Add parallel Print Page Options

A-xy-ri tấn công Giu-đa

32 Sau khi vua Ê-xê-chia thực hiện các công tác trên để phục vụ CHÚA thì Xê-na-chê-ríp, vua A-xy-ri kéo đến đánh Giu-đa. Ông và đạo quân mình vây và tấn công các thành có vách kiên cố, định chiếm lấy các thành đó cho mình. Vua Ê-xê-chia biết Xê-na-chê-ríp đã kéo đến định tấn công Giê-ru-sa-lem. Vì thế vua Ê-xê-chia, các viên chức và các viên chỉ huy quân đội quyết định cắt đứt đường dẫn nước từ các suối bên ngoài thành phố. Các viên chức và sĩ quan chỉ huy giúp đỡ vua Ê-xê-chia. Nhiều người đến cắt đứt tất cả các suối và nguồn nước chảy qua xứ. Họ bảo, “Khi vua A-xy-ri đến đây sẽ không tìm được chút nước nào.” Sau đó Ê-xê-chia tăng cường thành Giê-ru-sa-lem. Vua xây lại các lỗ thủng trong vách và đặt tháp canh lên trên. Vua cũng xây một vách nữa bên ngoài vách đầu tiên và xây Mi-lô trong thành Đa-vít. Vua cũng làm nhiều vũ khí và thuẫn. Vua Ê-xê-chia đặt các sĩ quan chỉ huy trên dân chúng và gặp họ nơi khu trống gần cửa thành. Ê-xê-chia giục giã họ rằng, “Hãy mạnh dạn và can đảm lên. Đừng sợ hay lo âu về vua A-xy-ri hay lực lượng đông đảo của vua ấy. Đấng ở với chúng ta mạnh hơn lực lượng của chúng nó. Vua đó chỉ có đông người thôi, còn chúng ta có CHÚA là Thượng Đế giúp chúng ta đánh trận.” Dân chúng trở nên can đảm qua lời giục giã của Ê-xê-chia, vua Giu-đa.

Trong khi vua Xê-na-chê-ríp của A-xy-ri và các sĩ quan của ông ở La-kích thì ông sai các đầy tớ đến Giê-ru-sa-lem nhắn như sau cho vua Ê-xê-chia của Giu-đa và toàn dân Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem: 10 Xê-na-chê-ríp, vua A-xy-ri nói như sau: “Các ngươi chẳng có gì để nhờ cậy được đâu. Các ngươi ở trong Giê-ru-sa-lem khi thành đó bị tấn công thì có ích gì. 11 Ê-xê-chia nói cùng các ngươi, ‘CHÚA là Thượng Đế chúng ta sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua A-xy-ri,’ nhưng ông ta gạt các ngươi đó. Nếu các ngươi còn ở trong Giê-ru-sa-lem các ngươi sẽ chết vì đói và khát. 12 Chính Ê-xê-chia đã tháo gỡ các nơi thờ phụng và bàn thờ của CHÚA các ngươi. Ông ta bảo rằng các ngươi là dân cư Giu-đa và Giê-ru-sa-lem chỉ được thờ phụng và đốt hương trên một bàn thờ mà thôi. 13 Các ngươi biết điều tổ tiên ta và ta đã làm cho tất cả các dân tộc khác. Thần của các dân đó đâu có giúp họ thoát khỏi quyền lực của ta. 14 Tổ tiên ta đã tiêu diệt các dân tộc đó, không có thần nào của họ có thể cứu họ khỏi tay ta cả. Cho nên thần của các ngươi cũng sẽ không thể nào giải cứu các ngươi khỏi quyền lực của ta đâu. 15 Đừng để Ê-xê-chia phỉnh gạt các ngươi. Đừng tin người. Không có thần của dân hay nước nào đã giải cứu họ khỏi tay ta hay tổ tiên ta cả. Thần các ngươi lại càng không thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta được đâu.”

16 Các sĩ quan của Xê-na-chê-ríp còn buông lời thậm tệ hơn nữa để bêu xấu CHÚA là Thượng Đế cùng tôi tớ Ngài là Ê-xê-chia. 17 Vua Xê-na-chê-ríp cũng viết nhiều thư sỉ nhục CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en. Các thư đó viết nghịch Ngài như sau, “Thần của các dân khác đâu có giải thoát họ khỏi tay ta. Vì thế thần của Ê-xê-chia cũng không làm sao giải thoát các ngươi khỏi tay ta được.” 18 Rồi các sĩ quan của vua kêu lớn lên bằng tiếng Hê-bơ-rơ cho dân Giê-ru-sa-lem ở trên vách thành nghe. Họ muốn làm cho dân chúng hoảng sợ để chiếm thành Giê-ru-sa-lem. 19 Họ nói đến Thượng Đế của Giê-ru-sa-lem như thể Ngài giống như thần của các dân trên thế gian thờ phụng, do tay loài người làm ra.

