Add parallel Print Page Options

Chuẩn bị xây đền thờ

Hi-ram, vua Tia, xưa nay vốn là bạn của Đa-vít. Khi Hi-ram nghe tin Sô-lô-môn đã lên ngôi vua thế Đa-vít thì phái các sứ giả đến chúc mừng Sô-lô-môn. Vua Sô-lô-môn nhắn về cho vua Hi-ram như sau: “Chắc ngài còn nhớ Đa-vít, cha tôi vì phải đánh nhau nhiều với các nước chung quanh cho nên không thể xây một đền thờ để thờ phụng CHÚA là Thượng Đế của người được. Đa-vít chờ cho đến khi CHÚA cho phép người đánh bại hết mọi kẻ thù. Nhưng nay CHÚA là Thượng Đế tôi đã ban cho tôi hoà bình bốn bên trong nước. Tôi không còn thù nghịch nữa; không còn mối nguy nào đe dọa dân tôi.

CHÚA đã hứa với Đa-vít cha tôi rằng, ‘Ta sẽ lập con ngươi lên nối ngôi sau ngươi, và nó sẽ xây một đền thờ để thờ phụng ta.’ Bây giờ tôi dự định xây đền thờ đó để thờ phụng CHÚA là Thượng Đế tôi. Vậy xin phái người đến đốn cây hương nam ở Li-băng cho tôi. Các tôi tớ tôi sẽ làm việc chung với tôi tớ ngài, tôi sẽ trả công theo như ngài muốn. Chúng tôi không có ai có tài làm nghề mộc [a] giỏi như người Xi-đôn.”

Khi Hi-ram nghe điều Sô-lô-môn yêu cầu vua bảo, “Chúc tụng Thượng Đế hôm nay! Ngài đã ban cho Đa-vít một con trai khôn ngoan để cai trị quốc gia to lớn nầy!” Hi-ram liền nhắn lại với Sô-lô-môn như sau: “Tôi có nghe biết điều Ngài muốn, tôi sẽ cung cấp cho ngài đủ số cây hương nam và cây thông ngài cần. Các tôi tớ tôi sẽ đưa gỗ từ Li-băng ra biển rồi đóng bè cho trôi dọc theo bờ biển đến nơi ngài chọn. Đến nơi tôi sẽ rã bè ra rồi ngài mang đi. Tôi chỉ cần ngài cung cấp thực phẩm cho người của tôi.” 10 Vậy Hi-ram cung cấp gỗ hương nam và gỗ thông cho vua Sô-lô-môn theo nhu cầu của vua.

11 Sô-lô-môn trả cho Hi-ram khoảng một trăm hai mươi ngàn thùng [b] lúa mì mỗi năm để nuôi những người của vua. Sô-lô-môn cũng trả cho vua khoảng bốn trăm bốn mươi ngàn lít [c] dầu ô-liu nguyên chất mỗi năm.

12 CHÚA ban cho Sô-lô-môn sự khôn ngoan như Ngài đã hứa. Giữa Hi-ram và Sô-lô-môn rất thân thiện; hai vua kết ước với nhau.

13 Vua Sô-lô-môn bắt ba mươi ngàn người Ít-ra-en làm xâu. 14 Mỗi tháng vua gởi một toán mười ngàn người đến Li-băng. Mỗi toán làm việc một tháng ở Li-băng rồi được về nhà hai tháng. Có A-đô-ni-ram cai quản họ. 15 Sô-lô-môn cũng bắt tám mươi ngàn người làm xâu trong vùng núi để đục đá và bảy mươi ngàn người khuân vác. 16 Ngoài ra có ba ngàn ba trăm đốc công để giám sát thợ. 17 Vua Sô-lô-môn truyền cho họ phải đục những tảng đá lớn thuộc loại tốt dùng xây nền đền thờ. 18 Các thợ xây cất của Sô-lô-môn và Hi-ram cùng những người từ Bi-bi-lốt [d] đục đá, chuẩn bị đá và gỗ để xây đền thờ.

Sô-lô-môn xây đền thờ

Sô-lô-môn chuẩn bị xây đền thờ vào năm bốn trăm tám mươi [e] sau khi Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. Đó là năm thứ tư triều đại Sô-lô-môn trị vì trên Ít-ra-en, tháng thứ nhì, tức tháng Xíp. Đền thờ ba mươi thước [f], ngang mười thước [g], cao mười lăm thước [h]. Vòm cửa phía trước gian phòng chính của đền thờ sâu năm thước, và rộng mười thước. Phòng nầy chạy dọc theo mặt trước của đền thờ. Chiều rộng của nó bằng với chiều rộng đền thờ. Đền thờ cũng có cửa sổ nhỏ. Những cửa nầy nhỏ về phía trong vách và lớn về phía ngoài [i]. Sô-lô-môn cũng xây một số phòng bên hông nằm sát vách của phòng chính và phòng trong của đền thờ. Xung quanh đền thờ ông xây rất nhiều phòng. Các phòng nơi tầng trệt rộng hai thước rưỡi. Các phòng nơi tầng giữa rộng ba thước, và các phòng tầng trên rộng ba thước. Vách đền thờ dùng làm vách hông cho mỗi phòng được xây mỏng hơn vách của phòng bên dưới. Các phòng nầy xây tựa vào vách đền thờ, nhưng không có cây đà ngang dựa vào vách ấy. Đá được chuẩn bị sẵn tại nơi được đục ra từ đất. Vì chỉ có những tảng đá đó là được dùng xây đền thờ cho nên không có tiếng búa, rìu, hay các vật dụng bằng sắt ồn ào nào khi xây đền thờ.

