Add parallel Print Page Options

Rước Rương Giao Ước vào đền thờ

Vua Sô-lô-môn triệu tập các bô lão trong Ít-ra-en, các tộc trưởng, và các trưởng gia đình đến trình diện mình tại Giê-ru-sa-lem. Ông muốn họ rước Rương Giao Ước của CHÚA từ thành Đa-vít, còn gọi là Xi-ôn. Vậy toàn dân Ít-ra-en họp lại cùng vua Sô-lô-môn vào dịp lễ đặc biệt [a] trong tháng lễ Ê-tha-nim, tức tháng thứ bảy.

Khi các bô lão Ít-ra-en đến thì các thầy tế lễ khiêng Rương lên. Họ mang Rương của CHÚA, Lều Họp, và các vật dụng thánh; các thầy tế lễ và người Lê-vi mang các món đó đến. Vua Sô-lô-môn và toàn dân Ít-ra-en tập họp trước Rương và dâng sinh tế bằng chiên và bò nhiều đến nỗi không thể đếm được. Rồi các thầy tế lễ đặt Rương Giao Ước của CHÚA vào Nơi Chí Thánh trong đền thờ, dưới các cánh của hai con thú. Các cánh của hai con thú giương ra trên nơi để Rương Giao Ước, che Rương và các đòn khiêng. Các đòn khiêng dài đến nỗi ai đứng trong Nơi Thánh ngay trước Nơi Chí Thánh đều có thể nhìn thấy đuôi của các đòn, nhưng đứng bên ngoài Nơi thánh thì không thấy được. Ngày nay các đòn nầy vẫn còn đó. Bên trong có hai bảng đá mà Mô-se đã đặt vào Rương trên núi Hô-rếp. Đó là nơi CHÚA lập giao ước với dân Ít-ra-en sau khi họ ra khỏi Ai-cập.

10 Khi các thầy tế lễ ra khỏi Nơi Thánh thì mây [b] phủ đầy đền thờ của CHÚA. 11 Các thầy tế lễ không thể thi hành nhiệm vụ được vì đền thờ đầy dẫy vinh quang CHÚA. 12 Sau đó Sô-lô-môn nói,

“CHÚA khiến mặt trời soi sáng bầu trời,
    nhưng Ngài lại chọn ở trong đám mây tối đen [c].
13 Lạy Chúa, tôi đã xây một đền thờ tuyệt đẹp cho Ngài,
    một nơi ở cho Ngài đời đời.”

14 Đang khi toàn dân Ít-ra-en đang đứng đó thì vua Sô-lô-môn quay mặt lại và chúc phước cho họ. 15 Rồi vua cầu nguyện như sau:

“Đáng ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. Ngài đã thực hiện điều Ngài đã hứa cùng Đa-vít, cha tôi. CHÚA phán, 16 ‘Từ khi ta mang dân Ít-ra-en ta ra khỏi Ai-cập, ta chưa chọn một thành nào trong chi tộc Ít-ra-en để xây đền thờ cho ta cả. Nhưng nay ta đã chọn Giê-ru-sa-lem làm thành phố, nơi danh ta được tôn kính [d]. Ta đã chọn Đa-vít lãnh đạo dân Ít-ra-en ta.’”

17 Đa-vít, cha ta muốn xây một đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 18 Nhưng CHÚA bảo Đa-vít, cha ta rằng, “Ngươi có ý tốt muốn xây một đền thờ cho ta. 19 Nhưng ngươi sẽ không phải là người làm chuyện đó. Con trai ngươi, do lòng ngươi sinh ra, sẽ là người xây đền thờ cho ta.”

Lời cầu nguyện của Sô-lô-môn

20 “Nay CHÚA đã giữ lời hứa Ngài. Ta đang làm vua thế cho Đa-vít, cha ta. Ta hiện đang cai trị Ít-ra-en như CHÚA đã hứa, và ta đã xây đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 21 Ta đã chuẩn bị một nơi cho Rương, trong đó có Giao ước CHÚA lập với tổ tiên chúng ta khi Ngài mang họ ra khỏi Ai-cập.”

22 Rồi Sô-lô-môn đứng quay mặt về phía bàn thờ CHÚA, còn tất cả dân chúng đứng phía sau vua. Ông giơ tay lên trời 23 và cầu nguyện:

“Lạy CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, trên trời và dưới đất không có thần nào giống như Ngài. Ngài giữ giao ước yêu thương với tôi tớ Ngài là những người thật tâm theo Ngài. 24 Ngài đã giữ lời hứa cùng cha tôi là Đa-vít, kẻ tôi tớ Ngài. Miệng Ngài đã hứa và hôm nay tay Ngài đã thực hiện lời hứa đó. 25 Bây giờ, lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, xin hãy giữ lời hứa Ngài cùng Đa-vít, cha tôi là kẻ tôi tớ Ngài. Ngài phán, ‘Nếu con cái ngươi cẩn thận vâng lời ta như ngươi đã làm thì bao giờ trong gia đình ngươi cũng có người cai trị trên Ít-ra-en.’ 26 Bây giờ lạy Thượng Đế của Ít-ra-en, xin hãy tiếp tục giữ lời hứa cùng cha tôi, Đa-vít, là kẻ tôi tớ Ngài.

