Add parallel Print Page Options

Kỷ niệm Lễ Vượt Qua

30 Vua Ê-xê-chia thông báo cho toàn dân Ít-ra-en và Giu-đa, vua cũng gởi thơ cho Ép-ra-im và Ma-na-xe [a]. Ê-xê-chia mời họ đến đền thờ CHÚA ở Giê-ru-sa-lem để kỷ niệm Lễ Vượt Qua cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. Vua Ê-xê-chia, các sĩ quan, và toàn dân cư Giê-ru-sa-lem đồng ý kỷ niệm Lễ Vượt Qua vào tháng hai. Họ không thể kỷ niệm lễ ấy vào thời gian bình thường vì không đủ số thầy tế lễ dọn mình sẵn sàng phục vụ CHÚA, và dân chúng chưa tề tựu về Giê-ru-sa-lem kịp. Chương trình đó hợp ý vua Ê-xê-chia và toàn dân. Vì vậy họ loan báo khắp nơi trong Ít-ra-en, từ Bê-e-sê-ba cho đến Đan, cho dân chúng biết để đến Giê-ru-sa-lem kỷ niệm Lễ Vượt Qua cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. Từ lâu lắm hầu hết dân chúng chưa kỷ niệm Lễ Vượt Qua theo như luật lệ qui định. Theo lệnh vua, các sứ giả mang thư vua và các sĩ quan đi đến khắp xứ Ít-ra-en và Giu-đa. Thư viết như sau:

“Hỡi dân Ít-ra-en, hãy trở lại cùng CHÚA, Thượng Đế của Áp-ra-ham, Y-sác, và Ít-ra-en thì Thượng Đế sẽ trở lại cùng các ngươi là những người còn sống sót, đã thoát khỏi tay các vua A-xy-ri. Đừng như tổ tiên hay thân nhân các ngươi. Họ chống nghịch CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình, cho nên Ngài khiến các dân khác gớm ghét họ. Các ngươi biết rõ chuyện nầy. Đừng ương ngạnh như tổ tiên các ngươi mà hãy sẵn lòng vâng phục CHÚA. Hãy đến đền thờ mà Ngài đã biệt ra thánh đời đời. Hãy phục vụ CHÚA là Thượng Đế ngươi để Ngài không còn nổi giận cùng các ngươi nữa. Hãy trở về cùng Thượng Đế thì những kẻ đã bắt các thân nhân và con cháu các ngươi sẽ tỏ lòng nhân từ cùng họ và sẽ cho phép họ trở về xứ nầy. CHÚA là Thượng Đế các ngươi rất nhân từ và giàu lòng thương xót. Ngài sẽ không ngoảnh mặt khỏi các ngươi nếu các ngươi trở về cùng Ngài.”

10 Các sứ giả đi khắp các thị trấn trong Ép-ra-im và Ma-na-xe, suốt đến Xê-bu-lôn, nhưng dân chúng chế nhạo và chê cười họ. 11 Tuy nhiên một số người từ A-se, Ma-na-xe, và Xê-bu-lôn ăn năn về những điều họ làm và đi đến Giê-ru-sa-lem. 12 Thượng Đế kết hợp tất cả dân Giu-đa chịu vâng lời vua Ê-xê-chia và các sĩ quan, vì mệnh lệnh của họ đến từ CHÚA.

13 Vào tháng hai thì một số đông dân chúng tề tựu về Giê-ru-sa-lem để kỷ niệm Lễ Bánh Không Men. 14 Dân chúng tháo bỏ các bàn thờ và các bàn thờ xông hương cho các thần khác ở Giê-ru-sa-lem rồi ném xuống Thung lũng Kít-rôn. 15 Họ giết con chiên con của Lễ Vượt Qua vào ngày mười bốn tháng hai. Các thầy tế lễ và người Lê-vi cảm thấy xấu hổ nên họ dọn mình ra thánh và mang của lễ thiêu vào đền thờ CHÚA. 16 Họ trở lại vai trò thường xuyên của mình trong đền thờ theo như Lời Giáo Huấn của Mô-se, người của Thượng Đế, đã truyền dặn. Người Lê-vi trao huyết của con sinh tế cho thầy tế lễ để rưới lên bàn thờ. 17 Vì nhiều người trong quần chúng chưa dọn mình ra thánh, cho nên người Lê-vi giết các con chiên con của Lễ Vượt Qua cho người nào chưa tinh sạch. Người Lê-vi biệt riêng mỗi con chiên con ra thánh cho CHÚA.