Cửa vào phòng dưới bên cạnh đền thờ hướng về phía nam. Từ đó có bậc thang đi lên các phòng tầng nhì. Rồi từ đó có bậc thang đi lên các phòng tầng ba.

Sô-lô-môn dựng một mái từ các cây đà và miếng ván hương nam trên đền thờ. Vậy vua hoàn tất việc xây cất đền thờ 10 cũng như tầng trệt bên cạnh đền thờ. Tầng trệt nầy cao hai thước rưỡi và nối vào đền thờ bằng các cây đà.

11 CHÚA bảo Sô-lô-môn: 12 “Nếu ngươi vâng giữ luật lệ và mệnh lệnh ta thì ta sẽ làm cho ngươi điều ta đã hứa cùng Đa-vít, cha ngươi. 13 Ta sẽ ngự giữa dân Ít-ra-en trong đền thờ nầy và sẽ chẳng bao giờ lìa bỏ dân Ít-ra-en.”

14 Như thế Sô-lô-môn xây cất xong đền thờ. 15 Các vách bên trong được lót bằng ván hương nam từ sàn đến trần. Sàn nhà làm bằng gỗ thông. 16 Một phòng dài ba mươi bộ được xây phía sau đền thờ. Phòng nầy gọi là Nơi Chí Thánh, được ngăn cách khỏi đền thờ bằng một vách gỗ hương nam từ sàn cho đến trần. 17 Phòng chính, tức phòng phía trước Nơi Chí Thánh, dài hai mươi thước. 18 Tất cả các phần bên trong đền thờ đều bọc gỗ hương nam, khảm hình bông hoa và cây cối. Không ai thấy đá trong vách, chỉ thấy gỗ hương nam thôi.

19 Sô-lô-môn chuẩn bị phòng trong phía sau đền thờ để đặt Rương Giao Ước của CHÚA. 20 Phòng trong nầy, dài mười thước, rộng mười thước, và cao mười thước. Phòng được bọc vàng ròng, vua cũng bọc vàng bàn thờ gỗ hương nam. 21 Vua bọc vàng ròng bên trong đền thờ, máng các dây xích vàng ngang phía trước của phòng trong, phòng nầy cũng được bọc bằng vàng. 22 Như thế tất cả phía trong đền thờ, cũng như bàn thờ của Nơi Chí Thánh, đều bọc vàng.

23 Sô-lô-môn làm hai con thú có cánh [j] bằng gỗ ô-liu đặt trong Nơi Chí Thánh. Mỗi con thú cao năm thước, 24 có hai cánh. Mỗi cánh hai thước rưỡi, nghĩa là từ đầu cánh nầy tới đầu cánh kia là năm thước. 25 Hai con thú đều đồng cỡ và giống y nhau; 26 mỗi con cao năm thước. 27 Hai con thú được đặt cạnh nhau ở Nơi Chí Thánh, giương cánh ra. Một cánh của mỗi con thú chạm vào vách nầy, cánh con thú kia chạm vào vách kia, còn cánh thứ hai thì chạm nhau ở giữa phòng. 28 Cả hai con thú đều bọc vàng.

29 Tất cả các vách trong đền thờ đều được chạm hình các con thú có cánh, cùng hình cây chà là và bông hoa. Phòng chính và phòng trong cũng vậy. 30 Các sàn của cả hai phòng đều bọc vàng.

31 Các cửa làm bằng gỗ ô liu và được đặt nơi lối vào của Nơi Chí Thánh. Các cửa có khung năm cạnh [k]. 32 Các con thú có cánh cũng như các cây chà là và bông hoa được chạm trổ trên hai cánh cửa bằng gỗ ô liu và bọc vàng. Các con thú và các cây chà là chạm trên cửa cũng được bọc vàng.

33 Ở cửa vào phòng chính có một khung cửa hình vuông làm bằng gỗ ô liu. 34 Hai cánh cửa làm bằng gỗ thông. Mỗi cửa có hai miếng cho nên xếp vào được. 35 Các cửa có khắc hình các con thú có cánh, hình cây chà là và bông hoa. Tất cả các hình chạm trổ đều bọc vàng trải đều ra.

36 Sân giữa có vách bao quanh làm bằng ba dãy đá đẽo và một dãy ván hương nam.

37 Công tác xây cất đền thờ bắt đầu vào tháng Xíp, tức tháng thứ hai, năm thứ tư triều đại Sô-lô-môn trị vì trên Ít-ra-en. 38 Đền thờ hoàn tất vào năm thứ mười một triều vua, tháng thứ tám tức tháng Bun. Đền thờ được xây cất đúng y như dự định. Sô-lô-môn xây đền thờ mất bảy năm.

Footnotes

  1. I Các Vua 5:6 nghề mộc Tức những người làm đồ gỗ. Vào thời xưa những người nầy cũng làm nhiệm vụ đốn cây.
  2. I Các Vua 5:11 một trăm hai mươi ngàn thùng Nguyên văn, “hai mươi ngàn co” (khoảng 4.400.000 lít).
  3. I Các Vua 5:11 bốn trăm bốn mươi ngàn lít Nguyên văn, “hai mươi ngàn bát.”
  4. I Các Vua 5:18 Bi-bi-lốt Nguyên văn, “Ghê-banh.”
  5. I Các Vua 6:1 năm bốn trăm tám mươi Khoảng 960 năm trước Công nguyên.
  6. I Các Vua 6:2 ba mươi thước Nguyên văn, “60 cu-bít” (khoảng 31,1 thước).
  7. I Các Vua 6:2 mười thước Nguyên văn, “20 cu-bít” (khoảng 10,37 thước).
  8. I Các Vua 6:2 mười lăm thước Nguyên văn, “30 cu-bít” (khoảng 15,50 thước).
  9. I Các Vua 6:4 Những cửa nầy … phía ngoài Hay “những cửa nầy có lưới chắn.”
  10. I Các Vua 6:23 thú có cánh Hay “chê-ru-bim.”
  11. I Các Vua 6:31 Các cửa … năm cạnh Có thể là cửa gồm có ba khung tạo thành một hình bán nguyệt phía trên cửa.