27 Nhưng Thượng Đế ôi, Ngài có thực ở trên đất nầy không? Vì bầu trời và các từng trời cao còn không đủ chỗ CHÚA Ngài huống hồ tòa nhà nầy mà tôi đã xây. 28 Nhưng xin hãy nghe lời khẩn xin của tôi, vì tôi là kẻ tôi tớ CHÚA. Lạy CHÚA là Thượng Đế tôi, xin hãy nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hôm nay. 29 Xin hãy canh giữ đền thờ nầy đêm ngày là nơi Ngài đã phán, ‘Người ta sẽ thờ phụng ta tại đó.’ Xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi hướng về đền thờ nầy. 30 Xin hãy nghe lời cầu nguyện của tôi cùng lời cầu nguyện của Ít-ra-en, dân Ngài khi chúng tôi hướng về đền thờ nầy mà cầu nguyện. Từ nơi ở của Ngài trên trời xin hãy nghe và tha thứ cho chúng tôi.

31 Nếu ai làm tổn hại người khác và bị mang đến bàn thờ của đền thờ nầy. Nếu người đó thề rằng mình hoàn toàn vô tội, 32 thì xin CHÚA từ trời hãy nghe. Xin phân xử vụ đó, trừng phạt kẻ có tội, nhưng tuyên bố kẻ vô tội được trắng án.

33 Khi Ít-ra-en, dân CHÚA, phạm tội cùng Ngài và bị kẻ thù đánh bại. Nếu họ trở lại cùng Ngài, ca ngợi và cầu nguyện cùng CHÚA trong đền thờ nầy, 34 thì xin Ngài từ trời hãy nghe. Hãy tha tội cho họ và mang họ trở về xứ mà Ngài ban cho tổ tiên họ.

35 Khi họ phạm tội cùng Ngài và Ngài không cho mưa xuống trên xứ, họ sẽ hướng về nơi nầy cầu nguyện và ca ngợi Ngài; họ sẽ không phạm tội nữa khi Ngài trừng phạt họ. 36 Nếu điều đó xảy ra, xin Ngài hãy nghe lời cầu nguyện của họ từ trời, tha tội cho dân Ít-ra-en, kẻ tôi tớ Ngài. Xin dạy họ làm điều phải và xin cho mưa xuống trên xứ nầy mà Ngài đã ban riêng cho họ.

37 Có khi đất bị hạn hán đến nỗi không trồng trọt gì được, hay dân chúng bị bệnh dịch hành hại. Có khi mùa màng bị hư hại vì thiên tai hay bị cào cào hoặc châu chấu tiêu hủy. Dân Ngài có thể bị kẻ thù tấn công trong các thành hay bị bệnh tật hành hạ. 38 Khi những điều đó xảy ra dân chúng sẽ thật sự ăn năn. Nếu dân Ngài giơ tay ra cầu nguyện hướng về đền thờ nầy, 39 thì xin CHÚA từ nơi ở trên trời hãy nghe. Xin hãy tha thứ và đối xử mỗi người cho xứng đáng vì Ngài biết rõ lòng của mỗi người. Chỉ có một mình CHÚA biết rõ lòng con người. 40 Rồi dân chúng sẽ kính sợ Ngài suốt đời khi sống trong đất nầy là miền đất mà Ngài đã ban cho tổ tiên chúng tôi.

41-42 Như thế những dân không phải Ít-ra-en, những người ngoại quốc từ các nước khác sẽ nghe về quyền năng cao cả Ngài. Họ sẽ đến từ nơi xa xăm để cầu nguyện tại đền thờ nầy 43 thì xin CHÚA từ nơi ở Ngài trên trời lắng nghe và làm theo điều họ cầu xin. Như thế dân cư khắp nơi sẽ biết và kính sợ Ngài cũng như dân Ít-ra-en của Ngài. Rồi mọi người sẽ biết rằng tôi xây đền thờ nầy dùng làm nơi thờ phụng CHÚA.

44 Khi CHÚA sai dân Ngài đi trên đường ra chiến đấu cùng kẻ thù mình, họ sẽ cầu nguyện cùng Ngài, hướng về thành nầy mà Ngài đã chọn và đền thờ mà tôi đã xây cho Ngài. 45 Thì xin Ngài từ trời hãy nghe lời cầu nguyện của họ và xử công bằng cho họ.

46 Vì ai cũng phạm tội, cho nên khi dân chúng phạm tội cùng Ngài, đến nỗi Ngài nổi giận và trao họ vào tay quân thù. Quân thù sẽ bắt và đày họ đi đến xứ thật xa. 47 Khi họ bị làm tù binh trong xứ khác, dân Ngài sẽ thực tâm ăn năn. Họ sẽ hối hận và cầu nguyện cùng Ngài trong xứ họ bị làm tù binh rằng, ‘Chúng tôi đã phạm tội. Chúng tôi đã làm quấy và hành động gian ác.’ 48 Họ sẽ thực lòng trở về cùng Ngài trong xứ của kẻ thù. Họ sẽ cầu nguyện cùng Ngài, hướng về xứ nầy mà Ngài đã ban cho tổ tiên họ, thành nầy mà Ngài đã chọn, và đền thờ mà tôi đã xây cho Ngài. 49 Thì xin Ngài từ trời hãy nghe lời cầu nguyện của họ và làm điều phải. 50 Xin hãy tha tội cho dân Ngài vì đã chống nghịch Ngài. Xin hãy khiến các kẻ bắt họ làm tù binh tỏ lòng từ bi đối với họ. 51 Xin nhớ rằng họ là dân riêng của Ngài. Ngài mang họ ra khỏi Ai-cập giống như kéo họ ra khỏi lò lửa hực luyện sắt.

