Add parallel Print Page Options

Đón rước Rương Giao Ước vào Giê-ru-sa-lem

15 Đa-vít cất nhiều nhà cho ông ở Giê-ru-sa-lem. Rồi ông chuẩn bị một nơi cho Rương của Thượng Đế, và dựng một lều cho Rương. Đa-vít dặn, “Chỉ có người Lê-vi mới được phép khiêng Rương của Thượng Đế thôi. CHÚA đã chọn họ khiêng Rương Ngài và phục vụ Ngài đời đời.”

Đa-vít triệu tập toàn dân Ít-ra-en đến Giê-ru-sa-lem. Ông muốn mang Rương của CHÚA vào nơi ông đã chuẩn bị. Đa-vít gọi tất cả con cháu A-rôn và người Lê-vi lại. Trong họ hàng Cô-hát có một trăm hai mươi người, đứng đầu là U-ri-ên. Có một trăm hai mươi người trong họ hàng Mê-ra-ri, đứng đầu là A-xai-gia. Trong họ hàng Ghẹt-sôn có một trăm ba mươi người, đứng đầu là Giô-ên. Có hai trăm người từ họ hàng Ê-li-xa-phan, đứng đầu là Sê-mai-gia. Trong họ hàng Hếp-rôn có tám mươi người, đứng đầu là Ê-li-ên. 10 Và trong họ hàng U-xi-ên có một trăm mười hai người, đứng đầu là Am-mi-na-đáp.

Đa-vít nói chuyện với các thầy tế lễ và người Lê-vi

11 Rồi Đa-vít mời các thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha cùng những người Lê-vi sau đây đến: U-ri-ên, A-sai-gia, Giô-ên, Sê-mai-gia, Ê-li-ên, và Am-mi-na-đáp. 12 Đa-vít bảo họ, “Các anh em là gia trưởng của người Lê-vi. Các anh em và những người Lê-vi khác phải sẵn sàng phục vụ CHÚA [a]. Hãy mang Rương của CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, đến nơi ta đã chuẩn bị sẵn. 13 Lần trước chúng ta không hỏi ý CHÚA xem phải khiêng Rương của Ngài ra sao. Các ngươi là người Lê-vi không khiêng Rương đó cho nên CHÚA là Thượng Đế đã trừng phạt chúng ta.”

14 Sau đó các thầy tế lễ và người Lê-vi dọn mình sẵn sàng phục vụ CHÚA để có thể khiêng Rương của CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 15 Người Lê-vi dùng các đòn đặc biệt để khiêng Rương của Thượng Đế lên vai theo như Mô-se truyền dặn, và theo như điều CHÚA dặn bảo.

Các ca sĩ

16 Đa-vít bảo các lãnh tụ người Lê-vi chỉ định các anh em mình vào nhiệm vụ ca hát, chơi đờn sắt, đờn cầm, trống cơm và hát những bài ca vui.

17 Người Lê-vi liền chỉ định Hê-man và các thân quyến ông như A-sáp và Ê-than. Hê-man là con trai Giô-ên. A-sáp là con trai Bê-rê-kia. Còn Ê-than, thuộc họ Mê-ra-ri, là con của Cu-sai-gia. 18 Ngoài ra cũng có toán người Lê-vi thứ nhì gồm: Xa-cha-ri, Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Bê-nai-gia, Ma-a-xê-gia, Mát-ti-thia, Ê-li-phê-lê-hu, Mích-nê-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên. Những người nầy thuộc toán phòng vệ người Lê-vi.

19 Các ca sĩ Hê-man, A-sáp, và Ê-than chơi trống cơm bằng đồng. 20 Xa-cha-ri, Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Ma-a-sê-gia, và Bê-nai-gia chơi đờn cầm [b] loại lớn. 21 Mát-ti-thia, Ê-li-phê-lê-hu, Mích-nê-gia, Ô-bết Ê-đôm, Giê-i-ên, và A-xa-xia chơi đờn sắt loại nhỏ. 22 Kê-na-nia, lãnh tụ người Lê-vi chịu trách nhiệm về việc xướng hát vì ông có tài trong việc đó.