Sa-lô-môn Chuẩn Bị Xây Cất Ðền Thờ

(2 Sử 2:1-18)

Khi Vua Hi-ram của Ty-rơ nghe rằng Sa-lô-môn đã được xức dầu làm vua kế vị cho vua cha là Ða-vít, ông sai các sứ giả đến triều kiến Sa-lô-môn, vì ông là bạn của Vua Ða-vít lúc sinh tiền. Sa-lô-môn gởi sứ điệp đến Vua Hi-ram, tâu rằng:

“Chắc ngài đã biết rằng vì chiến tranh giặc giã tứ phía nên thân phụ tôi đã không có thể xây cất một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của người, cho đến khi Chúa đã cho người đè bẹp các kẻ thù của người dưới chân. Nhưng bây giờ Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi, đã cho tôi được bình an tứ phía, không còn quân thù và cũng chẳng có tai họa. Vì thế tôi muốn xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi, như Chúa đã phán với Ða-vít thân phụ tôi rằng, ‘Con trai ngươi, kẻ Ta sẽ đặt trên ngai kế vị ngươi, sẽ xây một Ðền Thờ cho danh Ta.’ Vậy xin ngài ban lịnh cho phép đốn những cây bá hương ở Li-băng cho tôi. Người của tôi sẽ làm việc với người của ngài. Tôi sẽ trả lương cho người của ngài theo giá do ngài ấn định, vì ngài biết rằng không ai trong chúng tôi thạo nghề đốn gỗ bằng người Si-đôn.”

Khi Hi-ram nghe những lời ấy, ông rất vui mừng và nói, “Chúc tụng Chúa, vì ngày nay Ngài đã ban cho Ða-vít một con trai khôn ngoan để trị vì trên một nước lớn như thế.”

Vậy Hi-ram sai người đến nói với Sa-lô-môn, “Tôi đã nhận được sứ điệp do ngài đã sai người đem đến tôi. Tôi sẽ làm cho ngài mọi điều ngài muốn về việc gỗ bá hương và gỗ tùng. Người của tôi sẽ di chuyển các gỗ đó từ Li-băng xuống biển, rồi tôi sẽ cho đóng bè và đưa đến nơi ngài chỉ định. Tại đó, tôi sẽ rã bè, và ngài sẽ lấy đi. Còn ngài, xin ngài làm cho tôi điều tôi yêu cầu, ấy là cung cấp lương thực cho cả triều đình của tôi.”

10 Như thế Hi-ram cung cấp cho Sa-lô-môn tất cả gỗ bá hương và gỗ tùng ông muốn. 11 Còn Sa-lô-môn cung cấp cho Hi-ram bốn ngàn bốn trăm tấn[a] lúa mì làm lương thực cho triều đình của ông ấy. Ngoài ra ông còn cấp thêm cho Hi-ram bốn ngàn bốn trăm lít[b] dầu ô-liu nguyên chất. Sa-lô-môn cung cấp như thế cho Hi-ram hằng năm. 12 Chúa ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan như Ngài đã phán với ông. Giữa Hi-ram và Sa-lô-môn có mối giao hảo thân thiện, và hai vua đã kết ước với nhau.

13 Vua Sa-lô-môn truyền lịnh trưng dụng dân công trong khắp I-sơ-ra-ên. Có ba mươi ngàn người nằm trong thành phần nầy. 14 Vua phái họ thay phiên nhau đến Li-băng, mỗi tháng mười ngàn người. Vậy họ ở Li-băng một tháng và ở nhà hai tháng. A-đô-ni-ram chỉ huy lực lượng dân công nầy. 15 Sa-lô-môn có bảy mươi ngàn người làm lao công và tám mươi ngàn người đục đá trên núi. 16 Ngoài ra, còn có ba ngàn ba trăm[c] người do vua bổ nhiệm để quản lý công trình xây cất và điều động nhân công. 17 Theo lịnh vua, họ cho đục những tảng đá quý thành những phiến đá vuông vức và to lớn để làm nền Ðền Thờ. 18 Những thợ khéo của Sa-lô-môn và Hi-ram cùng với người Ghê-banh[d] lo việc đốn gỗ và đục đá để chuẩn bị xây cất Ðền Thờ.

Xây Cất Ðền Thờ

(2 Sử 3:1-7)

Năm thứ bốn trăm tám mươi sau khi dân I-sơ-ra-ên ra khỏi đất Ai-cập, tức là năm thứ tư của thời Sa-lô-môn trị vì trên dân I-sơ-ra-ên, vào tháng Xi-vơ, tức tháng thứ hai, ông bắt đầu xây cất Ðền Thờ để thờ phượng Chúa.

Ngôi đền mà Vua Sa-lô-môn xây cất cho Chúa dài ba mươi mét, rộng mười mét, và cao mười lăm mét.[e] Tiền đình ở trước chính điện của Ðền Thờ dài mười mét, theo chiều rộng của Ðền Thờ, và rộng năm mét,[f] nối theo chiều dài của Ðền Thờ. Vua cũng làm những cửa sổ có chấn song cho Ðền Thờ. Dọc theo tường quanh chính điện và Nơi Chí Thánh ông xây các tầng lầu với nhiều phòng chái. Tầng dưới rộng hai mét rưỡi, tầng giữa rộng ba mét, và tầng thứ ba rộng ba mét rưỡi.[g] Ông cho xây các vách tường thụt vào để các cây đà của các tầng lầu có thể gác đầu trên các vách, nhưng không đâm vào vách Ðền Thờ.

