia, Ma-a-xê-gia, Mát-ti-thia, Ê-li-phê-lê-hu, Mích-nê-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên. Những người nầy thuộc toán phòng vệ người Lê-vi.

19 Các ca sĩ Hê-man, A-sáp, và Ê-than chơi trống cơm bằng đồng. 20 Xa-cha-ri, Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Ma-a-sê-gia, và Bê-nai-gia chơi đờn cầm [b] loại lớn. 21 Mát-ti-thia, Ê-li-phê-lê-hu, Mích-nê-gia, Ô-bết Ê-đôm, Giê-i-ên, và A-xa-xia chơi đờn sắt loại nhỏ. 22 Kê-na-nia, lãnh tụ người Lê-vi chịu trách nhiệm về việc xướng hát vì ông có tài trong việc đó.

23 Bê-rê-kia và Ên-ca-na là hai người canh gác Rương Giao Ước. 24 Các thầy tế lễ Sê-ba-nia, Giô-xa-phát, Nê-tha-nên, A-ma-xai, Xa-cha-ri, Bê-nai-gia, và Ê-li-ê-xe có nhiệm vụ thổi kèn trước Rương của Thượng Đế. Ô-bết Ê-đôm và Giê-hi-a cũng lo nhiệm vụ canh gác Rương.

25 Đa-vít, các lãnh tụ của Ít-ra-en, và những viên chỉ huy hàng ngàn quân [c] đi rước Rương Giao Ước của CHÚA. Họ hớn hở vô cùng khi đồng mang Rương từ nhà Ô-bết Ê-đôm về. 26 Vì Thượng Đế giúp đỡ những người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước của CHÚA nên họ dâng bảy con bò đực và bảy con chiên đực. 27 Tất cả những người Lê-vi khiêng Rương, và Kê-na-nia, người lo việc xướng hát, và các ca sĩ đều mặc áo dài bằng vải gai mịn. Đa-vít cũng mặc một áo dài bằng vải gai mịn và một áo ngắn thánh cũng bằng vải gai mịn.

28 Vậy tất cả dân Ít-ra-en rước Rương Giao Ước của CHÚA. Họ reo hò, thổi tù và cùng với kèn, đánh trống cơm, đờn sắt, và đờn cầm.

29 Khi Rương Giao Ước của CHÚA đi vào Giê-ru-sa-lem thì Mi-canh, con gái Sau-lơ nhìn qua cửa sổ. Nàng thấy vua Đa-vít nhảy múa vui mừng thì đâm ra khinh dể ông.

16 Họ mang Rương của Thượng Đế và đặt bên trong lều mà Đa-vít đã dựng sẵn. Sau đó họ dâng của lễ thiêu, của lễ thân hữu cho Thượng Đế. Sau khi Đa-vít đã dâng các của lễ thiêu và thân hữu xong thì ông nhân danh CHÚA chúc phước cho dân chúng. Ông phát cho mỗi một người đàn ông, đàn bà Ít-ra-en một ổ bánh, trái chà là, và nho khô.

Rồi Đa-vít chỉ định một số người Lê-vi phục vụ trước Rương của CHÚA. Họ có nhiệm vụ hướng dẫn việc thờ phụng, cảm tạ, và ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. A-sáp, người chơi chập chỏa, hướng dẫn. Phụ tá ông có Xa-cha-ri. Các người Lê-vi khác là Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Mát-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-nai-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên. Họ chơi đờn sắt và đờn cầm. Bê-nai-gia và Gia-ha-xi-ên là các thầy tế lễ thổi kèn thường xuyên trước Rương Giao Ước với Thượng Đế. Ngày đó là lần đầu tiên Đa-vít giao cho A-sáp và thân quyến ông nhiệm vụ hát xướng ca ngợi CHÚA.