52 Xin hãy để ý đến lời cầu nguyện của tôi và của dân Ít-ra-en Ngài. Hễ khi nào họ xin Ngài cứu giúp, xin Ngài lắng nghe. 53 Lạy CHÚA là Thượng Đế, Ngài đã chọn họ từ các dân trên đất để làm dân riêng cho mình. Đó là điều Ngài hứa cùng Mô-se, kẻ tôi tớ Ngài khi Ngài mang tổ tiên chúng tôi ra khỏi Ai-cập,”

54 Sô-lô-môn cầu nguyện như thế cùng CHÚA, giơ tay lên trời và quì gối xuống trước bàn thờ. Sau khi cầu nguyện xong, ông đứng dậy, 55 và lớn tiếng chúc phước toàn dân Ít-ra-en rằng:

56 “Đáng chúc tụng CHÚA! Ngài hứa sẽ ban an nghỉ cho dân Ít-ra-en của Ngài, và nay Ngài đã làm điều đó. CHÚA đã giữ tất cả các lời hứa Ngài qua Mô-se, kẻ tôi tớ Ngài. 57 Nguyện CHÚA là Thượng Đế chúng tôi ở cùng chúng tôi như Ngài đã ở cùng tổ tiên chúng tôi. Nguyện xin Ngài không bao giờ lìa bỏ chúng tôi, 58 và xin Ngài mang chúng tôi về cùng Ngài để chúng tôi đi theo Ngài. Nguyện chúng tôi vâng theo các luật lệ và mệnh lệnh Ngài truyền cho tổ tiên chúng tôi. 59 Nguyện CHÚA là Thượng Đế đêm ngày ghi nhớ lời cầu nguyện nầy và hằng ngày làm điều phải cho tôi tớ cùng dân Ít-ra-en của Ngài. 60 Rồi mọi dân trên thế giới sẽ biết CHÚA là Thượng Đế duy nhất. 61 Các ngươi phải hết lòng vâng theo CHÚA là Thượng Đế chúng ta, vâng giữ các luật lệ và mệnh lệnh Ngài. Hãy làm như thế trong tương lai cũng như trong hiện tại.”

Các sinh tế

62 Rồi vua Sô-lô-môn và toàn dân Ít-ra-en dâng của lễ lên cho CHÚA. 63 Sô-lô-môn giết hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con chiên để làm của lễ. Vua và toàn dân cung hiến đền thờ cho CHÚA.

64 Trong ngày đó Sô-lô-môn biệt ra thánh phần giữa của sân trước mặt đền thờ của CHÚA, rồi vua dâng của lễ toàn thiêu, của lễ chay, và mỡ của của lễ thân hữu. Ông dâng các của lễ đó trong sân trước đền thờ vì bàn thờ đồng trước mặt CHÚA quá nhỏ không đủ chỗ chứa hết các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ của của lễ thân hữu.

65 Vậy Sô-lô-môn và toàn dân Ít-ra-en cử hành lễ [e] trong thời gian đó. Nhiều người đến từ các nơi rất xa như Lê-bô-Ha-mát và suối Ai-cập. Vô số người dự lễ trước mặt CHÚA là Thượng Đế trong bảy ngày, rồi dự thêm bảy ngày nữa, tất cả là mười bốn ngày [f]. 66 Hôm sau Sô-lô-môn cho dân chúng về. Họ ra về và chúc phước cho vua, vui mừng vì tất cả những điều tốt lành CHÚA đã làm cho tôi tớ Ngài là Đa-vít và cho toàn dân Ít-ra-en của Ngài.

Chúa lại hiện ra cùng Sô-lô-môn

Sô-lô-môn hoàn tất việc xây cất đền thờ của CHÚA và cung vua cùng mọi thứ vua muốn xây. Rồi CHÚA lại hiện ra cho vua lần nữa giống như lần trước ở Ghi-bê-ôn. CHÚA bảo vua, “Ta đã nghe lời cầu nguyện ngươi và điều ngươi cầu xin. Ngươi đã xây đền thờ nầy mà ta đã chọn làm nơi thánh. Người ta sẽ thờ phụng ta tại đó đời đời; ta sẽ trông nom và luôn luôn bảo vệ nó. Nhưng ngươi phải phục vụ ta như Đa-vít cha ngươi. Ngươi phải hết lòng làm điều phải. Ngươi phải vâng giữ những gì ta truyền cùng những luật lệ và qui tắc của ta. Nếu ngươi làm như thế, ta sẽ khiến ngôi nước ngươi vững chắc trên Ít-ra-en. Đây là lời ta hứa cùng Đa-vít cha ngươi rằng trong nhà người sẽ luôn luôn có người cai trị trên Ít-ra-en.

Nhưng ngươi và con cái ngươi phải đi theo ta, vâng giữ luật lệ và mệnh lệnh ta truyền cho. Các ngươi không được phục vụ hay thờ phụng thần nào khác. Nếu không ta sẽ đuổi dân Ít-ra-en ra khỏi xứ ta ban cho họ, và ta sẽ rời bỏ đền thờ nầy mà ta đã biệt riêng ra thánh. Các dân tộc sẽ chế giễu dân Ít-ra-en và bêu xấu họ. Nếu đền thờ bị tiêu hủy, ai đi qua lại cũng sẽ sửng sốt. Họ sẽ chế giễu các ngươi và hỏi, ‘Tại sao CHÚA làm điều ghê gớm nầy cho xứ và đền thờ?’ Người ta sẽ trả lời, ‘Vì họ đã bỏ CHÚA là Thượng Đế họ là Đấng mang tổ tiên họ ra khỏi Ai-cập. Họ đi theo các thần khác. Họ thờ phụng và phục vụ các thần đó cho nên CHÚA đưa thảm họa nầy đến trên họ.’”