20 Vua Ê-xê-chia và nhà tiên tri Ê-sai, con của A-mốt đã cầu nguyện với trời về điều nầy. 21 Sau đó CHÚA sai một thiên sứ xuống giết tất cả các binh sĩ, cấp lãnh đạo, và sĩ quan trong doanh trại của vua A-xy-ri. Cho nên vua nhục nhã trở về xứ mình. Khi ông vào đền thờ của thần mình để bái lạy thì mấy đứa con ông dùng gươm giết ông chết. 22 Vậy CHÚA giải cứu Ê-xê-chia và dân cư Giê-ru-sa-lem khỏi tay Xê-na-chê-ríp, vua A-xy-ri, và khỏi các dân khác. CHÚA chăm sóc họ đủ mọi mặt. 23 Rất nhiều người mang lễ vật đến cho CHÚA ở Giê-ru-sa-lem và họ cũng mang nhiều lễ vật quí giá biếu Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Từ đó về sau tất cả các dân tộc đều kính nể vua Ê-xê-chia.

Ê-xê-chia qua đời

24 Lúc đó vua Ê-xê-chia lâm bệnh nặng gần chết. Vua cầu nguyện cùng CHÚA thì Ngài phán cùng vua và cho vua một dấu hiệu. [a] 25 Nhưng vua Ê-xê-chia không cảm tạ Thượng Đế về lòng nhân từ Ngài vì vua quá tự phụ. CHÚA nổi giận với vua cùng dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 26 Nhưng sau đó vua Ê-xê-chia và toàn dân Giê-ru-sa-lem hối hận, không tự phụ nữa cho nên CHÚA không trừng phạt họ trong khi vua Ê-xê-chia còn sống.

27 Vua Ê-xê-chia có nhiều của cải và danh tiếng. Vua lập nhiều kho chứa bạc, vàng, đá quí, hương liệu, thuẫn, và các vật quí khác. 28 Vua cũng xây các kho chứa ngũ cốc, rượu mới, dầu, và chuồng cho gia súc và ràn cho chiên. 29 Vua cũng xây nhiều thị trấn. Ông có rất nhiều chiên và bò vì Thượng Đế ban cho ông nhiều của cải. 30 Vua Ê-xê-chia là người chận hồ trên của suối Ghi-hôn để cho nước chảy thẳng đến phía Tây của khu cũ trong Giê-ru-sa-lem. Ê-xê-chia thành công trong mọi việc ông làm.

31 Nhưng có lần các nhà lãnh đạo Ba-by-lôn phái các sứ giả đến Ê-xê-chia để hỏi thăm về điềm lạ đã xảy ra trong xứ. [b] Khi họ đến thì Thượng Đế để Ê-xê-chia tự hành động để thử xem những điều có trong lòng ông. [c]

32 Lòng yêu mến Thượng Đế của Ê-xê-chia và các việc khác vua làm đều được chép trong khải tượng của nhà tiên tri Ê-sai, con A-mốt. Khải tượng đó được ghi trong sách các vua Giu-đa và Ít-ra-en. 33 Ê-xê-chia qua đời và được chôn trên một ngọn đồi nơi có mồ mả của con cháu Đa-vít. Tất cả dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem tỏ lòng tôn kính Ê-xê-chia khi vua qua đời. Rồi Ma-na-xe, con trai ông, lên nối ngôi.

Ma-na-xe, vua Giu-đa

33 Ma-na-xe được mười hai tuổi khi lên ngôi vua và trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông làm điều ác trước mặt CHÚA. Ông làm những việc ghê tởm như các dân khác đã làm, tức các dân mà CHÚA đã đuổi ra khỏi xứ trước mặt dân Ít-ra-en. Ê-xê-chia, cha Ma-na-xe đã phá hủy những nơi thờ thần tượng nhưng Ma-na-xe cho xây lại. Ông cũng xây bàn thờ cho các thần Ba-anh, dựng lại các trụ thờ thần A-sê-ra cùng bái lạy các chòm sao [d] trên trời và phục vụ chúng. CHÚA đã phán về đền thờ rằng, “Ta sẽ được thờ phụng tại Giê-ru-sa-lem đời đời,” nhưng Ma-na-xe đã xây các bàn thờ ngay trong đền thờ CHÚA. Ông xây các bàn thờ để bái lạy các ngôi sao trong hai sân của đền thờ CHÚA. Ông thiêu con trai mình làm của lễ trong Thung lũng Bên Hin-nôm. [e] Ông dùng ma thuật, đồng bóng, đoán tương lai bằng cách giải điềm và mộng mị. Vua nghe theo các đồng bóng và thầy bói. [f] Ông làm vô số điều ác, chọc giận CHÚA. Ma-na-xe tạc một tượng chạm và đặt trong đền thờ Thượng Đế. Ngài đã phán cùng Đa-vít và Sô-lô-môn, con ông, về đền thờ rằng, “Ta sẽ được thờ phụng đời đời trong đền thờ nầy tại Giê-ru-sa-lem mà ta đã chọn từ trong các chi tộc Ít-ra-en. Ta sẽ không bao giờ bắt dân Ít-ra-en bỏ xứ mà ta đã cấp cho tổ tiên họ. Nhưng họ phải vâng theo mọi điều ta truyền dặn trong các lời giáo huấn, qui tắc, và mệnh lệnh ta truyền qua Mô-se.”