18-19 Mặc dù dân chúng từ Ép-ra-im, Ma-na-xe, Y-xa-ca, và Xê-bu-lôn chưa dọn mình cho sạch để dự lễ, họ vẫn ăn Lễ Vượt Qua tuy rằng làm như thế là trái luật. Cho nên vua Ê-xê-chia cầu thay cho họ rằng, “Lạy CHÚA, Ngài là Đấng nhân từ. Ngài là CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên chúng tôi. Xin tha thứ cho tất cả những ai cố gắng vâng theo Ngài mặc dù họ chưa dọn mình cho sạch theo qui tắc của đền thờ.” 20 CHÚA nghe lời cầu nguyện của Ê-xê-chia, nên Ngài chữa lành dân chúng. 21 Dân Ít-ra-en ở Giê-ru-sa-lem kỷ niệm Lễ Bánh Không Men trong bảy ngày với niềm hân hoan trong CHÚA. Mỗi ngày người Lê-vi và các thầy tế lễ chơi nhạc vang lừng để ca ngợi CHÚA. 22 Vua Ê-xê-chia khuyến khích các người Lê-vi nào tỏ ra hiểu cách phục vụ CHÚA. Dân chúng ăn lễ trong bảy ngày, dâng của lễ thân hữu, và ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên họ.

23 Rồi mọi người đồng ý ở lại thêm bảy ngày nữa, cho nên họ hân hoan kỷ niệm thêm bảy ngày nữa. 24 Ê-xê-chia, vua Giu-đa cấp cho dân chúng một ngàn con bò đực và bảy ngàn con chiên. Các sĩ quan cũng dâng một ngàn con bò đực và mười ngàn con chiên. Vô số thầy tế lễ tự dọn mình ra thánh. 25 Tất cả dân Giu-đa, các thầy tế lễ, người Lê-vi, mọi người đến từ Ít-ra-en, người ngoại quốc sống trong xứ Ít-ra-en và Giu-đa đều vô cùng hớn hở. 26 Bầu không khí vui tươi trải khắp Giê-ru-sa-lem vì từ thời Sô-lô-môn, con Đa-vít và vua Ít-ra-en, chưa hề có dịp kỷ niệm như vậy. 27 Các thầy tế lễ và người Lê-vi đứng lên chúc phước cho dân chúng, Thượng Đế nghe họ vì lời cầu nguyện của họ lên thấu đến thiên đàng, nơi Ngài ngự.

Những cải cách của vua Ê-xê-chia

31 Khi lễ Vượt Qua đã được kỷ niệm xong thì toàn dân Ít-ra-en trong Giê-ru-sa-lem đi đến các thị trấn trong Giu-đa. Họ đập phá những trụ đá dùng thờ thần ngoại quốc. Họ giật sập các tượng A-sê-ra và phá hủy các bàn thờ và nơi thờ phụng các thần ngoại quốc ở Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im, và Ma-na-xe. Sau khi họ đã tiêu hủy những thứ đó rồi thì dân Ít-ra-en trở về nhà mình.

Vua Ê-xê-chia chỉ định các toán thầy tế lễ và người Lê-vi vào các nhiệm vụ đặc biệt. Họ phải dâng của lễ thiêu, của lễ thân hữu, để thờ phụng, và dâng lời cảm tạ cùng ca ngợi nơi cổng của nhà Chúa [b]. Vua Ê-xê-chia dâng một số gia súc của mình làm của lễ thiêu. Các của lễ nầy được dâng mỗi sáng mỗi chiều, vào những ngày Sa-bát, ngày Trăng Mới, và các cuộc lễ khác theo như lời Giáo Huấn của Chúa. Vua Ê-xê-chia truyền cho dân chúng sống ở Giê-ru-sa-lem dâng cho các thầy tế lễ phần thuộc riêng về họ để các thầy tế lễ và người Lê-vi có thể dành trọn thì giờ lo cho việc Giáo Huấn của Chúa. Khi lệnh vua vừa được ban ra cho người Ít-ra-en thì ai nấy đều rộng rãi dâng hiến phần ngũ cốc đầu mùa, rượu mới, dầu, mật ong, và mọi thứ họ trồng trong ruộng nương. Họ mang một số lương rất lớn, một phần mười của mọi thứ. Dân Ít-ra-en và Giu-đa sống trong xứ Giu-đa cũng mang một phần mười gia súc và chiên cừu, một phần mười các vật thánh để dâng cho CHÚA là Thượng Đế mình, và chất thành từng đống.