Khi xây cất đền, người ta chỉ dùng những khối đá đã được đục sẵn nơi các hầm đá, nên khi xây cất không ai nghe tiếng búa, tiếng đục đẽo, hay tiếng một dụng cụ bằng sắt nào cả.

Lối vào tầng dưới[h] nằm về bên phải[i] của Ðền Thờ. Người ta làm một cầu thang hình xoắn ốc đi từ dưới lên tầng giữa, rồi từ tầng giữa đi lên tầng thứ ba. Vậy ông xây cất Ðền Thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy. Ông đóng trần Ðền Thờ bằng những cây đà ngang và những phiến gỗ bá hương. 10 Ông cũng xây các phòng dọc theo tường Ðền Thờ. Mỗi phòng cao hai mét rưỡi.[j] Những phòng ấy dính liền với Ðền Thờ bằng các cây đà làm bằng gỗ bá hương.

11 Có lời của Chúa phán với Sa-lô-môn, 12 “Về ngôi đền mà ngươi đang xây cất, nếu ngươi đi theo các mạng lịnh Ta, thi hành các luật lệ Ta, giữ gìn mọi điều răn Ta, và vâng theo chúng, Ta sẽ làm trọn những lời Ta đã hứa với Ða-vít cha ngươi trên đời sống ngươi. 13 Ta sẽ ngự giữa dân I-sơ-ra-ên và Ta sẽ không bỏ I-sơ-ra-ên dân Ta.”

14 Vậy Sa-lô-môn xây cất Ðền Thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy.

Bài Trí Bên Trong Ðền Thờ

(2 Sử 3:8-14)

15 Ông dùng ván bá hương lát mặt tường trong của Ðền Thờ, từ nền cho đến trần. Còn mặt nền của Ðền Thờ thì ông lát bằng ván tùng. 16 Ông dùng ván bá hương ngăn mười mét[k] phần trong cùng của Ðền Thờ, từ nền cho đến trần, thành một phòng cực thánh ở trong cùng, và gọi là Nơi Chí Thánh. 17 Phần chính điện ở phía trước của Nơi Chí Thánh dài hai mươi mét.[l] 18 Tường bên trong của Ðền Thờ được lát toàn bằng ván bá hương chạm trổ những hình trái bầu và hoa nở. Chỗ nào cũng là gỗ bá hương chứ không thấy đá.

19 Ông cũng chuẩn bị một Nơi Chí Thánh trong Ðền Thờ để đặt Rương Giao Ước của Chúa tại đó. 20 Nơi Chí Thánh dọc mười mét, ngang mười mét, và cao mười mét.[m] Ông dát vàng ròng khắp Nơi Chí Thánh. Ông cũng dát vàng ròng cho bàn thờ làm bằng gỗ bá hương. 21 Sa-lô-môn dát vàng ròng bên trong Ðền Thờ. Ông cho giăng một dây xích làm bằng vàng ở phía trước Nơi Chí Thánh, là nơi cũng được dát bằng vàng. 22 Vậy ông dát vàng toàn phía trong Ðền Thờ đến nỗi không còn một chỗ nào là không được dát vàng. Ông cũng dát vàng bàn thờ ở trong Nơi Chí Thánh.

23 Trong Nơi Chí Thánh, ông làm hai chê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, mỗi chê-rúp[n] cao năm mét.[o] 24 Một cánh của chê-rúp dài hai mét rưỡi, cánh kia cũng dài hai mét rưỡi; vậy từ đầu cánh nầy đến đầu cánh kia là năm mét.[p] 25 Chê-rúp thứ hai cũng đo được năm mét. Cả hai chê-ru-bim đều giống nhau về kích thước lẫn hình dạng. 26 Chiều cao của một chê-rúp là năm mét; chê-rúp thứ hai cũng vậy. 27 Ông đặt hai chê-ru-bim với đôi cánh dang ra ấy vào Nơi Chí Thánh của Ðền Thờ. Một cánh của một chê-rúp đụng ở tường nầy, một cánh của chê-rúp kia đụng ở tường kia, hai cánh còn lại chạm vào nhau ở chính giữa Nơi Chí Thánh. 28 Ông dát vàng cả hai chê-ru-bim.

29 Trên tường chung quanh Ðền Thờ, ông chạm hình các chê-ru-bim, các cây chà là, và các cành hoa nở, cả Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh[q]. 30 Ông cũng dát vàng mặt nền của Ðền Thờ, cả Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh.

31 Lối vào Nơi Chí Thánh, ông làm hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, gắn vào hai trụ cửa có năm cạnh. 32 Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, ông chạm hình các chê-ru-bim, các cây chà là, và các cành hoa nở. Ông dát vàng hình các chê-ru-bim và các cây chà là bằng vàng cán mỏng. 33 Lối vào Nơi Thánh cũng vậy, ông làm các trụ cửa có bốn cạnh bằng gỗ ô-liu. 34 Ông cũng làm hai cửa bằng gỗ tùng; cửa nầy có hai cánh xoay trên bản lề, và cửa kia cũng có hai cánh xoay trên bản lề. 35 Ông chạm hình các chê-ru-bim, các cây chà là, và các cành hoa nở trên các cánh cửa, rồi lấy vàng khảm vào những đường nét đã chạm.