Nhưng Ma-na-xe dẫn dụ dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem làm điều ác. Họ làm ác hơn tất cả các dân mà CHÚA đã tiêu diệt trước mặt dân Ít-ra-en.

10 CHÚA phán cùng Ma-na-xe và dân sự ông nhưng họ không nghe. 11 Vì vậy CHÚA đưa các chỉ huy quân đội của vua A-xy-ri đến tấn công Giu-đa. Họ bắt Ma-na-xe, treo móc vào ông, cùm tay ông trong xiềng sắt và giải qua Ba-by-lôn.

12 Trong khi Ma-na-xe đang gặp khốn khó ông liền cầu khẩn CHÚA là Thượng Đế của mình giúp đỡ và hạ mình xuống trước mặt Thượng Đế của tổ tiên mình. 13 Khi Ma-na-xe cầu khẩn thì CHÚA nghe và động lòng từ bi đối với ông. Ngài cho ông trở về Giê-ru-sa-lem và phục hồi ngôi vua cho ông. Lúc đó Ma-na-xe nhận biết rằng CHÚA là Thượng Đế thật.

14 Sau đó Ma-na-xe xây lại vách ngoài của thành Giê-ru-sa-lem cho cao hơn. Vách đó nằm trong thung lũng về phía Tây của suối Ghi-hôn và chạy dài đến cửa vào Cổng Cá và bao quanh đồi Ô-phên. [g] Rồi ông đặt các viên chỉ huy trong tất cả các thành có vách kiên cố trong Giu-đa. 15 Ma-na-xe tháo bỏ các thần tượng của các dân khác, luôn cả thần tượng trong đền thờ CHÚA. Ông tháo bỏ các bàn thờ mà ông đã xây trên đồi của đền thờ và trong Giê-ru-sa-lem, ném chúng ra bên ngoài thành phố. 16 Rồi ông lập lại bàn thờ Chúa và dâng sinh tế trên đó gồm của lễ thân hữu và của lễ khác để cảm tạ Thượng Đế. Ma-na-xe truyền cho tất cả dân chúng Giu-đa phải phục vụ CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 17 Dân chúng tiếp tục dâng sinh tế ở những nơi thờ phụng nhưng họ chỉ dâng sinh tế cho CHÚA là Thượng Đế của mình mà thôi.

18 Các việc khác Ma-na-xe làm trong khi trị vì, lời cầu nguyện của ông cùng Thượng Đế, và những điều mà các nhà tiên kiến nói với ông nhân danh CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, đều được ghi trong sách lịch sử của các vua Ít-ra-en. 19 Lời cầu nguyện của Ma-na-xe, lòng từ bi của Thượng Đế đối với ông, tội lỗi ông, sự bất trung của ông và những nơi ông xây để thờ phụng tà thần cùng trụ thờ thần A-sê-ra trước khi ông ăn năn đều được ghi trong sách của các nhà tiên kiến. 20 Ma-na-xe qua đời và được chôn trong cung điện mình. A-môn, con trai ông lên nối ngôi.

A-môn, vua Giu-đa

21 A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi vua và trị vì hai năm tại Giê-ru-sa-lem. 22 Ông làm điều ác trước mặt CHÚA y như Ma-na-xe cha mình đã làm. A-môn thờ phụng và dâng sinh tế cho tất cả các tượng chạm mà Ma-na-xe đã làm. 23 A-môn không hạ mình xuống trước mặt CHÚA như cha mình đã làm. Ngược lại, A-môn còn phạm tội nhiều hơn nữa. 24 Các sĩ quan của vua A-môn lập mưu phản và giết ông ngay trong cung vua. 25 Tuy nhiên dân chúng xử tử tất cả những người đã âm mưu giết vua A-môn. Sau đó họ lập Giô-xia, con trai A-môn lên nối ngôi.

Footnotes

  1. II Sử Ký 32:24 Ngài phán cùng … một dấu hiệu Xem Ê-sai 38:1-8 về câu chuyện Ê-xê-chia được CHÚA cho sống lâu thêm 15 năm nữa.
  2. II Sử Ký 32:31 điềm lạ đã xảy ra trong xứ Xem Ê-sai 38:1-8.
  3. II Sử Ký 32:31 điều có trong lòng ông Xem II Vua 20:12-19.
  4. II Sử Ký 33:3 chòm sao Hay “nhóm sao.” Đây có thể là tên 12 ngôi sao của cung hoàng đạo dùng trong chiêm tinh. Một vài người tin rằng các ngôi sao điều khiển đời sống họ chứ không phải Thượng Đế.
  5. II Sử Ký 33:6 Thung lũng Bên Hin-nôm Thung lũng nầy về sau có tên “Ghê-hê-na.” Thung lũng nầy nằm về phía Tây-Nam Giê-ru-sa-lem nơi nhiều hài nhi và trẻ thơ bị hoả thiêu dâng lên cho các thần giả.
  6. II Sử Ký 33:6 đồng bóng và thầy bói Tức là những lối tin dị đoan để đoán tương lai.
  7. II Sử Ký 33:14 đồi Ô-phên Vùng phía trên của thành Đa-vít, gần phía Nam của đền thờ.