Dân chúng bắt đầu mang đến hàng đống phẩm vật vào tháng ba và đến tháng bảy mới xong.

Khi vua Ê-xê-chia và các sĩ quan đến thấy các đống ấy thì ca ngợi CHÚA và dân Ngài, tức dân Ít-ra-en.

Vua Ê-xê-chia hỏi các thầy tế lễ và người Lê-vi về các đống đồ ấy. 10 A-xa-ria, thầy tế lễ cả từ gia đình Xa-đốc, thưa với vua, “Từ khi dân chúng bắt đầu mang của lễ dâng hiến đến đền thờ CHÚA, chúng tôi dư ăn và còn thừa lại vì CHÚA đã ban phước cho dân Ngài. Vì thế đây là những đồ dâng hiến còn dư lại.”

11 Sau đó vua Ê-xê-chia ra lệnh chuẩn bị các kho chứa trong đền thờ CHÚA. Thế là lệnh này được thực hiện. 12 Rồi các thầy tế lễ mang vào những của lễ và những vật dâng cho CHÚA cùng một phần mười [c] các thứ dân chúng hiến dâng. Cô-na-nia, người Lê-vi, coi sóc các món nầy, và Si-mê-i, em ông, làm phụ tá. 13 Cô-na-nia và Si-mê-i, em ông, làm trưởng các giám thị sau đây: Giê-hi-ên, A-xa-xia, Na-hát, A-xa-hên, Giê-ri-mốt, Giô-xa-bát, Ê-li-ên, Ích-ma-kia, Ma-hát, và Bê-nai-gia. Vua Ê-xê-chia và A-xa-ria, viên chức quản lý đền thờ Thượng Đế đã chọn lựa họ. 14 Cô-rê, con Im-na, người Lê-vi phụ trách các lễ vật đặc biệt dân chúng dâng cho Thượng Đế. Ông cũng chịu trách nhiệm phân phát những vật phẩm đóng góp cho CHÚA và các món dâng thánh. Cô-rê là người giữ Cửa Đông. 15 Ê-đen, Mi-ni-a-min, Giê-sua, Sê-mai-gia, A-ma-ria, và Sê-ca-nia phụ giúp Cô-rê trong các thị trấn mà các thầy tế lễ cư ngụ. Họ phân phát số lễ vật thu được cho các nhóm thầy tế lễ khác, không phân biệt già trẻ. 16 Từ số lễ vật đó ấy, họ cũng cấp cho những người thuộc phái nam từ ba tuổi trở lên có tên trong gia phổ của người Lê-vi. Họ phải vào đền thờ CHÚA để lo công việc hằng ngày, mỗi nhóm có nhiệm vụ riêng. 17 Các thầy tế lễ được cấp phần của mình trong số thu được, theo gia đình đã được liệt kê trong gia phổ. Những người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên được cấp phần trong số lễ vật dân chúng đóng góp, dựa theo trách nhiệm của họ và theo nhóm. 18 Các con nhỏ của người Lê-vi, vợ, con trai và con gái cũng được cấp phần trong số thu góp được. Việc cung cấp như thế được thực hiện cho tất cả các người Lê-vi được liệt kê theo gia phổ, vì họ luôn luôn dọn mình sẵn sàng để phục vụ CHÚA. 19 Một số con cháu A-rôn, các thầy tế lễ, sống trong các nông trại gần các thị trấn hay ngay trong thị trấn. Những người thuộc phái nam được chọn theo tên để cấp một phần các lễ vật cho các thầy tế lễ nầy. Tất cả các đàn ông và những ai có tên trong gia phổ của người Lê-vi đều nhận được phần của mình trong số lễ vật.

20 Đó là điều vua Ê-xê-chia làm khắp xứ Giu-đa. Vua làm điều tốt, đúng và vâng lời trước mặt CHÚA là Thượng Đế mình. 21 Ê-xê-chia hết sức vâng lời Thượng Đế trong việc phục vụ đền thờ Ngài, và ông cố gắng vâng theo lời giáo huấn và mệnh lệnh của Thượng Đế. Ông hết lòng lo công việc Thượng Đế cho nên ông rất thành công.

Footnotes

  1. II Sử Ký 30:1 Ép-ra-im và Ma-na-xe Hai con trai của Giô-xép. Vì đây là hai chi tộc đông dân nhất cho nên Ép-ra-im và Ma-na-xe đôi khi được dùng để chỉ toàn vương quốc Ít-ra-en ở phía Bắc.
  2. II Sử Ký 31:2 nhà Chúa Hay “Trại quân của Chúa” nghĩa là sân đền thờ tại Giê-ru-sa-lem.
  3. II Sử Ký 31:12 một phần mười Một phần mười mùa màng hay súc vật của dân chúng.