10 Đến cuối năm thứ hai mươi, vua Sô-lô-môn đã xây hai tòa nhà: đền thờ của CHÚA và cung vua. 11 Lúc đó vua Sô-lô-môn cấp cho Hi-ram, vua Tia, hai mươi thị trấn trong vùng Ga-li-lê vì Hi-ram đã giúp vua xây cất các tòa nhà. Hi-ram đã cấp cho Sô-lô-môn tất cả gỗ hương nam, gỗ thông, và vàng mà vua cần. 12 Vậy Hi-ram từ Tia đi đến viếng các thị trấn mà Sô-lô-môn cấp cho mình nhưng khi viếng xong, Hi-ram không hài lòng. 13 Hi-ram hỏi, “Anh ơi, các thị trấn anh cho tôi đó có ra gì đâu?” Cho nên ông gọi chúng là Đất Ca-bun [g], ngày nay vẫn còn mang tên đó. 14 Hi-ram gởi cho Sô-lô-môn khoảng chín ngàn cân [h] vàng.

15 Sau đây là cách Sô-lô-môn dùng lao công cưỡng bách để xây đền thờ và hoàng cung. Ông bắt họ xây Mi-lô [i] ở Giê-ru-sa-lem. Ông cũng bảo họ xây lại các thành Hát-xo, Mê-ghi-đô, và Ghê-xe.

16 Trước kia vua Ai-cập tấn công và chiếm Ghê-xe. Sau khi tiêu hủy thành thì vua giết tất cả người Ca-na-an cư ngụ ở đó. Rồi vua tặng thành đó cho con gái mình là người kết hôn với Sô-lô-môn để làm của hồi môn. 17 Cho nên Sô-lô-môn xây lại thành ấy. Vua cũng xây các thành trong vùng hạ Bết-Hô-rôn 18 và Ba-a-lát, cùng Tát-mo trong sa mạc. 19 Vua Sô-lô-môn cũng xây các thành để trữ thóc lúa và đồ tiếp liệu và các thành cho quân xa và ngựa của vua. Ở Giê-ru-sa-lem, Li-băng hay bất cứ nơi nào vua cai trị vua muốn xây gì thì xây.

20 Trong xứ cũng có những dân không phải Ít-ra-en: A-mô-rít, Hê-tít, Phê-ri-xít, Hê-vít, và Giê-bu-xít. 21 Họ thuộc dòng dõi những dân mà người Ít-ra-en không tiêu diệt. Sô-lô-môn bắt họ làm nô lệ cho mình và cho đến nay vẫn như thế. 22 Nhưng Sô-lô-môn không bắt dân Ít-ra-en làm nô lệ. Họ làm lính, các quan chức, sĩ quan, các cấp chỉ huy, sĩ quan điều khiển quân xa, và tài xế quân xa. 23 Đó là những sĩ quan cao cấp nhất trông coi mọi việc. Có năm trăm năm mươi đốc công coi sóc các nhân công thực hiện những chương trình của Sô-lô-môn.

24 Con gái của vua Ai-cập dời từ thành Đa-vít đến cung điện Sô-lô-môn cất cho nàng. Rồi Sô-lô-môn xây Mi-lô.

25 Mỗi năm ba lần Sô-lô-môn dâng của lễ toàn thiêu và của lễ thân hữu trên bàn thờ vua đã xây cho CHÚA. Vua cũng đốt hương trước mặt CHÚA. Sô-lô-môn hoàn tất công tác cho đền thờ là như thế.

26 Vua Sô-lô-môn cũng đóng các tàu bè ở Ê-xi-ôn Ghê-be, một thị trấn gần Ê-lát trên bờ Biển Sậy, thuộc xứ Ê-đôm. 27 Hi-ram có các thủy thủ chuyên nghiệp nên vua phái họ phục vụ trên các thuyền bè nầy cùng với các thủy thủ của Sô-lô-môn. 28 Các thuyền đó đi Ô-phia và mang về khoảng mười lăm tấn [j] vàng cho vua Sô-lô-môn.

Footnotes

  1. I Các Vua 8:2 lễ đặc biệt Nghĩa là Lễ Chòi Lá. Xem “Lễ Chòi Lá” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  2. I Các Vua 8:10 mây Dấu hiệu đặc biệt cho thấy Thượng Đế hiện diện giữa dân Ngài.
  3. I Các Vua 8:12 nhưng Ngài … đám mây tối đen Câu nầy trích trong bản cổ Hi-lạp. Bản nầy đặt các câu 12-13 sau câu 53. Câu 12 của bản tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ chỉ ghi, “Nhưng CHÚA bảo rằng Ngài muốn ở trong bóng tối.”
  4. I Các Vua 8:16 Nhưng nay ta đã … được tôn kính Câu nầy trích trong bản cổ Hi-lạp. Trong bản tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ thì câu nầy chỉ thấy ở trong II Sử 6:5-6 chứ không có ở chỗ nầy.
  5. I Các Vua 8:65 lễ Đây là Lễ Chòi Lá. Xem câu 2.
  6. I Các Vua 8:65 rồi dự thêm … mười bốn ngày Câu nầy không có trong bản cổ Hi-lạp.
  7. I Các Vua 9:13 Ca-bun Từ ngữ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “đồ bỏ” hay “đồ vô dụng.”
  8. I Các Vua 9:14 chín ngàn cân Nguyên văn, “120 ta-lâng” (khoảng 4.100 kí-lô).
  9. I Các Vua 9:15 Mi-lô Các bực đất có tường chống đỡ, có lẽ nằm về phía Tây Nam thành phố.
  10. I Các Vua 9:28 mười lăm tấn Nguyên văn, “420 ta-lâng” (14.500 kí-lô).