Sên-na-chê-ríp Xâm Lăng

32 Sau các việc ấy, tức các việc làm trung tín của Ê-xê-chia, Sên-na-chê-ríp kéo quân đến xâm lăng Giu-đa. Hắn chia quân bao vây các thành kiên cố, vì nghĩ rằng hắn sẽ chiếm được các thành ấy. Khi Ê-xê-chia thấy Sên-na-chê-ríp đã kéo quân đến và biết rõ chủ tâm của hắn muốn tấn công Giê-ru-sa-lem, ông bàn với các triều thần và các vị chỉ huy quân đội của ông, và quyết định ngăn chặn các nguồn nước ở bên ngoài thành lại, và họ giúp ông thực hiện được điều đó. Vậy họ huy động nhiều người đến hiệp nhau ngăn chặn các nguồn nước và các khe suối chảy qua vùng đất ấy. Họ bảo, “Tại sao để cho các vua A-sy-ri đến đây và thấy có nhiều nước chứ?” Ðồng thời ông nỗ lực xây lại những chỗ đổ vỡ của tường thành và xây các pháo tháp trên tường thành. Ông xây thêm một bức tường thành bên ngoài bức tường thành đã có sẵn và làm cho thành kiên cố bằng cách xây dựng các chiến hào cho khu vực Thành Ða-vít. Ngoài ra ông cho chế tạo nhiều vũ khí và các khiên. Ông đặt các sĩ quan chỉ huy quân dân để chiến đấu, rồi tập họp họ đến trước mặt ông nơi quảng trường ở cổng thành. Ông khích lệ họ và nói, “Hãy mạnh mẽ và can đảm lên. Chớ sợ hãi và đừng kinh hoảng trước mặt vua A-sy-ri và trước mặt đạo quân đông đảo của hắn, vì Ðấng ở với chúng ta mạnh hơn hắn. Ở với hắn chỉ là một đạo quân người phàm xác thịt, còn ở với chúng ta là Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, Ðấng giúp đỡ chúng ta và đánh giặc với chúng ta.” Quân dân được vững lòng nhờ những lời khích lệ của Ê-xê-chia vua Giu-đa.

Sau đó Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri kéo toàn thể đại quân của hắn đến bao vây La-kích. Từ đó hắn sai các sứ giả của hắn đến Giê-ru-sa-lem và nói với Ê-xê-chia vua Giu-đa và dân Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem rằng, 10 “Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri phán thế nầy: Các ngươi tin cậy vào ai mà cứ ở trong Giê-ru-sa-lem để bị bao vây như vậy? 11 Há chẳng phải Ê-xê-chia đã thuyết phục các ngươi rằng, ‘Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua A-sy-ri’ để các ngươi phải chết đói và chết khát sao? 12 Há chẳng phải Ê-xê-chia nầy là người đã dẹp bỏ các tế đàn trên những nơi cao và các bàn thờ để dâng của tế lễ cho Ngài, và truyền lịnh cho dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Các ngươi chỉ thờ phượng trước một bàn thờ và chỉ dâng hương trên đó mà thôi’ hay sao? 13 Các ngươi há không biết những gì ta và cha ông ta đã làm cho các dân ở các nước khác hay sao? Các thần của các dân ở các nước đó há có thể giải cứu đất nước của chúng khỏi tay ta chăng? 14 Có thần nào trong tất cả các thần của các dân mà cha ông ta đã tận diệt có thể giải cứu dân của thần đó khỏi tay ta chăng? Thế thì Ðức Chúa Trời của các ngươi há có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta được sao? 15 Vậy bây giờ chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi. Chớ để hắn thuyết phục các ngươi như thế. Chớ tin hắn, vì không có thần nào của dân nào hay của nước nào có thể cứu dân của thần đó khỏi tay ta hay tay của cha ông ta được. Thế thì làm thế nào Ðức Chúa Trời của các ngươi có thể cứu các ngươi khỏi tay ta?”

16 Các tôi tớ của hắn còn nói thêm những lời khác xúc phạm đến Chúa Ðức Chúa Trời và chống lại Ê-xê-chia tôi tớ Ngài. 17 Hắn còn gởi các thư ra nhục mạ Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, và nói những lời xúc phạm đến Ngài rằng, “Giống như các thần của các dân các nước không thể cứu chúng khỏi tay ta, thì Ðức Chúa Trời của Ê-xê-chia cũng sẽ không thể cứu dân của hắn khỏi tay ta.” 18 Chúng nói lớn tiếng trong ngôn ngữ của người Giu-đa đang ở trên đầu tường thành để làm cho họ hoang mang lo sợ và khủng hoảng tinh thần hầu có thể tấn công chiếm thành. 19 Chúng nói về Ðức Chúa Trời của Giê-ru-sa-lem như thể nói về các thần của các dân trên thế gian, bởi các thần ấy chỉ là sản phẩm do tay người ta làm ra.