Bài ca cảm tạ của Đa-vít

Hãy cảm tạ CHÚA và cầu khẩn cùng Ngài.
    Hãy thuật cho các dân những việc Ngài làm.
Hãy hát xướng cho Ngài,
    chúc tụng danh Ngài.
    Hãy thuật lại những phép lạ Ngài.
10 Hãy hớn hở vì các ngươi thuộc về Ngài;
    những ai tìm kiếm CHÚA hãy vui mừng.
11 Hãy nhờ cậy CHÚA và năng lực Ngài;
    hãy luôn luôn xin CHÚA giúp đỡ.
12 Hãy nhớ lại những phép lạ Ngài đã làm,
    những việc diệu kỳ,
    và những quyết định của Ngài.
13 Hỡi Ít-ra-en, các ngươi là dòng dõi của tôi tớ Ngài;
    các ngươi là con cháu Gia-cốp, dân được chọn lựa của Ngài.

14 Ngài là CHÚA và là Thượng Đế chúng ta.
    Luật pháp Ngài dành cho cả thế gian.
15 Ngài sẽ giữ giao ước Ngài đời đời;
    Ngài sẽ luôn luôn giữ lời hứa mình.
16 Ngài sẽ giữ giao ước đã lập với Áp-ra-ham
    và lời hứa Ngài cùng Y-sác.
17 Ngài biến nó thành luật lệ cho dân cư Gia-cốp;
    Ngài biến nó thành giao ước với Ít-ra-en đời đời.

18 Ngài phán, “Ta sẽ ban đất Ca-na-an cho các ngươi,
    để làm tài sản ngươi.”
19 Lúc đó dân của Thượng Đế hãy còn ít ỏi,
    họ sống như người xa lạ trong xứ.
20 Họ lưu lạc từ dân nầy đến dân khác,
    từ nước nầy đến nước nọ.
21 Nhưng Ngài không cho ai làm hại họ;
    Ngài cảnh cáo các vua không được đụng đến họ.

22 Ngài dặn, “Không được đụng đến dân tuyển chọn của ta,
    không được làm hại các nhà tiên tri ta.”
23 Hỡi cả trái đất, hãy hát xướng cho CHÚA.
    Mỗi ngày hãy thuật lại ơn cứu của Ngài.
24 Hãy thuật cho các dân về vinh hiển Ngài;
    Hãy cho mọi người biết các phép lạ Ngài làm.
25 CHÚA rất cao cả, đáng được ca ngợi.
    Ngài đáng được tôn kính hơn tất cả các thần.
26 Tất cả thần của các dân chỉ là hình tượng,
    nhưng CHÚA tạo ra các bầu trời.
27 Ngài đầy vinh hiển và oai nghi;
    Ngài có uy quyền và niềm vui trong đền thờ Ngài.
28 Hỡi các dân trên đất hãy ca ngợi CHÚA.
    Hãy ca ngợi vinh hiển và quyền năng Ngài.
29 Hãy ca ngợi vinh hiển của danh Ngài.
    Hãy mang của lễ mà đến cùng Ngài.
    Hãy thờ kính CHÚA trong trang phục thánh [d].
30 Hỡi mọi người trên đất hãy run sợ trước mặt Ngài.
    Trái đất đã được đặt để,
    nó không thể dời đi nơi khác.
31 Trời hãy vui mừng, và đất hãy hớn hở.
    Dân chúng các nơi hãy nói, “CHÚA là vua!”
32 Biển và mọi loài trong đó hãy la lớn,
    đồng ruộng và mọi thứ trong đó hãy vui mừng.
33 Các cây cối trong rừng sẽ reo vui trước mặt CHÚA.
    Chúng sẽ hát mừng vì Ngài đến để phân xử thế gian.
34 Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài nhân từ.
    Tình yêu Ngài còn đến đời đời.
35 Hãy thưa cùng Ngài,
    “Lạy Thượng Đế là Đấng Cứu Chuộc chúng tôi,
    xin hãy giải cứu chúng tôi,
    mang chúng tôi trở về và cứu chúng tôi từ các nước khác.
Thì chúng tôi sẽ cảm tạ Ngài và hết lòng ca ngợi Ngài.”
36 Hãy ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en.
    Ngài hằng hữu từ ngàn xưa cho đến mãi mãi.

Toàn dân đều nói “A-men” và ca ngợi CHÚA.

37 Sau đó Đa-vít để A-sáp và các người Lê-vi khác đứng trước mặt Rương Giao Ước với CHÚA. Họ ở đó để phục vụ công tác mỗi ngày. 38 Đa-vít cũng để Ô-bết Ê-đôm và sáu mươi tám người Lê-vi phục vụ chung với họ. Hô-sa và Ô-bết Ê-đôm, con Giê-đu-thun lo nhiệm vụ canh gác.