Cử Hành Lễ Vượt Qua

30 Ê-xê-chia sai các sứ giả đi khắp I-sơ-ra-ên và Giu-đa; ông cũng gởi thư cho các chi tộc Ép-ra-im và Ma-na-se, mời họ đến Ðền Thờ Chúa tại Giê-ru-sa-lem để dự Lễ Vượt Qua, hầu tỏ lòng nhớ ơn Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. Vì vua, triều thần, và toàn thể hội chúng ở Giê-ru-sa-lem đã biểu quyết sẽ tổ chức Lễ Vượt Qua vào tháng hai. Sở dĩ họ không thể giữ lễ đó đúng theo chu kỳ đã định thường niên[a] vì không đủ các tư tế được thánh hóa để phụng tế, đồng thời dân chúng cũng chưa được tập họp đông đủ về Giê-ru-sa-lem. Vua và toàn thể hội chúng đều cho quyết định như thế là phải lẽ. Vậy họ gởi thông báo ra cho toàn dân I-sơ-ra-ên, từ Bê-e Sê-ba đến Ðan, mời mọi người về Giê-ru-sa-lem dự Lễ Vượt Qua, hầu tỏ lòng nhớ ơn Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, vì lâu nay họ đã bỏ qua và không tổ chức lễ ấy hằng năm như đã quy định. Vậy những người đưa thư mang các thư của vua và của triều thần đến khắp nơi trong I-sơ-ra-ên và Giu-đa mời gọi rằng:

“Hỡi người I-sơ-ra-ên, hãy trở về với Chúa, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, I-sác, và I-sơ-ra-ên, để Ngài có thể quay lại với các ngươi, những người sống sót nhờ trốn thoát tay các vua A-sy-ri. Ðừng giống như cha ông các ngươi và bà con các ngươi trước đây mà bất trung với Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ, khiến Ngài phải biến họ thành một chứng tích điêu tàn, như các ngươi đã thấy. Ðừng cứng cổ như cha ông các ngươi, nhưng hãy thuận phục Chúa. Hãy đến thờ phượng nơi đền thánh Ngài, nơi Ngài đã biệt riêng ra thánh đời đời. Hãy thờ phượng Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi, để cơn thịnh nộ phừng phừng của Ngài sẽ quay khỏi các ngươi. Nếu các ngươi trở về với Chúa, bà con các ngươi và con cháu các ngươi có thể được những kẻ bắt chúng đem lưu đày tỏ lòng thương xót đối với chúng, và biết đâu chúng sẽ được trở về lại xứ nầy, vì Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi, là Ðấng khoan dung độ lượng và thương xót. Nếu các ngươi quay về với Ngài, Ngài sẽ không quay mặt khỏi các ngươi mãi đâu.”

10 Vậy những người đưa thư đi từ thành nầy đến thành khác, khắp địa phận của các chi tộc Ép-ra-im và Ma-na-se cho đến tận những miền xa xôi của chi tộc Xê-bu-lun, nhưng chúng nhạo cười và chế giễu họ. 11 Dầu vậy cũng có một số người của các chi tộc A-se, Ma-na-se, và Xê-bu-lun chịu hạ mình và đi đến Giê-ru-sa-lem dự lễ. 12 Tại Giu-đa tay Ðức Chúa Trời ở với họ nên ai nấy đều một lòng vâng lịnh vua và các triều thần mà làm theo lời Chúa. 13 Vì thế trong tháng hai, một đoàn người rất đông tụ họp về Giê-ru-sa-lem để dự Lễ Bánh Không Men.

14 Họ đứng dậy dẹp bỏ các bàn thờ tà thần ở Giê-ru-sa-lem. Họ dẹp bỏ tất cả các bàn thờ dâng hương cho chúng và đem quăng chúng xuống Khe Kít-rôn.