Sên-na-chê-ríp Bị Bại và Chết

20 Bấy giờ Vua Ê-xê-chia và Tiên Tri Ê-sai con của A-mô cất tiếng lớn hướng lên trời khẩn nguyện và kêu cầu. 21 Chúa bèn sai một thiên sứ của Ngài đến trong trại quân của vua A-sy-ri và giết tất cả các chiến sĩ dũng mãnh, các tướng tá, và các sĩ quan của hắn. Vì thế hắn phải trở về nước của hắn trong nhục nhã. Khi hắn vào đền thờ thần của hắn để cúng bái, các con của hắn đã dùng gươm đâm chết hắn trong đó. 22 Như vậy Chúa đã giải cứu Ê-xê-chia và dân cư Giê-ru-sa-lem khỏi tay Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri, và khỏi mọi kẻ thù khác. Ngài ban cho ông được bình an tứ phía. 23 Nhiều người mang các của lễ đến Giê-ru-sa-lem dâng lên Chúa và các quà quý giá cống hiến Ê-xê-chia vua Giu-đa. Từ đó ông được mọi dân chung quanh nể trọng.

Ê-xê-chia Bị Bịnh và Ðược Chữa Lành

24 Trong những ngày ấy Ê-xê-chia bị bịnh và gần chết. Ông cầu nguyện với Chúa. Ngài đáp lời ông và ban cho ông một dấu hiệu. 25 Nhưng Ê-xê-chia không báo đáp ơn lành ông đã nhận được, vì lòng ông kiêu ngạo. Vì thế một cơn thịnh nộ đã giáng trên ông, cùng trên Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 26 Ê-xê-chia bèn hạ lòng kiêu ngạo của ông xuống; cả ông và dân cư ở Giê-ru-sa-lem đều làm như thế. Do đó suốt thời gian còn lại của triều đại Ê-xê-chia, cơn thịnh nộ của Chúa đã ngưng giáng xuống.

Sự Giàu Sang của Ê-xê-chia

27 Ê-xê-chia rất giàu có và được tôn trọng. Ông xây cất các nhà kho để chứa bạc, vàng, bảo ngọc, thuốc thơm, thuẫn khiên, và mọi thứ quý giá. 28 Ông xây các vựa lẫm để chứa lúa gạo, rượu mới, và dầu ô-liu. Ông cất các chuồng cho các đàn bò, và các ràn cho các đàn chiên. 29 Ngoài ra ông xây cho ông nhiều thành, và mua cho ông nhiều đàn chiên và đàn bò, vì Chúa ban cho ông nhiều của cải. 30 Chính Ê-xê-chia nầy là người đã ngăn chặn thượng nguồn của Suối Ghi-hôn và dẫn nước chảy ngầm xuống phía tây của Thành Ða-vít. Ê-xê-chia được thành công trong mọi việc tay ông làm.

31 Tuy nhiên khi các sứ giả do những kẻ cầm quyền ở Ba-by-lôn phái đến để tìm hiểu về những việc lạ lùng đã xảy ra trong xứ, Ðức Chúa Trời đã tạm lìa khỏi ông, để xem trong thâm tâm ông, lòng ông thật sự tin kính Ngài như thể nào.

Kết Thúc Triều Ðại Ê-xê-chia

(2 Vua 20:20-21)

32 Những hoạt động khác của Ê-xê-chia, đặc biệt những việc tốt ông làm, này, chúng đều được chép trong Khải Tượng của Tiên Tri Ê-sai con của A-mô, một phần trong sách Các Vua Giu-đa và I-sơ-ra-ên. 33 Ê-xê-chia an giấc với tổ tiên ông. Người ta chôn ông trong các hang mộ trên cao dành cho con cháu của Ða-vít. Toàn dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến tỏ lòng tôn kính ông trong tang lễ. Sau đó Ma-na-se con trai ông lên ngôi kế vị.