39 Đa-vít để thầy tế lễ Xa-đốc và các thầy tế lễ khác phục vụ cùng ông trước Lều của CHÚA [e] ở nơi thờ phụng tại Ghi-bê-ôn. 40 Mỗi sáng và chiều họ dâng của lễ thiêu trên bàn thờ theo đúng các qui tắc trong Lời Giáo Huấn của CHÚA đã được ban cho dân Ít-ra-en. 41 Cùng với họ có Hê-man và Giê-đu-thun cùng các người Lê-vi khác. Họ được chọn đích danh để ca ngợi CHÚA chẳng hạn như hát khúc Ca tụng CHÚA vì tình yêu Ngài còn đời đời [f]. 42 Hê-man và Giê-đu-thun cũng có nhiệm vụ thổi kèn, đánh chập chỏa và chơi các nhạc cụ khác khi người ta hát lên cho Thượng Đế. Các con trai Giê-đu-thun lo nhiệm vụ gác cửa.

43 Rồi tất cả dân chúng ra về. Mọi người đều trở về nhà. Đa-vít cũng về nhà chúc phước cho các người trong gia đình mình.

Footnotes

  1. I Sử Ký 15:12 sẵn sàng phục vụ CHÚA Nghĩa là “hãy dọn mình ra thánh.” Xem câu 14.
  2. I Sử Ký 15:20 đờn cầm, đờn sắt Nguyên văn, “a-la-mốt” và “sê-mi-nít.” Rất có thể là hai loại nhạc khí khác nhau hoặc hai nhóm khác nhau mà ban nhạc dùng để chơi trong đền thờ.
  3. I Sử Ký 15:25 viên chỉ huy hàng ngàn quân Hay “các tướng lãnh.”
  4. I Sử Ký 16:29 trang phục thánh Hay “trong vinh hiển thánh của Ngài.”
  5. I Sử Ký 16:39 Lều của CHÚA Hay “Lều Tạm.” Còn gọi là “Lều Họp.” Dân chúng đi vào lều nầy để ra mắt Chúa. Họ sử dụng lều ấy cho đến khi Sô-lô-môn xây đền thờ tại Giê-ru-sa-lem.
  6. I Sử Ký 16:41 Ca tụng CHÚA … đời đời Xem II Sử 7:6; Thi 118 và 136.

Chuẩn Bị Cho Việc Rước Rương Giao Ước vào Giê-ru-sa-lem

15 Ða-vít xây các cung điện cho ông ở trong Thành Ða-vít. Ông chuẩn bị một nơi để đặt Rương của Ðức Chúa Trời và dựng một cái lều cho Rương ấy. Bấy giờ Ða-vít nói, “Không ai được khiêng Rương của Ðức Chúa Trời, ngoại trừ người Lê-vi, vì Chúa đã chọn họ để khiêng Rương của Ðức Chúa Trời và phục vụ Ngài đời đời.”

Ða-vít triệu tập toàn dân I-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem để rước Rương của Chúa vào trong chỗ đã chuẩn bị cho Rương Thánh.

Ða-vít triệu tập các con cháu của A-rôn và người Lê-vi lại.

Trong vòng con cháu của Kê-hát có U-ri-ên làm thủ lãnh, với một trăm hai mươi người bà con của ông.

Trong vòng con cháu của Mê-ra-ri có A-sa-gia làm thủ lãnh, với hai trăm hai mươi người bà con của ông.

Trong vòng con cháu của Ghẹt-sôm có Giô-ên làm thủ lãnh, với một trăm ba mươi người bà con của ông.

Trong vòng con cháu của Ê-li-xa-phan có Sê-ma-gia làm thủ lãnh, với hai trăm người bà con của ông.

Trong vòng con cháu của Hếp-rôn có Ê-li-ên làm thủ lãnh, với tám mươi người bà con của ông.