Rước Rương Giao Ước vào Ðền Thờ

(2 Sử 5:2-6:2)

Bấy giờ Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão của I-sơ-ra-ên, tất cả các vị trưởng chi tộc và các trưởng gia tộc trong I-sơ-ra-ên lại trước mặt vua ở Giê-ru-sa-lem, để rước Rương Giao Ước của Chúa từ Thành Ða-vít ở Si-ôn đến Ðền Thờ. Vào tháng Ê-tha-nim, tức tháng bảy, toàn dân I-sơ-ra-ên tụ họp quanh Vua Sa-lô-môn để dự lễ. Khi tất cả các trưởng lão đến, các tư tế khiêng Rương ra đi. Vậy các tư tế và những người Lê-vi khiêng Rương của Chúa, Ðền Tạm tức Lều Hội Kiến, và tất cả các vật dụng thánh trong Ðền Tạm đem đi.

Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, tức những người đã tụ họp trước mặt vua, hiệp với ông đến trước Rương. Họ dâng hiến chiên và bò nhiều vô kể, nhiều đến nỗi không thể đếm được. Kế đó các tư tế thỉnh Rương Giao Ước của Chúa, đặt vào vị trí ở phòng trong cùng của Ðền Thờ, tức Nơi Chí Thánh, dưới các cánh chê-ru-bim. Các chê-ru-bim dang cánh ra trên Rương; các chê-ru-bim che trên Rương và các đòn khiêng. Các đòn khiêng ấy khá dài đến nỗi lòi các đầu ra, khiến ai đứng ở trước Nơi Chí Thánh đều có thể trông thấy, nhưng ai đứng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. Trong Rương không có gì ngoài hai bảng đá mà Môi-se đã đặt vào đó khi còn ở Hô-rếp, nơi Chúa đã lập giao ước với dân I-sơ-ra-ên, khi họ vừa mới ra khỏi Ai-cập.

10 Khi các tư tế vừa ra khỏi Nơi Thánh, mây mù kéo đến bao phủ Ðền Thờ CHÚA 11 đến nỗi các tư tế không thể đứng để tiếp tục thi hành công tác vì bị mây mù bao phủ, bởi vinh quang của Chúa tràn ngập cả Ðền Thờ Chúa.

12 Bấy giờ Sa-lô-môn nói, “Chúa đã phán, ‘Ngài ngự giữa mây đen,’ 13 và con rất được vinh dự xây cho Ngài một Ðền Thờ nguy nga tráng lệ để làm một nơi Ngài ngự đời đời.”

Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân

(2 Sử 6:3-11)

14 Kế đó vua quay lại và chúc phước cho hội chúng I-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng I-sơ-ra-ên đang đứng. 15 Ông nói, “Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng đã dùng tay Ngài làm trọn mọi điều miệng Ngài đã hứa với Ða-vít cha tôi rằng, 16 ‘Từ ngày Ta đem dân I-sơ-ra-ên Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn thành nào của bất cứ chi tộc nào trong I-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ, hầu danh Ta có thể ngự tại đó,[a] nhưng Ta đã chọn Ða-vít để lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta.’

17 Lúc ấy Ða-vít cha tôi đã có ý định xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, 18 nhưng Chúa đã phán với Ða-vít cha tôi rằng, ‘Ngươi quả có ý tốt khi lòng ngươi muốn xây một Ðền Thờ cho danh Ta. 19 Tuy nhiên ngươi sẽ không xây Ðền Thờ ấy cho Ta, nhưng con trai ngươi, kẻ do ngươi sinh ra, sẽ xây Ðền Thờ ấy cho danh Ta.’

20 Chúa đã làm thành những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên thế vào chỗ của Ða-vít cha tôi, và được ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên như Chúa đã phán; và tôi cũng đã xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 21 Ðây nầy, tôi đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có đựng giao ước của Chúa, mà Ngài đã lập với tổ tiên chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai-cập.”

Sa-lô-môn Cung Hiến Ðền Thờ

(2 Sử 6:12-42)

22 Bấy giờ Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Chúa, trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, đưa hai tay lên trời, 23 và cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay dưới đất thấp nầy. Ngài giữ giao ước và bày tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài, những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 24 Ngài đã giữ những lời Ngài đã phán với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con. Ðiều miệng Ngài đã phán thì ngày nay chính tay Ngài đã thực hiện. 25 Vậy bây giờ, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Ða-vít cha con rằng, ‘Ngươi sẽ không bao giờ thiếu một kẻ kế vị, để ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên trước mặt Ta, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận trong đường lối của chúng mà bước đi trước mặt Ta, như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 26 Vì vậy, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên ôi, cầu xin Ngài thực hiện những lời Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con.