15 Họ giết con chiên của Lễ Vượt Qua vào ngày mười bốn tháng hai. Bấy giờ các tư tế và những người Lê-vi lấy làm hổ thẹn và vội vàng làm thủ tục thanh tẩy chính họ, rồi đem các của lễ thiêu vào Ðền Thờ Chúa. 16 Họ đứng vào vị trí của họ theo như Luật Pháp của Môi-se, người của Ðức Chúa Trời, đã quy định. Các tư tế nhận lấy máu của thú vật hiến tế do những người Lê-vi trao cho và đem rảy trên bàn thờ, 17 vì trong hội chúng vẫn có nhiều người chưa làm thủ tục thanh tẩy chính mình để có thể dự lễ, nên những người Lê-vi phải giết một con chiên của Lễ Vượt Qua cho mỗi người chưa được thanh tẩy để làm cho họ ra thánh đối với Chúa. 18 Số là có rất đông người, đặc biệt những người từ các chi tộc Ép-ra-im, Ma-na-se, I-sa-ca, và Xê-bu-lun về, họ không làm thủ tục thanh tẩy chính họ như đã quy định, nhưng lại ăn thịt con vật hiến tế của Lễ Vượt Qua, vì thế Ê-xê-chia đã cầu nguyện cho họ rằng, “Cầu xin Chúa nhân lành tha thứ họ, 19 những người có lòng thành tìm kiếm Ðức Chúa Trời là Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ, mặc dù họ đã không làm theo thủ tục thanh tẩy như đã quy định.”

20 Chúa nhậm lời cầu nguyện của Ê-xê-chia và cho dân được an lành.[b] 21 Dân I-sơ-ra-ên tụ họp về Giê-ru-sa-lem giữ Lễ Bánh Không Men trong bảy ngày với lòng phấn khởi vui mừng. Những người Lê-vi và các tư tế ngày nào cũng hát ca tôn ngợi Chúa; còn ban nhạc thì dùng các nhạc khí trỗi nhạc vang lừng chúc tụng Chúa.

22 Ê-xê-chia đã nói những lời khích lệ bày tỏ lòng tri ân đối với những người Lê-vi thông hiểu lễ chế đã nhiệt tình lo tổ chức đại lễ nhớ ơn Chúa.

Vậy dân ăn các món đặc biệt của kỳ lễ bảy ngày; họ dâng các của lễ cầu an và dâng lời cảm tạ[c] lên Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ. 23 Bấy giờ toàn thể hội chúng đồng ý giữ lễ thêm bảy ngày nữa. Vậy họ giữ lễ thêm bảy ngày nữa với lòng hớn hở vui mừng. 24 Vì Ê-xê-chia vua Giu-đa đã tặng cho hội chúng các thú vật hiến tế, gồm một ngàn bò đực và bảy ngàn chiên; các triều thần cũng tặng một ngàn con bò đực và mười ngàn chiên và dê. Rất nhiều tư tế đã làm thủ tục thanh tẩy chính mình để có thể đáp ứng đủ cho nhu cầu phụng tế.

25 Toàn thể hội chúng Giu-đa, các tư tế và những người Lê-vi, tất cả người I-sơ-ra-ên khắp nơi đã tập họp về, kể cả những ngoại kiều sống trong nước I-sơ-ra-ên, và những kiều dân trong nước Giu-đa, ai nấy đều hớn hở vui mừng. 26 Vậy tại Giê-ru-sa-lem mọi người đã có niềm vui rất lớn mà từ khi Sa-lô-môn con của Ða-vít làm vua I-sơ-ra-ên cho đến bấy giờ người ta chưa hề có được như thế ở Giê-ru-sa-lem. 27 Các tư tế và những người Lê-vi đứng dậy chúc phước cho dân, và Ðức Chúa Trời nhậm lời chúc phước của họ. Quả thật lời cầu nguyện của họ đã thấu đến thiên đàng, nơi ngự thánh của Ngài.

Dẹp Bỏ Các Ðền Miếu Thờ Thần Tượng

31 Bấy giờ sau khi mọi việc ấy đã xong, mọi người I-sơ-ra-ên đi ra các thành ở Giu-đa đập bể thành mảnh vụn tất cả các trụ thờ thần tượng, đốn hạ các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra, phá đổ tất cả các tế đàn trên những nơi cao và các bàn thờ ở những nơi đó. Họ dẹp bỏ các thứ đó ra khỏi mọi nơi ở Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im, và Ma-na-se cho đến khi họ dẹp bỏ chúng hoàn toàn. Sau đó mọi người I-sơ-ra-ên trở về; ai nấy trở về sản nghiệp mình, trong thành mình.