Triều Ðại của Ma-na-se

(2 Vua 21:1-18)

33 Ma-na-se được mười hai tuổi khi lên ngai làm vua. Ông trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông làm những điều gian tà tội lỗi trước mặt Chúa, bắt chước những điều gớm ghiếc của các dân Chúa đã đuổi đi trước mặt người I-sơ-ra-ên. Ông xây lại các tế đàn trên những nơi cao mà Ê-xê-chia cha ông đã dẹp bỏ. Ông xây dựng lại các bàn thờ cho Thần Ba-anh, và các trụ thờ cho Nữ Thần A-sê-ra. Ông quỳ xuống sụp lạy tất cả các thần tinh tú và thờ phượng chúng. Ông xây dựng các bàn thờ để thờ các tà thần ngay trong khu vực Ðền Thờ Chúa, nơi Chúa đã phán, “Giê-ru-sa-lem là nơi danh Ta sẽ ngự đời đời.” Ông xây các bàn thờ cho các thần tinh tú trên trời ngay trong hai sân của Ðền Thờ Chúa. Ông cũng bắt các con trai thơ dại của ông đem thiêu trong lửa để cúng thần trong Thung Lũng Bên Hin-nôm. Ông tin phù thủy, chiêm tinh, thầy bói; ông cầu hỏi đồng bóng và thầy pháp. Ông làm nhiều điều gian tà tội lỗi trước mặt Chúa, chọc Ngài nổi giận. Ông lấy hình tượng ông đã làm và đem đặt trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, nơi Ðức Chúa Trời đã phán với Ða-vít và Sa-lô-môn con trai ông ấy, “Trong Ðền Thờ nầy ở Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn trong tất cả các chi tộc của I-sơ-ra-ên, nơi Ta sẽ đặt danh Ta tại đó đời đời, Ta sẽ không để cho bàn chân của dân I-sơ-ra-ên rời khỏi đất Ta đã định cho tổ tiên chúng, nếu chúng cẩn thận làm theo mọi điều trong luật pháp, luật lệ, và mạng lịnh mà Ta đã truyền cho chúng qua Môi-se.”

Nhưng Ma-na-se đã xúi giục dân Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem làm những điều gian tà tội lỗi hơn tất cả các dân mà Chúa đã tiêu diệt trước mặt dân I-sơ-ra-ên. 10 Chúa phán với Ma-na-se và dân của ông, nhưng họ không nghe. 11 Vì thế Chúa đã đem các vị chỉ huy quân đội của vua A-sy-ri đến bắt Ma-na-se, đóng gông ông lại, lấy xích đồng xiềng ông lại, rồi đem ông qua By-by-lôn.

12 Bấy giờ trong cơn khốn quẫn ông tìm kiếm Chúa, Ðức Chúa Trời của ông. Ông hết sức hạ mình xuống trước mặt Ðức Chúa Trời của tổ tiên ông. 13 Ông cầu nguyện với Ngài; ông tha thiết cầu xin Ngài. Ngài đã nghe tiếng kêu cầu của ông và làm cho ông được trở về lại Giê-ru-sa-lem trong vương quốc của ông. Bấy giờ Ma-na-se nhận biết chỉ có Chúa mới là Ðức Chúa Trời của ông.

14 Sau đó ông xây lại tường thành bên ngoài Thành Ða-vít, ở phía tây của Ghi-hôn, trong thung lũng, cho đến lối vào Cổng Cá, rồi tiếp tục xây vòng quanh Ðồi Ô-phên. Ông xây bức tường ấy lên thật cao. Sau đó ông đặt các vị chỉ huy quân đội trong tất cả các thành kiên cố của Giu-đa. 15 Ông dẹp bỏ các thần ngoại bang và hình tượng ra khỏi khu vực Ðền Thờ Chúa, và tất cả các bàn thờ mà ông đã xây trên núi của Ðền Thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem và quăng chúng ra ngoài thành. 16 Ông sửa sang lại bàn thờ Chúa, rồi dâng trên đó các của lễ cầu an và các của lễ tạ ơn. Ông truyền cho dân Giu-đa phải thờ phượng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 17 Tuy nhiên dân chúng vẫn còn tiếp tục dâng các thú vật hiến tế ở các tế đàn trên những nơi cao, mặc dù họ chỉ dâng chúng lên Chúa, Ðức Chúa Trời của họ.

18 Những sinh hoạt khác của Ma-na-se, lời cầu nguyện của ông dâng lên Ðức Chúa Trời, những lời của các đấng tiên kiến đã nhân danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, nói với ông, này, chúng đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua I-sơ-ra-ên.

19 Lời cầu nguyện của ông và thể nào ông đã được nhậm lời cầu xin, cũng như tất cả các tội lỗi của ông và các vi phạm của ông, những chỗ ông xây cất các tế đàn trên những nơi cao, những nơi ông xây các trụ thờ cho Nữ Thần A-sê-ra và các hình tượng trước khi ông hạ mình xuống, này, chúng đều được chép trong sách Sử Ký của Các Ðấng Tiên Kiến. 20 Ma-na-se an giấc với tổ tiên ông. Người ta chôn ông trong cung điện của ông. A-môn con trai ông lên ngai kế vị.