27 Nhưng Ðức Chúa Trời thật có ngự trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa được Ngài, huống chi là ngôi đền con xây cho Ngài đây. 28 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin lắng nghe lời cầu xin và khẩn nguyện tôi tớ Ngài dâng lên trước thánh nhan Ngài ngày nay. 29 Nguyện mắt Ngài ngày đêm đoái xem Ðền Thờ nầy, nơi Ngài đã phán, ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây mà cầu nguyện. 30 Cầu xin Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và của I-sơ-ra-ên dân Ngài mỗi khi họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. Từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.

31 Khi có ai phạm tội đối với người khác và bị người ta bắt kẻ ấy phải thề, nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong Ðền Thờ nầy, 32 thì từ thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động, và xét xử các tôi tớ Ngài. Nguyện Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu nhận lấy hậu quả tội lỗi của nó, và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho người ấy vì sự ngay lành của người ấy.

33 Khi dân I-sơ-ra-ên của Ngài phạm tội đối với Ngài, rồi bị đánh bại trước mặt quân thù, nhưng khi họ biết quay về với Ngài, xưng nhận danh Ngài, cầu nguyện, và van xin Ngài trong Ðền Thờ nầy, 34 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội của dân I-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ trở về xứ sở Ngài đã ban cho tổ tiên họ.

35 Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất bởi vì họ phạm tội đối với Ngài, nhưng sau đó họ biết hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xưng nhận danh Ngài, và lìa bỏ tội lỗi của họ, vì Ngài đã sửa phạt họ, 36 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, tức dân I-sơ-ra-ên của Ngài; cầu xin Ngài chỉ dạy họ con đường tốt họ phải đi và ban mưa xuống xứ sở Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.

37 Khi trong xứ gặp nạn đói, khi họ gặp phải ôn dịch, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù đến vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị ôn dịch nào, bất cứ họ bị chứng bịnh gì, 38 mà có cá nhân nào hay toàn dân I-sơ-ra-ên của Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của họ mà đưa tay ra hướng về Ðền Thờ nầy cầu nguyện và nài xin, 39 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, hành động, và báo trả mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng họ, và tùy theo các đường lối của họ –vì chỉ một mình Ngài biết rõ mọi sự trong lòng người– 40 hầu họ sẽ kính sợ Ngài trọn đời của họ mà sống trong xứ Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con.

41 Ngoài ra khi có người ngoại quốc nào, không phải là dân I-sơ-ra-ên của Ngài, từ một xứ xa xăm đến đây vì đã được nghe đến uy danh Ngài – 42 vì người ta sẽ nghe về đại danh của Ngài, về tay quyền năng của Ngài, và về cánh tay Ngài đã đưa ra– khi người đó đến và hướng về ngôi đền nầy cầu nguyện, 43 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và đoái nhậm mọi lời cầu nguyện của người ngoại quốc đó cầu xin Ngài, hầu mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân I-sơ-ra-ên của Ngài đã làm, và thiên hạ sẽ biết rằng Ðền Thờ nầy mà con đã xây được gọi bằng danh Ngài.

44 Khi dân Ngài phải ra chiến trận đối phó với quân thù, dù lúc đó họ ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đến, khi dân Ngài hướng về thành nầy, thành Ngài đã chọn và Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài, mà cầu nguyện với Chúa, 45 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ của họ.

46 Khi họ phạm tội đối với Ngài –vì chẳng ai là không phạm tội– khiến Ngài giận họ và phó họ cho quân thù; chúng bắt họ đem lưu đày trong xứ của quân thù, bất kể xa hay gần, 47 nhưng nếu đang khi ở trong xứ bị lưu đày, họ tỉnh ngộ, ăn năn, và kêu cầu Ngài trong xứ của những kẻ bắt họ đem đi lưu đày, rằng, ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai lầm, chúng con đã làm việc gian tà,’ 48 nếu họ hết lòng và hết linh hồn ăn năn trở về với Ngài trong xứ của quân thù, những kẻ bắt họ đem đi lưu đày, và hướng về xứ Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về thành Ngài đã chọn, và về Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 49 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ, 50 xin Ngài tha thứ cho dân Ngài, những người đã phạm tội đối với Ngài, và tha mọi vi phạm họ đã phạm đối với Ngài, và xin Ngài cho họ được thương xót trước mặt những kẻ bắt họ đem đi lưu đày để chúng thương xót họ, 51 vì họ là dân Ngài và là cơ nghiệp của Ngài, những người Ngài đã đem ra khỏi Ai-cập, ra khỏi lò nung chảy sắt.