Chỉnh Ðốn Hàng Giáo Phẩm

Ê-xê-chia cắt đặt các tư tế và những người Lê-vi vào các ban ngành của họ, người nào vào việc nấy. Các tư tế đảm trách những việc của các tư tế, những người Lê-vi lo những việc của người Lê-vi, để dâng các của lễ thiêu, các của lễ cầu an, lo các việc tế tự, cảm tạ, và ca hát từ các cổng của các lều trong khu vực Ðền Thờ Chúa trở vào. Vua cũng dâng hiến phần của mình để làm các của lễ thiêu dâng lên hằng ngày vào mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều, các của lễ thiêu dâng hằng tuần vào mỗi ngày Sa-bát, hằng tháng vào những ngày trăng mới, và những ngày đại lễ như đã ghi trong Luật Pháp của Chúa. Ngoài ra ông còn truyền cho dân ở Giê-ru-sa-lem đóng góp phần của họ như đã quy định, để giúp các tư tế và những người Lê-vi dành trọn thì giờ vào việc giảng dạy và thi hành Luật Pháp của Chúa. Vừa khi lịnh vua được ban ra, dân I-sơ-ra-ên dâng hiến rất nhiều hoa lợi đầu mùa của lúa gạo, rượu mới, dầu, mật ong, và mọi sản phẩm của ruộng nương. Họ mang đến rất nhiều. Lợi tức nào họ cũng dâng một phần mười. Dân I-sơ-ra-ên và dân Giu-đa sống trong các thành của Giu-đa đã mang các của dâng một phần mười trong các đàn bò, các đàn chiên dê, và một phần mười của mọi thứ họ đã biệt riêng ra thánh cho Chúa, Ðức Chúa Trời của họ. Họ đã dẫn nhiều đàn súc vật đến và mang các lễ vật về chất thành nhiều đống. Từ tháng ba họ bắt đầu mang về chất thành đống và cho đến tháng bảy mới xong. Khi Ê-xê-chia và quần thần của ông thấy các đống lễ vật, họ chúc tụng Chúa và chúc phước cho dân I-sơ-ra-ên của Ngài.

Ê-xê-chia hỏi các tư tế và những người Lê-vi về các đống lễ vật người ta dâng còn để ngoài trời. 10 Trưởng Tế A-xa-ri-a, con cháu trong dòng dõi Xa-đốc, trả lời và nói, “Từ khi dân bắt đầu đem các của dâng vào Nhà Chúa, chúng tôi đã có đủ ăn và còn thừa rất nhiều, bởi vì Chúa đã ban phước cho dân của Ngài, và các đống đó là những gì còn dư lại.”

11 Ê-xê-chia bèn truyền cho dọn dẹp các phòng trong khu vực Ðền Thờ Chúa để làm các nhà kho, và người ta đã dọn dẹp như thế. 12 Sau đó họ trung tín đem vào đó các của dâng, các của lễ một phần mười, và các vật gì họ đã biệt riêng ra thánh. Cô-na-ni-a một người Lê-vi được bổ nhiệm để quản lý các kho ấy, và Si-mê-i em ông được cử làm phụ tá. 13 Theo lệnh của Vua Ê-xê-chia và A-xa-ri-a quan đặc trách mọi việc ở Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, các ông Giê-hi-ên, A-xa-xi-a, Na-hát, A-sa-hên, Giê-ri-mốt, Giô-xa-bát, Ê-li-ên, Ít-ma-ki-a, Ma-hát, A-xa-ri-a, và Bê-na-gia được cử làm giám thị để phụ giúp Cô-na-ni-a và Si-mê-i em ông ấy.

14 Cô-rê con của Im-na người Lê-vi, người giữ cửa ở Cổng Ðông, được bổ nhiệm làm người quản lý các của dâng lạc ý lên Ðức Chúa Trời và chịu trách nhiệm phân phát các lễ vật đã dâng lên Chúa và các lễ vật cực thánh. 15 Dưới quyền ông có các ông Ê-đen, Mi-ni-a-min, Giê-sua, Sê-ma-gia, A-ma-ri-a, và Sê-ca-ni-a phụ giúp, để phân phát các của dâng cho các tư tế sống trong các thành của các tư tế, theo các ban ngành của họ, bất luận già hay trẻ. 16 Hễ người nam nào từ ba tuổi trở lên, có tên trong sổ gia phả của họ, và đã theo phiên thứ của mình mà vào Ðền Thờ Chúa để phục vụ hằng ngày, thảy đều được chia phần các lễ vật. 17 Họ cũng chia phần cho các tư tế có tên trong gia phả theo gia tộc của họ và những người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên có tên trong danh sách những người phục vụ theo chức vụ và ban ngành của họ. 18 Ngoài ra họ còn chia phần cho mọi người trong gia đình các tư tế đã được liệt kê vào gia phả, bất luận là các con thơ, vợ, hoặc các con trai, và các con gái ở tuổi thiếu niên, vì những người ấy đã trung tín biệt riêng mình ra thánh để dự phần trong công tác phục vụ.