36 Ông cũng xây hàng rào để làm sân trong, trước mặt tiền của Ðền Thờ. Hàng rào ấy được xây như thế nầy: cứ ba hàng đá quý được đục đẽo mỹ thuật thì có một hàng xà ngang làm bằng gỗ bá hương.

37 Năm thứ tư, vào tháng Xi-vơ, nền Ðền Thờ Chúa được khai móng. 38 Năm thứ mười một, tháng Bun tức tháng tám, công trình xây cất Ðền Thờ được hoàn tất, đúng theo các chi tiết về kiểu mẫu và kích thước đã định. Ông mất bảy năm mới xây xong Ðền Thờ.

Footnotes

  1. I Các Vua 5:11 nt: 20.000 cô-rơ
  2. I Các Vua 5:11 2 Sử 2:10 chép 20,000 baths (440.000 lít)
  3. I Các Vua 5:16 2 Sử 2:2, 18 ghi 3.600 người
  4. I Các Vua 5:18 ctd: những thợ đục đá vuông
  5. I Các Vua 6:2 nt: dài 60 cubits, rộng 20 cubits, cao 30 cubits
  6. I Các Vua 6:3 nt: dài 20 cubits, rộng 10 cubits
  7. I Các Vua 6:6 nt: rộng 5 cubits, 6 cubits, và 7 cubits
  8. I Các Vua 6:8 Bản LXX ghi là tầng giữa
  9. I Các Vua 6:8 ctd: phía nam
  10. I Các Vua 6:10 nt: 5 cubits
  11. I Các Vua 6:16 nt: 20 cubits
  12. I Các Vua 6:17 nt: 40 cubits
  13. I Các Vua 6:20 nt: dọc 20 cubits, ngang 20 cubits, cao 20 cubits
  14. I Các Vua 6:23 cherub (số ít), cherubim (số nhiều)
  15. I Các Vua 6:23 nt: 10 cubits
  16. I Các Vua 6:24 nt: 5 cubits, 5 cubits, và 10 cubits
  17. I Các Vua 6:29 nt: chính điện

Sô-lô-môn chuẩn bị cất đền thờ và cung điện

Sô-lô-môn quyết định cất đền thờ để dùng làm nơi thờ phụng CHÚA và cũng cất một cung điện cho mình. Ông chọn bảy mươi ngàn người khuân vác, tám mươi ngàn người đục đá trong núi, và ba ngàn sáu trăm đốc công.

Sô-lô-môn gởi thơ cho Hi-ram vua thành Tia như sau: “Xin vua hãy giúp tôi như đã giúp cha tôi là Đa-vít bằng cách gởi gỗ hương nam cho cha tôi cất cung điện người. Tôi sẽ xây một ngôi đền để thờ phụng CHÚA là Thượng Đế tôi, và tôi sẽ dâng đền thờ đó cho Ngài. Rồi chúng tôi sẽ đốt hương trước mặt Ngài. Chúng tôi sẽ luôn luôn bày bánh thánh trước sự hiện diện của Thượng Đế. Chúng tôi sẽ dâng của lễ thiêu mỗi sáng mỗi chiều, vào những ngày Sa bát, ngày Trăng Mới, và những lễ đặc biệt khác mà CHÚA là Thượng Đế chúng tôi truyền dặn. Đó là luật lệ đời đời cho toàn dân Ít-ra-en vâng theo.

Đền thờ tôi xây sẽ rất lớn vì Thượng Đế chúng tôi lớn hơn tất cả các thần. Nhưng thật ra không ai có thể xây nhà cho Thượng Đế chúng tôi. Dù cho các từng trời cao vút cũng không chứa nổi Ngài. Làm sao tôi có thể xây đền thờ cho Ngài? Nơi đó chỉ có thể dùng làm chỗ dâng của lễ thiêu cho Ngài mà thôi.

Bây giờ xin vua hãy gởi cho tôi một thợ khéo làm vàng, bạc, đồng, và sắt cùng với chỉ tím, đỏ, và xanh. Người đó cũng phải biết chạm trổ nữa. Anh ta sẽ làm việc chung với các thợ khéo của tôi ở Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, những người mà Đa-vít cha tôi đã chọn. Ngoài ra xin vua gởi cho tôi gỗ hương nam, gỗ thông, và gỗ bạch đàn [a] từ Li-băng. Tôi biết các tôi tớ vua có kinh nghiệm đốn gỗ ở Li-băng, nên các tôi tớ tôi sẽ giúp họ. Xin hãy gởi cho tôi thật nhiều gỗ vì đền thờ mà tôi sắp xây sẽ lớn rộng và nguy nga. 10 Tôi sẽ cung cấp cho các tôi tớ vua, những người đốn gỗ, 125.000 hộc [b] lúa mì, 125.000 hộc lúa mạch, 440.000 lít [c] rượu, và 440.000 lít dầu.”

11 Hi-ram, vua Tia, viết thư trả lời Sô-lô-môn như sau: “Kính vua Sô-lô-môn, vì CHÚA yêu dân Ngài nên Ngài đã chọn vua làm vua trên họ.” 12 Hi-ram cũng viết thêm: “Đáng ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, Đấng tạo nên trời và đất! Ngài ban cho vua Đa-vít một con trai khôn ngoan, một người đầy thông minh và hiểu biết, là người sẽ xây đền thờ cho CHÚA và cung điện cho mình. 13 Tôi sẽ gởi đến cho vua một tay thợ khéo [d] và khôn ngoan tên Hu-ram A-bi. 14 Mẹ anh gốc dân Đan, cha anh gốc thành Tia. Hu-ram A-bi có tài làm các đồ vàng, bạc, đồng, sắt, đá, và gỗ, cùng với chỉ tím, xanh, đỏ cùng vải đắt tiền. Anh có tài chạm trổ và có thể khắc những kiểu nào vua chỉ. Anh sẽ giúp các thợ khéo của vua cùng thợ của Đa-vít, cha vua.