52 Cầu xin mắt Ngài đoái đến lời cầu xin của tôi tớ Ngài và lời cầu xin của dân I-sơ-ra-ên của Ngài mà đoái nghe họ mỗi khi họ kêu cầu Ngài, 53 vì Ngài đã tách họ ra khỏi mọi dân trên đất, để họ làm cơ nghiệp của Ngài, như Ngài đã phán với Môi-se tôi tớ Ngài khi Ngài đem tổ tiên chúng con ra khỏi Ai-cập, ôi lạy Chúa Hằng Hữu.”[b]

Sa-lô-môn Chúc Phước cho Dân

54 Khi Sa-lô-môn đã dâng mọi lời cầu nguyện ấy và những lời cầu xin ấy lên Chúa xong, ông đứng dậy trước bàn thờ Chúa, nơi ông đã quỳ và đưa hai tay lên trời. 55 Ông đứng dậy và lớn tiếng chúc phước toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên rằng:

56 “Chúc tụng Chúa, Ðấng ban cho dân I-sơ-ra-ên của Ngài được nghỉ ngơi như mọi lời Ngài đã phán. Không một lời nào trong tất cả những lời hứa tốt đẹp Ngài đã cậy Môi-se tôi tớ Ngài nói ra mà Ngài không làm cho ứng nghiệm. 57 Nguyện xin Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, ở với chúng ta như Ngài đã ở với tổ tiên chúng ta. Nguyện xin Ngài đừng lìa và đừng bỏ chúng ta. 58 Nguyện lòng chúng ta luôn luôn hướng về Ngài, đi trong mọi đường lối Ngài, và vâng giữ những điều răn, luật lệ, và mạng lịnh mà Ngài đã truyền cho tổ tiên chúng ta. 59 Nguyện những lời của tôi đã cầu nguyện trước mặt Chúa luôn ở bên cạnh Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, ngày và đêm. Nguyện Ngài binh vực duyên cớ của tôi tớ Ngài và dân I-sơ-ra-ên của Ngài tùy theo nhu cầu mỗi ngày, 60 để mọi dân trên đất biết rằng Chúa là Ðức Chúa Trời và không có thần nào khác. 61 Vậy các ngươi khá hết lòng tận trung với Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, mà sống theo các luật lệ Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài, y như đã làm ngày nay.”

Tế Lễ Cung Hiến Ðền Thờ

(2 Sử 7:4-10)

62 Sau đó vua và toàn dân I-sơ-ra-ên đang họp lại với ông dâng các con vật hiến tế lên trước mặt Chúa. 63 Sa-lô-môn dâng lên Chúa hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con chiên làm của lễ tạ ơn.[c] Vậy vua và toàn dân I-sơ-ra-ên cung hiến Ðền Thờ lên Chúa.

64 Ngày hôm đó vua biệt riêng khu vực ở giữa sân, trước Ðền Thờ Chúa, làm nơi dâng các của lễ thiêu, các của lễ chay, và mỡ của các của lễ tạ ơn, vì bàn thờ bằng đồng trước mặt Chúa quá nhỏ, không đủ chỗ để nhận các của lễ thiêu, các của lễ chay, và mỡ của các của lễ tạ ơn. 65 Vậy lúc ấy Sa-lô-môn và toàn dân I-sơ-ra-ên có mặt với ông đều vui mừng cử hành thánh lễ trước mặt Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, bảy ngày.[d] Thật là một đoàn dân đông đảo, đến từ Ải Ha-mát cho đến Suối Ai-cập. 66 Vào ngày thứ tám, vua truyền cho dân ra về. Họ chúc phước cho ông, rồi ai nấy trở về trại mình với tinh thần vui mừng phấn khởi vì mọi điều tốt đẹp mà Chúa đã làm cho Ða-vít tôi tớ Ngài và cho dân I-sơ-ra-ên của Ngài.

Chúa Hiện Ra với Sa-lô-môn - Lần Thứ Nhì

(2 Sử 7:11-22)

Sau khi Sa-lô-môn đã xây dựng Ðền Thờ Chúa, hoàng cung, và những dinh thự ông muốn xây cất, Chúa hiện ra với Sa-lô-môn lần thứ nhì, như Ngài đã hiện ra với ông tại Ghi-bê-ôn. Chúa phán với ông, “Ta đã nghe lời cầu nguyện và lời cầu xin của ngươi, những lời ngươi đã trình dâng trước mặt Ta. Ta đã biệt ra thánh Ðền Thờ mà ngươi đã xây và đặt danh Ta tại đó đời đời. Mắt Ta và lòng Ta sẽ ở đó luôn luôn. Riêng phần ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như Ða-vít cha ngươi đã đi, lấy lòng trọn lành và ngay thẳng làm theo mọi điều Ta đã truyền cho ngươi, và vâng giữ các luật lệ và mạng lịnh Ta, thì Ta sẽ lập ngôi nước ngươi vững vàng trên I-sơ-ra-ên mãi mãi, như Ta đã hứa với Ða-vít cha ngươi rằng, ‘Ngươi sẽ chẳng hề thiếu người kế vị trên ngai của I-sơ-ra-ên.’

Nhưng nếu ngươi hoặc con cháu ngươi quay đi mà lìa bỏ Ta, không giữ điều răn và luật lệ Ta đã truyền cho các ngươi, nhưng phục vụ và thờ phượng các thần khác, thì Ta sẽ dứt bỏ I-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ta đã ban cho chúng; Ta sẽ bỏ Ðền Thờ mà Ta đã biệt riêng ra thánh cho danh Ta, và dân I-sơ-ra-ên sẽ thành một câu tục ngữ và đầu đề bị chế giễu giữa các dân. Ðền Thờ nầy sẽ trở thành một đống đổ nát hoang tàn. Những ai đi qua đó sẽ kinh ngạc, sẽ thắc mắc mà hỏi rằng, ‘Tại sao Chúa đã làm điều ấy cho xứ nầy và cho dân nầy như thế?’ Rồi người ta sẽ đáp rằng, ‘Bởi vì họ đã lìa bỏ Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, Ðấng đã đem tổ tiên họ ra khỏi xứ Ai-cập, nhưng bây giờ họ lại đi theo các thần khác, thờ phượng và phục vụ các thần ấy, cho nên Chúa đã khiến tai vạ nầy xảy đến trên họ đó.’”