19 Về các tư tế, những người trong dòng dõi của A-rôn, những người sinh sống trong các ruộng đồng trực thuộc các thành của họ, thì trong mỗi thành đều có một số người được chỉ định đích danh để đảm trách việc phân phát các phần cho những người nam thuộc thành phần tư tế và cho mọi người Lê-vi có tên trong gia phả.

20 Ê-xê-chia đã làm như thế trong toàn cõi Giu-đa. Ông làm những gì tốt, đúng, và trung thành trước mặt Chúa, Ðức Chúa Trời của ông. 21 Trong mọi việc ông bắt đầu làm cho sự phục vụ Nhà Ðức Chúa Trời, và cho sự thi hành Luật Pháp và các điều răn, ông đều tìm kiếm Ðức Chúa Trời và làm một cách hết lòng; do đó ông được thành công thịnh vượng.

Footnotes

  1. II Sử Ký 30:3 Chu kỳ đã định thường niên là tháng giêng (Xuất 12:1-28)
  2. II Sử Ký 30:20 nt: chữa lành (ra-pha)
  3. II Sử Ký 30:22 ctd: xưng tội với Chúa

Chúa Giê-xu bị bắt(A)

18 Sau khi cầu nguyện xong, Chúa Giê-xu và các môn đệ băng qua thung lũng Kít-rôn. Phía bên kia thung lũng có một cái vườn, Ngài cùng các môn đệ vào đó.

Giu-đa, kẻ phản Ngài cũng biết địa điểm nầy, vì Chúa Giê-xu cùng các môn đệ thường hội họp tại vườn ấy. Do đó Giu-đa hướng dẫn một toán lính cùng với những viên chức do các giới trưởng tế và phe Pha-ri-xi sai đến. Chúng mang theo đèn đuốc và vũ khí.

Chúa Giê-xu biết mọi việc sẽ xảy đến cho mình nên bước tới hỏi họ, “Các anh tìm ai?”

Chúng trả lời, “Tìm Giê-xu người Na-xa-rét.”

Ngài nói, “Chính tôi đây.” [a] Giu-đa, kẻ phản Ngài cũng đứng đó với chúng. Khi Chúa Giê-xu nói, “Chính tôi đây!” thì chúng đều lùi lại và té xuống đất.

Một lần nữa Ngài lại hỏi, “Các anh tìm ai?”

Chúng đáp, “Tìm Giê-xu, người Na-xa-rét.”

Chúa Giê-xu bảo, “Tôi đã nói rằng chính tôi đây. Nếu các anh tìm tôi thì hãy để cho những người nầy đi.” Việc xảy ra để lời Ngài đã nói trước thành sự thật “Con không làm mất một người nào Cha đã giao cho Con.”

10 Xi-môn Phia-rơ có một thanh gươm, liền rút ra chém đứt vành tai phải của đầy tớ thầy tế lễ tối cao Người đầy tớ ấy tên Man-chu. 11 Chúa Giê-xu bảo Phia-rơ, “Hãy xỏ gươm con vào vỏ! Chẳng lẽ ta không uống ly [b] đau khổ mà Cha đã đưa cho ta sao?”

Chúa Giê-xu bị giải đến trước An-na(B)

12 Toán lính và sĩ quan chỉ huy người La mã cùng toán lính Do-thái liền ra tay bắt Chúa Giê-xu. Chúng trói Ngài lại 13 và trước hết giải đến An-na. Ông nầy là cha vợ của Cai-pha, thầy tế lễ tối cao năm đó. 14 Cai-pha là người đã gợi ý với người Do-thái rằng thà một người chết vì dân thì có lợi hơn.

Phia-rơ chối Chúa Giê-xu(C)

15 Xi-môn Phia-rơ và một môn đệ khác đi theo Chúa Giê-xu. Môn đệ ấy quen biết với thầy tế lễ tối cao nên được vào trong sân nhà của thầy tế lễ sau Chúa Giê-xu. 16 Còn Phia-rơ đứng chờ ngoài cổng. Môn đệ quen với thầy tế lễ tối cao ra nói với cô gái gác cổng xin mang Phia-rơ vào. 17 Cô ta hỏi Phia-rơ, “Ông cũng là một trong những môn đệ của người ấy phải không?”

Phia-rơ đáp, “Không phải.”

18 Vì trời lạnh nên những người đầy tớ và toán lính đốt một đống lửa rồi đứng quanh để sưởi ấm. Phia-rơ cũng đứng đó sưởi với họ.