15 Bây giờ xin vua hãy gởi cho các tôi tớ tôi lúa mì, lúa mạch, dầu và rượu như vua hứa. 16 Chúng tôi sẽ đốn gỗ thật nhiều từ Li-băng dọc theo biển theo như vua cần rồi thả bè trôi xuống Giốp-ba. Sau đó vua sẽ mang về Giê-ru-sa-lem.”

17 Sô-lô-môn kiểm kê tất cả các ngoại kiều đang sống trong xứ Ít-ra-en. Đó là sau khi Đa-vít, cha vua đã kiểm kê toàn thể dân chúng. Trong toàn xứ có tất cả 153.600 ngoại kiều. 18 Sô-lô-môn chọn bảy mươi ngàn người trong vòng họ để khuân vác, tám mươi ngàn người để đục đá trong núi, và ba ngàn sáu trăm người làm đốc công.

Sô-lô-môn khởi công xây cất đền thờ

Rồi Sô-lô-môn bắt đầu xây đền thờ cho CHÚA ở Giê-ru-sa-lem trên núi Mô-ri-a. Đó là nơi CHÚA hiện ra cùng Đa-vít, cha vua. Sô-lô-môn xây đền thờ ngay trên nơi Đa-vít đã chuẩn bị trên sàn đạp lúa của A-rau-na [e], người Giê-bu-sít [f]. Sô-lô-môn khởi công vào tháng hai năm thứ tư triều đại mình.

Sô-lô-môn dùng các kích thước sau đây để xây Đền thờ của Thượng Đế. Dài ba mươi thước [g], rộng mười thước, đó là thước đo cũ [h]. Vòm cửa trước của phòng chính trong đền thờ dài mười thước, cao mười thước. Ông bọc vàng ròng bên trong vòm cửa. Ông đặt các bảng gỗ thông trên vách của phòng chính và bọc vàng ròng các bảng gỗ đó. Rồi ông đặt các kiểu vẽ cây chà là và các xích vàng lên đó. Ông trang hoàng đền thờ bằng ngọc và vàng lấy từ Ba-va-im [i]. Ông khảm vàng trên các đà, và trần đền thờ, các cột cửa, vách, cửa và đồng thời khắc các con thú có cánh trên vách.

Rồi ông xây Nơi Chí Thánh. Nơi đó dài mười thước, rộng mười thước, tức bằng chiều rộng của đền thờ. Ông dùng khoảng 21 tấn [j] vàng để bọc các vách nơi đó. Các đinh vàng cân nặng hơn một cân [k]. Ông cũng bọc vàng các phòng thượng. 10 Ông làm hai con thú có cánh bọc vàng cho Nơi Chí Thánh. 11 Các con thú có cánh ngang ba thước. Một cánh của con thú ngang hai thước và chạm một vách đền thờ. Cánh kia của con thú cũng dài hai thước và chạm cánh với con thú thứ nhì. 12 Một cánh của con thú thứ nhì chạm vách kia của phòng và cũng dài hai thước. Cánh kia của con thú thứ nhì chạm cánh với cánh của con thú thứ nhất, và cũng dài hai thước. 13 Cộng chung lại hai cánh của các con thú ngang chín thước. Các con thú đứng trên chân mình đối diện Nơi Thánh [l].

14 Ông làm màn [m] bằng chỉ xanh, tím, và đỏ, vải đắt tiền và vẽ kiểu các con thú có cánh trên đó.

15 Ông làm hai cây trụ đứng phía trước đền thờ cao khoảng mười tám thước [n] và mỗi đầu trụ cao hơn hai thước. 16 Ông cũng làm một mạng lưới và đặt nó trên đầu trụ. Ông làm 100 trái lựu [o] và treo chúng trên các dây xích. 17 Rồi ông dựng hai cây trụ trước đền thờ. Một trụ nằm về phía Nam, trụ kia về phía Bắc. Ông đặt tên trụ phía Nam là Gia-kin [p] và trụ phía Bắc tên là Bô-ô [q].

Footnotes

  1. II Sử Ký 2:8 gỗ bạch đàn Không rõ đây là loại gỗ gì nhưng có lẽ là một loại gỗ quí. Xem I Vua.
  2. II Sử Ký 2:10 125.000 hộc Nguyên văn, “20.000 co” (khoảng 4.400.000 lít).
  3. II Sử Ký 2:10 440.000 lít Nguyên văn, “20.000 bát.”
  4. II Sử Ký 2:13 Tôi sẽ gởi … tay thợ khéo Hay “Tôi sẽ gởi đến một trong những thợ khéo của Hi-ram, cha tôi.”
  5. II Sử Ký 3:1 A-rau-na Hay “Ọt-nan.”
  6. II Sử Ký 3:1 người Giê-bu-sít Dân cư sống ở thành Giê-ru-sa-lem trước khi người Ít-ra-en chiếm thành ấy. Tên cũ của Giê-ru-sa-lem là Giê-bu.
  7. II Sử Ký 3:3 ba mươi thước Nguyên văn, “60 cu-bít” (khoảng 31 thước tây).
  8. II Sử Ký 3:3 thước đo cũ Nguyên văn, “cu-bít cũ.” Đây là thước đo của người Ai-cập, dài khoảng 5 tấc tây.
  9. II Sử Ký 3:6 Ba-va-im Đây là nơi có rất nhiều vàng. Rất có thể nó nằm trong xứ Ô-phia.
  10. II Sử Ký 3:8 21 tấn Nguyên văn, “600 ta-lâng” (khoảng 20.700 kí-lô).
  11. II Sử Ký 3:9 một cân Nguyên văn, “50 sê-ken” (khoảng nửa kí-lô).
  12. II Sử Ký 3:13 đối diện Nơi Thánh Hay “đối diện nhau.” Nơi Thánh là cái phòng trong đền thờ mà các thầy tế lễ dùng trong khi phục vụ Thượng Đế.
  13. II Sử Ký 3:14 làm màn Đây là tấm vải lớn làm màn phân chia Nơi Thánh để không ai nhìn thấy Rương Giao Ước và các con thú (hình thiên sứ) trên nắp.
  14. II Sử Ký 3:15 mười tám thước Nguyên văn, “35 cu-bít” (khoảng 18 thước tây).
  15. II Sử Ký 3:16 trái lựu Các quả chuông nhỏ làm hình giống trái lựu. Xem 4:13.
  16. II Sử Ký 3:17 Gia-kin Nghĩa là “Đấng Thiết Lập.”
  17. II Sử Ký 3:17 Bô-ô Nghĩa là “Trong Ngài có Năng Lực.”