Triều Ðại của A-môn

(2 Vua 21:19-26)

21 A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì hai năm tại Giê-ru-sa-lem. 22 Ông làm những điều gian tà trước mặt Chúa, như cha của ông đã làm, vì A-môn dâng các thú vật hiến tế cho các hình tượng mà cha ông đã làm, và ông thờ lạy chúng. 23 Ông không hạ mình xuống trước mặt Chúa như cha ông đã hạ mình xuống, nhưng A-môn phạm tội càng ngày càng nhiều hơn. 24 Các tôi tớ của ông đã lập mưu làm phản ông. Chúng ám sát ông ngay trong cung điện của ông. 25 Nhưng dân trong nước đã xử tử tất cả những kẻ đã thực hiện âm mưu ám sát Vua A-môn. Sau đó dân trong nước đã lập Giô-si-a con trai ông lên ngôi làm vua kế vị.

Thầy tế lễ tối cao gạn hỏi Chúa Giê-xu(A)

19 Thầy tế lễ tối cao gạn hỏi Chúa Giê-xu về môn đệ Ngài và những điều dạy dỗ của Ngài. 20 Chúa Giê-xu đáp, “Tôi đã nói công khai cho mọi người. Tôi thường dạy dỗ trong các hội đường và đền thờ, nơi mọi người Do-thái nhóm họp lại. Tôi chẳng giấu diếm điều gì. 21 Thế thì tại sao ông hạch hỏi tôi? Hãy hỏi những người đã nghe tôi dạy. Họ biết những gì tôi dạy.”

22 Khi Chúa Giê-xu nói thế thì một trong những tên lính hầu cận tát Ngài một cái rồi bảo, “Anh dám ăn nói kiểu đó với thầy tế lễ tối cao à?”

23 Chúa Giê-xu hỏi hắn, “Nếu tôi nói gì sai, hãy chỉ tôi sai chỗ nào. Còn nếu tôi nói đúng tại sao anh đánh tôi?”

24 Rồi An-na cho giải Ngài, lúc ấy vẫn còn bị trói, sang Cai-pha là thầy tế lễ tối cao.

Phia-rơ lại chối lần nữa(B)

25 Phia-rơ vẫn đang đứng sưởi ấm, thì mấy người đứng đó hỏi Phia-rơ, “Anh cũng là môn đệ của người ấy phải không?”

Phia-rơ chối phăng, “Không phải.”

26 Một trong những người đầy tớ của thầy tế lễ tối cao đứng đó là bà con với người bị Phia-rơ chém đứt vành tai. Anh lên tiếng, “Tôi thấy anh ở trong vườn với ông ta, đúng không?”

27 Một lần nữa, Phia-rơ lại chối. Tức thì gà gáy.

Chúa Giê-xu bị giải đến trước Phi-lát(C)

28 Sáng sớm hôm sau họ giải Chúa Giê-xu từ nhà riêng của Cai-pha qua dinh tổng đốc La-mã. Họ không đi vào trong dinh vì sợ bị ô dơ [a], không ăn lễ Vượt Qua được. 29 Vì thế Phi-lát bước ra bên ngoài dinh hỏi họ, “Các anh cáo người nầy về tội gì?”

30 Họ đáp, “Nếu tên nầy không phải là tay gian ác, thì chúng tôi không giải đến cho quan.”

31 Phi-lát bảo họ, “Nếu thế mấy anh cứ việc mang ông ta ra xử theo luật của mấy anh đi!”

Người Do-thái trả lời, “Chúng tôi không được phép xử tử ai cả.” 32 Điều nầy xảy ra để hoàn thành lời Chúa Giê-xu đã nói trước là Ngài sẽ chết cách nào.

33 Phi-lát trở vào trong dinh, cho mang Chúa Giê-xu đến hỏi, “Anh có phải là vua dân Do-thái không?”

34 Chúa Giê-xu hỏi lại, “Ngài hỏi câu đó là tự ý mình hay có người nào nói với ngài về tôi?”

35 Phi-lát đáp, “Tôi có phải là người Do-thái đâu? Đồng bào anh và các giới trưởng tế giải anh đến cho tôi. Thế anh đã làm gì nên tội?”

36 Chúa Giê-xu đáp, “Quốc gia của tôi không thuộc về hạ giới nầy. Nếu nước tôi thuộc về hạ giới thì các đầy tớ tôi sẽ chiến đấu để tôi khỏi bị giải giao cho các người Do-thái. Quốc gia của tôi ở nơi khác.”

37 Phi-lát liền hỏi, “Thế anh là vua à?”

Chúa Giê-xu đáp, “Đúng vậy. Chính ngài nói tôi là vua. Sở dĩ tôi được sinh ra và đến trần thế là để làm chứng về chân lý cho dân chúng. Người nào thuộc về chân lý thì nghe tôi.”

38 Phi-lát thắc mắc, “Chân lý là cái gì?” Nói xong, Phi-lát bước ra ngoài tuyên bố với người Do-thái, “Tôi chẳng thấy người nầy có tội gì. 39 Tuy nhiên theo tục lệ của các anh, đến ngày lễ Vượt Qua, tôi phóng thích một tù nhân. Thế các anh có muốn tôi phóng thích ‘Vua dân Do-thái’ không?”