10 Cuối hai năm, thời gian Sa-lô-môn đã xây xong hai công trình kiến trúc, tức Ðền Thờ cho Chúa và hoàng cung, 11 vì Vua Hi-ram của Ty-rơ đã cung cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ tùng, và vàng tùy ý ông muốn, nên Vua Sa-lô-môn đã ban cho Hi-ram hai mươi thành trong địa phận Ga-li-lê. 12 Nhưng khi Hi-ram từ Ty-rơ đến để quan sát các thành Sa-lô-môn đã cho ông thì ông ấy chẳng hài lòng. 13 Hi-ram nói, “Những thành mà anh cho tôi là những thành gì vậy anh?” Rồi ông gọi xứ đó là Ca-bun[e] cho đến ngày nay. 14 Dù vậy Hi-ram cũng gởi cho ông bốn ngàn tám mươi ký vàng.[f]

Các Hoạt Ðộng Khác của Sa-lô-môn

(2 Sử 8:3-11)

15 Sau đây là bản liệt kê các công trình xây dựng mà Vua Sa-lô-môn đã áp dụng chính sách cưỡng bách lao động để xây cất: Ðền Thờ Chúa, cung điện cho vua, các công sự phòng thủ, tường thành Giê-ru-sa-lem, Ha-xơ, Mê-ghi-đô, Ghê-xe 16 (Số là Pha-ra-ôn vua Ai-cập đã đi lên chiếm lấy Ghê-xe, phóng hỏa thành, tiêu diệt dân Ca-na-an cư ngụ trong thành, rồi ban thành ấy làm của hồi môn cho con gái ông để làm vợ Sa-lô-môn. 17 Vì thế Sa-lô-môn phải xây lại Ghê-xe), Bết Hô-rôn Hạ, 18 Ba-a-lát, và Tác-mô trong đồng hoang thuộc lãnh thổ của ông, 19 tất cả các thành làm kho dự trữ, các thành cho các đạo quân có các xe chiến mã, các thành cho các đạo kỵ binh, và tất cả những gì Sa-lô-môn muốn xây cất ở Giê-ru-sa-lem, ở Li-băng, và ở mọi xứ trong vương quốc của ông. 20 Tất cả những người còn lại của các dân Hít-ti, A-mô-ri, Pê-ri-xi, Hi-vi, và Giê-bu-si sống trong xứ, những người không phải dân I-sơ-ra-ên 21 – chúng là con cháu của những người mà dân I-sơ-ra-ên đã không thể tận diệt và hiện còn sống sót trong xứ– Sa-lô-môn bắt chúng phải đóng thuế nặng dưới hình thức cưỡng bách lao động như đã thấy ngày nay. 22 Nhưng Sa-lô-môn không bắt người I-sơ-ra-ên nào làm nô lệ, nhưng họ là các chiến sĩ, quan lại, tướng tá, đơn vị trưởng, và sĩ quan chỉ huy các đơn vị điều động các xe chiến mã và các đơn vị kỵ binh của ông.

23 Ðây là con số các quan chức Sa-lô-môn đã lập lên để chỉ huy những người thực hiện các công trình xây cất của ông: năm trăm năm mươi người. Họ cai quản những người làm việc.

24 Sau khi con gái của Pha-ra-ôn từ Thành Ða-vít dọn lên ở trong cung điện Sa-lô-môn đã xây cho nàng, ông khởi công xây dựng các công sự phòng thủ.

25 Mỗi năm ba lần Sa-lô-môn lên dâng của lễ thiêu và của lễ cầu an trên bàn thờ ông đã xây cho Chúa. Ông cũng dâng hương lên trước mặt Chúa. Như vậy ông đã hoàn tất công trình xây cất Ðền Thờ.

Các Hoạt Ðộng Thương Mại của Sa-lô-môn

(2 Sử 8:17-18)

26 Vua Sa-lô-môn cũng cho đóng một đoàn tàu tại Ê-xi-ôn Ghê-be, gần Ê-lát, nơi bờ Hồng Hải, thuộc xứ Ê-đôm. 27 Hi-ram sai các tôi tớ của ông, những thủy thủ thông thạo hàng hải, đi với đoàn tàu, tức đi với các tôi tớ của Sa-lô-môn. 28 Họ đến Ô-phia và đem về hơn mười bốn tấn[g] vàng, rồi đem nộp tất cả cho Vua Sa-lô-môn.

Footnotes

  1. I Các Vua 8:16 Xin xem phần bổ túc của câu nầy trong 2 Sử 6:5b-6a
  2. I Các Vua 8:53 nt: Adonai Yahweh
  3. I Các Vua 8:63 ctd: của lễ cầu an
  4. I Các Vua 8:65 Có bản cổ ghi “bảy ngày, rồi bảy ngày nữa, cộng chung là mười bốn ngày.”
  5. I Các Vua 9:13 “ca-bun” nghĩa là “đồ bỏ,” “đồ dổm,” hay “thứ chẳng ra gì”
  6. I Các Vua 9:14 nt: 120 ta-lâng vàng
  7. I Các Vua 9:28 nt: 420 ta-lâng (2 Sử 8:18 ghi 450 ta-lâng)