Chuẩn Bị Xây Cất Ðền Thờ

Sa-lô-môn truyền lịnh xây cất một Ðền Thờ cho danh Chúa và một cung điện cho ông. Sa-lô-môn lập một đội ngũ nhân công, gồm bảy mươi ngàn người đảm trách việc khuân vác, tám mươi ngàn người lo việc đục đá trên các sườn núi, và ba ngàn sáu trăm[a] đốc công để điều động họ.

Giao Kèo với Vua Hu-ram

Sa-lô-môn sai sứ giả đến gặp Hu-ram[b] vua Ty-rơ, tâu rằng, “Kính xin ngài cung cấp gỗ bá hương cho tôi như ngài đã làm cho Ða-vít cha tôi, cung cấp gỗ cho cha tôi xây nhà để ở. Tâu vua, tôi dự tính sẽ xây một ngôi nhà cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi, hiến dâng ngôi nhà ấy cho Ngài, để dâng các hương thơm lên trước thánh nhan Ngài, dâng các Bánh Hằng Hiến, dâng các của lễ thiêu vào mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều, những ngày Sa-bát, những ngày trăng mới, và những ngày lễ trọng thể để tôn thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, vì đó là luật định đời đời cho dân I-sơ-ra-ên. Ngôi nhà mà tôi sắp xây sẽ rất nguy nga tráng lệ, vì Ðức Chúa Trời của chúng tôi vĩ đại hơn tất cả các thần. Nhưng thật ra ai có thể xây cho Ngài một ngôi nhà? Vì trời cao vô tận kia, tức trời của các từng trời, mà còn chưa thể chứa được Ngài thay. Thế thì tôi là ai mà có thể xây cho Ngài một ngôi nhà? Bất quá chỉ là có chỗ để dâng hương lên Ngài thôi. Vậy bây giờ kính xin ngài biệt phái cho tôi một người chuyên môn chế tạo các đồ vật bằng vàng, bạc, đồng, và sắt. Người ấy cũng phải giỏi về việc sử dụng vải tím, vải đỏ, và vải xanh dương. Ngoài ra người ấy cũng chuyên môn về kỹ thuật chạm khắc, để có thể làm việc với các chuyên viên của tôi tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, những người Ða-vít cha tôi đã chuẩn bị sẵn. Xin ngài cũng gởi cho tôi gỗ bá hương, gỗ trắc, và gỗ đàn hương ở Li-băng, vì tôi biết các tôi tớ ngài rất thành thạo trong việc đốn gỗ ở Li-băng. Các tôi tớ tôi sẽ làm việc với các tôi tớ ngài. Kính xin ngài cung cấp cho tôi thật nhiều gỗ, vì Ðền Thờ tôi sắp xây cất sẽ rất to lớn và nguy nga. 10 Tâu vua, tôi sẽ cung cấp cho các tôi tớ ngài, tức các thợ đốn gỗ của ngài, bốn ngàn bốn trăm tấn lúa mì,[c] bốn ngàn bốn trăm tấn lúa mạch, bốn trăm bốn mươi ngàn lít[d] rượu, và bốn trăm bốn mươi ngàn lít dầu.”

11 Bấy giờ Hu-ram vua Ty-rơ viết một thư phúc đáp và gởi đến Sa-lô-môn; nội dung như sau, “Bởi vì Chúa đã yêu thương dân Ngài, nên Ngài đã lập ngài làm vua cai trị họ.” 12 Hu-ram viết tiếp, “Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng dựng nên trời và đất, Ðấng đã ban cho Vua Ða-vít một con trai khôn ngoan, được phú cho thông minh và khôn sáng, để xây cất một Ðền Thờ cho Chúa và một cung điện cho mình. 13 Nay tôi phái đến ngài một chuyên gia đại tài tên là Hu-ram A-bi; ông ấy là một người rất thông sáng. 14 Mẹ ông là người của chi tộc Ðan, còn cha ông là người Ty-rơ. Ông là người rất giỏi việc chế tạo các vật dụng bằng vàng, bạc, đồng, sắt, đá, gỗ, vải tím, vải xanh dương, vải gai mịn, và vải đỏ. Ông ấy lại rất khéo trong kỹ thuật chạm khắc mọi vật, và có thể chế tạo bất cứ món hàng mỹ nghệ nào người ta đặt. Ngài có thể bổ nhiệm ông làm việc chung với các tôi tớ ngài và các tôi tớ của chúa thượng của tôi là Vua Ða-vít, thân phụ ngài. 15 Vậy bây giờ, về lúa mì, lúa mạch, dầu, và rượu mà chúa thượng của tôi đã hứa, xin ngài xúc tiến việc gởi chúng đến các tôi tớ ngài. 16 Chúng tôi sẽ đốn gỗ ở Li-băng cho ngài theo số lượng ngài cần. Chúng tôi sẽ đóng bè thả xuống Giốp-pa cho ngài, và ngài sẽ chịu trách nhiệm mang chúng lên Giê-ru-sa-lem.”