40 Họ gào thét, “Không, đừng tha tên nầy! Hãy tha Ba-ra-ba!” Ba-ra-ba là tên phản loạn.

Read full chapter

Footnotes

  1. Giăng 18:28 ô dơ Nếu người Do-thái bước vào nhà của một người ngoại quốc thì họ sẽ trở nên ô dơ, không thích nghi để thờ phụng. Xem Gi 11:55.

Thượng Tế An-nát Chất Vấn Chúa

(Mat 26:59-68; Mác 14:56-65; Lu 22:63-71)

19 Bấy giờ vị thượng tế hạch hỏi Ðức Chúa Jesus về các môn đồ Ngài và về những lời dạy của Ngài. 20 Ðức Chúa Jesus trả lời ông, “Ta từng nói công khai giữa thiên hạ; Ta thường giảng dạy trong các hội đường và đền thờ, là những nơi người Do-thái tụ họp; Ta chẳng nói lén lút điều gì. 21 Tại sao ngươi hỏi Ta? Hãy hỏi những người đã nghe Ta nói với họ. Này, họ biết Ta đã nói những gì.”

22 Khi Ngài đã nói như vậy một tên sĩ quan đứng gần đó tát Ðức Chúa Jesus một cái và nói, “Anh trả lời thượng tế như thế sao?”

23 Ðức Chúa Jesus nói với hắn, “Nếu Ta nói sai, hãy chỉ ra chỗ sai của Ta; còn nếu Ta nói đúng, tại sao ngươi đánh Ta?”

24 An-nát sai giải Ðức Chúa Jesus, vẫn bị trói, đến Cai-a-pha, vị thượng tế đương nhiệm.

Phi-rơ Chối Chúa Hai Lần Nữa

(Mat 26:71-75; Mác 14:69-72; Lu 22:58-62)

25 Khi ấy Si-môn Phi-rơ đang đứng sưởi ấm, chợt có người hỏi ông, “Ông cũng là một môn đồ của ông ấy phải không?”

Phi-rơ chối và nói, “Không phải tôi.”

26 Một trong các đầy tớ của vị thượng tế có bà con với người bị Phi-rơ chém đứt tai nói, “Không phải tôi đã thấy ông trong vườn với ông ấy sao?” 27 Phi-rơ lại chối nữa; ngay lúc đó một con gà cất tiếng gáy.

Chúa Trước Tòa Phi-lát

(Mat 27:11-18, 20-23; Mác 15:2-15;Lu 23:2-3, 18-25)

28 Sáng sớm hôm đó họ giải Ðức Chúa Jesus từ nhà Cai-a-pha đến dinh Tổng Trấn, nhưng chính họ không vào dinh để khỏi bị ô uế hầu có thể ăn Lễ Vượt Qua. 29 Vì thế Phi-lát đi ra gặp họ và hỏi, “Các ngươi cáo buộc người này về tội gì?”

30 Họ trả lời và nói với ông, “Nếu người này không phải là kẻ làm ác, chúng tôi đã không nộp hắn cho quan.”

31 Phi-lát nói với họ, “Các ngươi hãy dẫn người ấy đi và xử theo luật các ngươi.”

Người Do-thái trả lời ông, “Chúng tôi không được phép xử tử ai.” 32 Thế là lời Ðức Chúa Jesus đã nói trước về Ngài sẽ chết cách nào được ứng nghiệm.

33 Phi-lát trở vào dinh, sai điệu Ðức Chúa Jesus đến, và hỏi Ngài, “Ngươi có phải là Vua dân Do-thái không?’

34 Ðức Chúa Jesus trả lời, “Ngươi nói điều này là tự ý ngươi hay đã có ai nói với ngươi về Ta?”

35 Phi-lát trả lời, “Ta không phải là người Do-thái phải không? Chính đồng bào ngươi và các trưởng tế đã nộp ngươi cho ta. Ngươi đã làm gì?”

36 Ðức Chúa Jesus đáp, “Vương quốc Ta không thuộc về thế gian này. Nếu vương quốc Ta thuộc về thế gian này thì các tôi tớ Ta đã chiến đấu, để Ta không bị nộp vào tay người Do-thái, nhưng vương quốc Ta không từ thế gian này.”

37 Phi-lát hỏi Ngài, “Vậy ngươi là Vua sao?”

Ðức Chúa Jesus trả lời, “Chính ngươi nói rằng Ta là Vua. Vì lý do đó Ta đã được sinh ra, và vì lý do đó Ta đã đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Ta.”

38 Phi-lát nói với Ngài, “Chân lý là gì?”

Sau khi nói như vậy, ông trở ra gặp người Do-thái và nói với họ, “Ta không tìm thấy ông ấy có tội gì. 39 Nhưng các ngươi có được thông lệ này: cứ vào Lễ Vượt Qua, ta thả cho các ngươi một người. Các ngươi muốn ta thả ‘Vua dân Do-thái’ ra không?”

40 Họ gào to lại, “Chớ thả người ấy, nhưng hãy thả Ba-ra-ba.” Vả, Ba-ra-ba là một tên trộm cướp.

Read full chapter