10 Trong vòng con cháu của U-xi-ên có Am-mi-na-đáp làm thủ lãnh, với một trăm mười hai người bà con của ông.

11 Ða-vít triệu tập hai vị tư tế Xa-đốc và A-bi-a-tha, cùng các thủ lãnh của người Lê-vi là U-ri-ên, A-sa-gia, Giô-ên, Sê-ma-gia, Ê-li-ên, và Am-mi-na-đáp đến. 12 Ông nói với họ, “Quý vị là thủ lãnh các thị tộc của người Lê-vi, hãy làm cho quý vị ra thánh, tức chính quý vị và bà con của quý vị, để quý vị có thể khiêng Rương của Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, vào chỗ tôi đã chuẩn bị cho Rương ấy. 13 Vì trước đây quý vị đã không làm điều đó, nên Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, đã nổi giận đối với chúng ta, vì chúng ta đã không tôn kính Ngài đúng theo lễ chế phải làm.” 14 Vậy các tư tế và những người Lê-vi thánh hóa chính họ để có thể khiêng Rương của Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 15 Người Lê-vi dùng các đòn khiêng để khiêng Rương của Ðức Chúa Trời trên vai, y như lời Chúa đã truyền cho Môi-se.

16 Ða-vít cũng truyền cho các thủ lãnh người Lê-vi chỉ định những người trong bà con của họ vào ban thánh nhạc để ca hát và sử dụng các nhạc khí, các hạc cầm, các đàn lia, và các khánh chiêng mà phụ họa với ca đoàn khi họ cất tiếng lớn vui vẻ ca ngợi. 17 Vì thế người Lê-vi chỉ định Hê-man con của Giô-ên; trong vòng bà con của ông ấy họ chỉ định A-sáp con của Bê-rê-ki-a; trong vòng các con cháu của Mê-ra-ri bà con của họ, họ chỉ định Ê-than con của Cút-sa-gia. 18 Trong vòng bà con của họ, họ cũng chỉ định những người vào ban nhạc ở cấp bậc thứ nhì gồm Xa-cha-ri-a, Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Un-ni, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ma-a-sê-gia, Mát-ti-thi-a, Ê-li-phê-lê-hu, Mít-nê-gia, và hai người giữ cửa là Ô-bết Ê-đôm và Giê-i-ên.

19 Những người hát thánh ca như Hê-man, A-sáp, và Ê-than được giao thêm trách nhiệm sử dụng khánh chiêng bằng đồng. 20 Xa-cha-ri-a, A-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Un-ni, Ê-li-áp, Ma-a-sê-gia, và Bê-na-gia sử dụng hạc cầm hòa theo giọng nữ. 21 Mát-ti-thi-a, Ê-li-phê-lê-hu, Mít-nê-gia, Ô-bết Ê-đôm, Giê-i-ên, và A-xa-xi-a sử dụng đàn lia theo điệu Sê-mi-nít. 22 Kê-na-ni-a được lập làm nhạc trưởng của người Lê-vi trong lãnh vực âm nhạc vì ông là nhạc sư. 23 Bê-rê-ki-a và Ên-ca-na là hai người canh gác Rương Thánh. 24 Các vị tư tế gồm Sê-ba-ni-a, Giô-sa-phát, Nê-tha-nên, A-ma-sai, Xa-cha-ri-a, Bê-na-gia, và Ê-li-ê-xe có nhiệm vụ thổi kèn trước Rương của Ðức Chúa Trời. Ô-bết Ê-đôm và Giê-hi-a là những người canh gác Rương Thánh.

Lễ Rước Rương Giao Ước

(2 Sa 6:12-22)

25 Vậy Ða-vít, các vị trưởng lão của I-sơ-ra-ên, và các vị chỉ huy hàng ngàn quân đi lên rước Rương Giao Ước của Chúa từ nhà của Ô-bết Ê-đôm về với lòng hớn hở vui mừng. 26 Quả thật Ðức Chúa Trời có vùa giúp người Lê-vi khi họ khiêng Rương Giao Ước của Chúa, nên họ dâng bảy con bò đực và bảy con chiên đực làm của lễ thiêu. 27 Ða-vít mặc một áo choàng bằng vải gai mịn, giống như mọi người Lê-vi khiêng Rương Thánh, những người trong ca đoàn, và Kê-na-ni-a người điều khiển âm nhạc. Ngoài ra Ða-vít còn mặc thêm một ê-phót bằng vải gai mịn. 28 Vậy toàn dân I-sơ-ra-ên rước Rương Giao Ước của Chúa đi lên với tiếng hò reo vui vẻ hòa lẫn với tiếng tù và, tiếng kèn, tiếng khánh chiêng, tiếng hạc cầm, và tiếng đàn lia tấu nhạc vang lừng.