17 Sa-lô-môn cho kiểm kê tất cả kiều dân đang tạm trú trong nước I-sơ-ra-ên, sau cuộc thống kê Ða-vít cha ông đã thực hiện trước kia, và họ tìm thấy một trăm năm mươi ba ngàn sáu trăm kiều dân. 18 Từ trong số những người ấy ông lập một đội ngũ nhân công gồm bảy mươi ngàn người đảm trách việc khuân vác, tám mươi ngàn người lo việc đục đá trên các sườn núi, và ba ngàn sáu trăm đốc công để điều động họ.

Sa-lô-môn Xây Cất Ðền Thờ

(1 Vua 6:1-38)

Bấy giờ Sa-lô-môn cho khởi công xây cất Ðền Thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem, trên Núi Mô-ri-a, nơi Chúa đã hiện ra với Ða-vít cha ông, ở chỗ mà Ða-vít đã chọn sẵn, trong sân đập lúa của Ọt-nan người Giê-bu-si. Ông cho khởi công xây cất vào ngày mồng hai tháng hai, năm thứ tư của triều đại ông.

Ðây là kích thước của cái nền mà Sa-lô-môn đã đặt để xây Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Chiều dài ba mươi mét và chiều rộng mười mét,[e] tính theo thước cũ. Tiền đình ở phía trước Ðền Thờ dài mười mét,[f] nằm dọc theo chiều rộng của Ðền Thờ. Chiều cao sáu mươi mét.[g] Toàn thể mặt trong đều được dát bằng vàng ròng. Ông dùng gỗ trắc lát mặt trong của phòng chính Ðền Thờ. Sau đó ông dùng vàng thượng hạng dát lên trên, và cho khắc hình các cây chà là và các dây xích trên mặt tường. Ông trang trí Ðền Thờ bằng những đá quý. Loại vàng ông dùng là vàng Pạc-va-im. Ông dát vàng khắp Ðền Thờ, gồm các đà ngang của trần nhà, các khung cửa, các vách tường, và các cánh cửa; trên các vách tường ông chạm hình các chê-ru-bim.

Ông xây Nơi Chí Thánh. Chiều dọc của phòng ấy dài bằng chiều rộng của Ðền Thờ, tức mười mét, và chiều ngang của phòng ấy cũng mười mét. Ông dùng hai mươi ngàn bốn trăm ký[h] vàng thượng hạng để dát toàn thể mặt trong của phòng ấy. Ông dùng các đinh nặng năm trăm bảy mươi lăm gờ-ram[i] một cái. Ông dát vàng các phòng nhỏ ở tầng trên.

10 Trong Nơi Chí Thánh, ông làm hai tượng chê-ru-bim[j] và dát vàng chúng; đó là một tác phẩm của nghệ thuật điêu khắc. 11 Các cánh của hai chê-ru-bim dang ra dài mười mét. Một cánh của chê-rúp nầy dài hai mét rưỡi[k] dang ra chạm vào tường Ðền Thờ, còn cánh kia cũng dài hai mét rưỡi và dang ra chạm vào chóp của cánh chê-rúp kia. 12 Tương tự một cánh của chê-rúp kia dài hai mét rưỡi dang ra chạm vào tường bên kia của Ðền Thờ, còn cánh khác cũng dài hai mét rưỡi dang ra chạm vào chóp của cánh chê-rúp nầy. 13 Các cánh của hai chê-ru-bim dang ra dài cả thảy mười mét. Hai chê-ru-bim đó đứng trên chân mình, và mặt nhìn vào Nơi Thánh. 14 Ông làm một bức màn bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải gai mịn, rồi thêu hình các chê-ru-bim lên màn đó.

15 Phía trước Ðền Thờ, ông dựng hai cây trụ, mỗi trụ cao mười bảy mét rưỡi,[l] trên đỉnh mỗi trụ có một cái đầu trụ cao hai mét rưỡi. 16 Ông làm các dây chuyền và treo chúng quanh hai đầu trụ ấy. Ông làm một trăm trái lựu và treo chúng vào các dây chuyền ấy. 17 Ông dựng hai trụ ở trước Ðền Thờ, một trụ bên phải và một trụ bên trái. Ông đặt tên cho trụ bên phải là Gia-kin và trụ bên trái là Bô-a.

Footnotes

  1. II Sử Ký 2:2 1 Vua 5:16 ghi 3.300 đốc công
  2. II Sử Ký 2:3 Hu-ram, một dạng khác của chữ Hi-ram
  3. II Sử Ký 2:10 nt: 20.000 cô-rơ
  4. II Sử Ký 2:10 nt: 20.000 bát (1 Vua 5:11 chép )
  5. II Sử Ký 3:3 nt: dài 60 cubits và rộng 20 cubits
  6. II Sử Ký 3:4 nt: 20 cubits (Heb. ammah)
  7. II Sử Ký 3:4 nt: 120 cubits
  8. II Sử Ký 3:8 nt: 50 sê-ken
  9. II Sử Ký 3:9 nt: 600 ta-lâng
  10. II Sử Ký 3:10 nt: chê-ru-bim là số nhiều của chê-rúp
  11. II Sử Ký 3:11 nt: 5 cubits
  12. II Sử Ký 3:15 nt: 35 cubits