Read full chapter

Footnotes

  1. Giăng 18:5 “Chính tôi đây.” Hay “Tôi là Giê-xu đây.” Cụm từ nầy cũng có thể có nghĩa tương tự như 8:24, 28, 58; 13:19. Xem thêm câu 8.
  2. Giăng 18:11 ly Chúa Giê-xu muốn nói những khốn khổ sẽ xảy ra cho Ngài. Chấp nhận những điều đó là việc rất khó chẳng khác nào uống một chất đắng.

Chúa Phó Mình cho Kẻ Ác

(Mat 26:47-56; Mác 14:43-50; Lu 22:47-53)

18 Sau khi Ðức Chúa Jesus đã nói những lời ấy, Ngài và các môn đồ Ngài đi qua bên kia Khe Kết-rôn, ở đó có một cái vườn; Ngài và các môn đồ Ngài vào vườn đó. Giu-đa kẻ phản Ngài cũng biết chỗ ấy, vì Ðức Chúa Jesus thường họp với các môn đồ Ngài tại đó. Bấy giờ Giu-đa dẫn một đội lính, cùng thuộc hạ của các trưởng tế và những người Pha-ri-si, mang đèn, đuốc, và vũ khí đến đó.

Ðức Chúa Jesus biết mọi việc sắp xảy đến với Ngài, Ngài bước tới và hỏi, “Các ngươi tìm ai?”

Họ trả lời Ngài, “Jesus người Na-xa-rét.”

Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Chính Ta đây.” Giu-đa, kẻ phản Ngài, cũng đứng chung với họ. Khi Ngài phán với họ, “Chính Ta đây,” họ lùi lại và té xuống đất.

Ngài lại hỏi họ, “Các ngươi tìm ai?”

Họ đáp, “Jesus người Na-xa-rét.”

Ðức Chúa Jesus nói, “Ta đã nói với các ngươi rằng chính Ta đây. Nếu các ngươi tìm Ta, hãy để những người này đi.”

Như thế là ứng nghiệm lời Ngài đã nói, “Con không làm mất một người nào Cha đã ban cho Con.” Gg 6:39; 17:12

10 Lúc ấy Si-môn Phi-rơ có một thanh gươm; ông rút ra, tấn công một đầy tớ của vị thượng tế, và chém đứt tai phải người ấy; người đầy tớ ấy tên là Man-chu. 11 Ðức Chúa Jesus bảo Phi-rơ, “Hãy tra gươm ngươi vào vỏ. Chén Cha đã trao cho Ta, Ta không uống sao?”

Chúa Bị Áp Giải đến An-nát

(Mat 26:57)

12 Vậy quân lính, viên sĩ quan chỉ huy, và các thuộc hạ của người Do-thái bắt Ðức Chúa Jesus và trói lại. 13 Trước hết, họ giải Ngài đến An-nát,[a] vì ông ấy là nhạc phụ của Cai-a-pha, vị thượng tế năm đó. 14 Cai-a-pha là người đã khuyên dân Do-thái rằng thà một người chịu chết cho toàn dân thì hơn.

Phi-rơ Chối Chúa Lần Thứ Nhất

(Mat 26:69-70; Mác 14:66-68; Lu 22:55-57)

15 Si-môn Phi-rơ với một môn đồ khác đi theo Ðức Chúa Jesus. Nhờ quen biết với vị thượng tế môn đồ đó có thể theo Ðức Chúa Jesus vào sân của dinh thượng tế, 16 nhưng Phi-rơ phải đứng bên ngoài cổng. Người môn đồ quen biết với vị thượng tế đi ra nói với chị gác cổng và đem Phi-rơ vào. 17 Bấy giờ người nữ nô lệ gác cổng nói với Phi-rơ, “Bộ ông không phải là một môn đồ của ông ấy sao?”

Phi-rơ trả lời, “Không phải tôi.”

18 Vì trời lạnh nên các đầy tớ và các thuộc hạ nhóm một đống lửa, rồi đứng sưởi ấm; Phi-rơ cũng đứng sưởi ấm với họ.

Read full chapter

Footnotes

  1. Giăng 18:13 An-nát vốn là thượng tế, nhưng ông đã bị người La-mã truất quyền và không cho thi hành chức vụ từ năm 15 S.C. Dù ông không được thi hành chức vụ, nhưng danh vị thượng tế của ông vẫn còn. Ngoài ra, An-nát còn được nhiều người cả nể vì ông là nhạc phụ của Cai-a-pha, vị thượng tế đương nhiệm.