29 Thế nhưng khi Rương Giao Ước của Chúa vào trong Thành Ða-vít, Mi-khanh con gái của Sau-lơ nhìn qua cửa sổ và trông thấy Vua Ða-vít đang nhảy nhót và vui mừng, lòng bà nảy sinh ý nghĩ coi thường ông.

Ðặt Rương Giao Ước vào Ðền Tạm

16 Vậy họ rước Rương của Ðức Chúa Trời và đặt Rương Thánh vào lều Ða-vít đã dựng cho Rương Thánh. Sau đó họ dâng các của lễ thiêu và các lễ cầu an trước thánh nhan của Ðức Chúa Trời. Sau khi Ða-vít đã dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an, ông nhân danh Chúa chúc phước cho dân. Kế đó ông phát cho dân, không phân biệt nam hay nữ, mỗi người một ổ bánh, một phần thịt, và một cái bánh nho khô.

Ông bổ nhiệm một số người Lê-vi vào chức vụ hầu việc trước Rương của Chúa để cầu xin, cảm tạ, và ca ngợi Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. A-sáp làm trưởng; Xa-cha-ri-a làm phó; kế đến là Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Mát-ti-thi-a, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên để họ sử dụng các hạc cầm và các đàn lia; A-sáp là người sử dụng khánh chiêng. Còn hai vị tư tế Bê-na-gia và Gia-ha-xi-ên có nhiệm vụ thổi kèn thường xuyên trước Rương Giao Ước của Ðức Chúa Trời.

Bài Ca Cảm Tạ của Ða-vít

(Thi 105:1-15; 96:1-13; 106:47-48)

Ngày hôm đó lần đầu tiên Ða-vít đưa cho A-sáp và bà con của ông ấy những bài thánh thi để hát lên cảm tạ Chúa:

Hãy cảm tạ Chúa, hãy cầu khẩn danh Ngài;
Hãy rao truyền cho các dân biết các công việc Ngài.
Hãy ca ngợi Ngài, hãy ca hát chúc tụng Ngài;
Hãy kể ra tất cả những việc lạ lùng của Ngài.
10 Vinh hiển thay cho người được ở trong danh thánh Ngài;
Nguyện lòng những người tìm kiếm Chúa được vui mừng.
11 Hãy tìm kiếm Chúa và tìm kiếm quyền năng Ngài;
Hãy tìm kiếm mặt Ngài luôn luôn.
12 Hãy nhớ mãi những việc lạ lùng Ngài làm,
Tức những việc diệu kỳ và những phán quyết Ngài đã phán.
13 Hỡi dòng dõi của I-sơ-ra-ên,[a] tôi tớ Ngài,
Hỡi con cháu của Gia-cốp, những người Ngài đã chọn.
14 Ngài là Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta;
Các phán quyết của Ngài là định luật cho cả địa cầu.
15 Ngài ghi nhớ giao ước của Ngài mãi mãi,
Lời Ngài đã truyền có hiệu lực cho ngàn thế hệ về sau,
16 Ấy là giao ước Ngài đã lập với Áp-ra-ham,
Và lời thề Ngài đã thề cùng I-sác.
17 Sau đó Ngài đã xác nhận với Gia-cốp như một đạo luật,
Với I-sơ-ra-ên như một giao ước đời đời,
18 Rằng, “Ta sẽ ban xứ Ca-na-an cho các ngươi để làm sản nghiệp,”
19 Trong khi họ chỉ là một số ít người,
Một nhóm thiểu số và là những kiều dân trong xứ.
20 Họ đã đi lang thang từ nước nầy sang nước khác,
Từ vương quốc nọ đến vương quốc kia.
21 Nhưng Ngài đã không cho phép ai hà hiếp họ;
Vì cớ họ, Ngài đã quở trách các vua,
22 “Ðừng đụng đến những người được xức dầu của Ta;
Chớ làm hại các tiên tri của Ta.”
23 Hỡi cả thế giới, hãy ca ngợi Chúa;
Hãy rao truyền ơn cứu rỗi của Ngài từ ngày nọ sang ngày kia.
24 Hãy công bố vinh hiển của Ngài giữa các quốc gia,
Hãy thuật lại những việc lạ lùng của Ngài cho mọi dân tộc.
25 Chúa thật vĩ đại thay!
Chỉ Ngài là Ðấng đáng được ca tụng.
Ngài là Ðấng đáng kính sợ hơn tất cả các thần.
26 Vì tất cả các thần của các dân chỉ là hình tượng vô tri;
Còn Chúa là Ðấng đã dựng nên các từng trời.
27 Huy hoàng và uy nghi ở trước mặt Ngài,
Quyền năng và đẹp đẽ ở trong nơi thánh của Ngài.
28 Hãy quy về cho Chúa, hỡi các dòng họ của muôn dân,
Hãy quy về cho Chúa vinh hiển và quyền năng.
29 Hãy quy về cho Chúa vinh hiển xứng đáng với danh Ngài;
Hãy đem một của lễ đến trước thánh nhan Ngài.
Hãy tôn thờ Chúa trong nơi thánh tráng lệ của Ngài;
30 Hỡi cả thế giới, khá run sợ trước mặt Ngài.
Ðịa cầu đã được lập vững; nó sẽ không bị chuyển dời.
31 Nguyện các từng trời vui mừng, nguyện trái đất vui vẻ;
Nguyện người ta nói giữa các quốc gia, “Chúa trị vì!”
32 Nguyện đại dương và mọi vật trong nó gầm vang;
Nguyện đồng xanh và mọi vật trong nó mừng rỡ;
33 Bấy giờ mọi cây rừng sẽ hát ca vui vẻ,
Ở trước mặt Chúa, vì Ngài sắp đến để phán xét thế gian.
34 Hãy cảm tạ Chúa, vì Ngài rất tốt,
Vì tình thương của Ngài còn đến đời đời.
35 Xin mọi người hãy nói, “Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con,
Xin giải cứu chúng con,
Xin đem chúng con từ giữa các dân trở về,
Ðể chúng con cảm tạ danh thánh của Ngài,
Và tôn vinh ca ngợi Ngài.
36 Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên,
Từ đời đời cho đến đời đời.”
Xin mọi người hãy nói, “A-men!” và hãy ca ngợi Chúa!

37 Ða-vít để A-sáp và bà con của ông ấy ở lại tại đó trước Rương Giao Ước của Chúa, để họ phục vụ thường xuyên mỗi ngày trước Rương Thánh như đã định. 38 Ông cũng để Ô-bết Ê-đôm và sáu mươi tám người bà con của ông ấy ở lại đó. Ô-bết Ê-đôm con của Giê-đu-thun và Hô-sa đặc trách việc giữ cửa. 39 Ngoài ra ông cũng để Tư Tế Xa-đốc và bà con của ông ấy làm tư tế trước Ðền Tạm của Chúa ở nơi cao tại Ghi-bê-ôn, 40 để họ thường xuyên dâng các của lễ thiêu lên Chúa trên bàn thờ dâng của lễ thiêu, mỗi sáng và mỗi chiều, theo như mọi điều đã ghi trong luật pháp Chúa đã truyền cho I-sơ-ra-ên. 41 Cùng ở với họ có Hê-man, Giê-đu-thun, và những người khác đã được chọn và được nêu đích danh để lo việc tạ ơn Chúa, vì tình thương của Ngài còn đến đời đời. 42 Hê-man và Giê-đu-thun được trao cho các kèn, các khánh chiêng, và mọi thứ nhạc khí để họ lo việc tấu nhạc khi hát thánh ca. Các con của Giê-đu-thun được chỉ định túc trực nơi cổng chính.

43 Sau đó toàn dân I-sơ-ra-ên rời nơi ấy trở về nhà họ. Ða-vít cũng trở về nhà ông và chúc phước cho gia đình ông.

Footnotes

  1. I Sử Ký 16:13 Thi 105:6 ghi Áp-ra-ham