23 Bê-rê-kia và Ên-ca-na là hai người canh gác Rương Giao Ước. 24 Các thầy tế lễ Sê-ba-nia, Giô-xa-phát, Nê-tha-nên, A-ma-xai, Xa-cha-ri, Bê-nai-gia, và Ê-li-ê-xe có nhiệm vụ thổi kèn trước Rương của Thượng Đế. Ô-bết Ê-đôm và Giê-hi-a cũng lo nhiệm vụ canh gác Rương.

25 Đa-vít, các lãnh tụ của Ít-ra-en, và những viên chỉ huy hàng ngàn quân [c] đi rước Rương Giao Ước của CHÚA. Họ hớn hở vô cùng khi đồng mang Rương từ nhà Ô-bết Ê-đôm về. 26 Vì Thượng Đế giúp đỡ những người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước của CHÚA nên họ dâng bảy con bò đực và bảy con chiên đực. 27 Tất cả những người Lê-vi khiêng Rương, và Kê-na-nia, người lo việc xướng hát, và các ca sĩ đều mặc áo dài bằng vải gai mịn. Đa-vít cũng mặc một áo dài bằng vải gai mịn và một áo ngắn thánh cũng bằng vải gai mịn.

28 Vậy tất cả dân Ít-ra-en rước Rương Giao Ước của CHÚA. Họ reo hò, thổi tù và cùng với kèn, đánh trống cơm, đờn sắt, và đờn cầm.

29 Khi Rương Giao Ước của CHÚA đi vào Giê-ru-sa-lem thì Mi-canh, con gái Sau-lơ nhìn qua cửa sổ. Nàng thấy vua Đa-vít nhảy múa vui mừng thì đâm ra khinh dể ông.

16 Họ mang Rương của Thượng Đế và đặt bên trong lều mà Đa-vít đã dựng sẵn. Sau đó họ dâng của lễ thiêu, của lễ thân hữu cho Thượng Đế. Sau khi Đa-vít đã dâng các của lễ thiêu và thân hữu xong thì ông nhân danh CHÚA chúc phước cho dân chúng. Ông phát cho mỗi một người đàn ông, đàn bà Ít-ra-en một ổ bánh, trái chà là, và nho khô.

Rồi Đa-vít chỉ định một số người Lê-vi phục vụ trước Rương của CHÚA. Họ có nhiệm vụ hướng dẫn việc thờ phụng, cảm tạ, và ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. A-sáp, người chơi chập chỏa, hướng dẫn. Phụ tá ông có Xa-cha-ri. Các người Lê-vi khác là Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Mát-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-nai-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên. Họ chơi đờn sắt và đờn cầm. Bê-nai-gia và Gia-ha-xi-ên là các thầy tế lễ thổi kèn thường xuyên trước Rương Giao Ước với Thượng Đế. Ngày đó là lần đầu tiên Đa-vít giao cho A-sáp và thân quyến ông nhiệm vụ hát xướng ca ngợi CHÚA.

Bài ca cảm tạ của Đa-vít

Hãy cảm tạ CHÚA và cầu khẩn cùng Ngài.
    Hãy thuật cho các dân những việc Ngài làm.
Hãy hát xướng cho Ngài,
    chúc tụng danh Ngài.
    Hãy thuật lại những phép lạ Ngài.
10 Hãy hớn hở vì các ngươi thuộc về Ngài;
    những ai tìm kiếm CHÚA hãy vui mừng.
11 Hãy nhờ cậy CHÚA và năng lực Ngài;
    hãy luôn luôn xin CHÚA giúp đỡ.
12 Hãy nhớ lại những phép lạ Ngài đã làm,
    những việc diệu kỳ,
    và những quyết định của Ngài.
13 Hỡi Ít-ra-en, các ngươi là dòng dõi của tôi tớ Ngài;
    các ngươi là con cháu Gia-cốp, dân được chọn lựa của Ngài.

14 Ngài là CHÚA và là Thượng Đế chúng ta.
    Luật pháp Ngài dành cho cả thế gian.
15 Ngài sẽ giữ giao ước Ngài đời đời;
    Ngài sẽ luôn luôn giữ lời hứa mình.
16 Ngài sẽ giữ giao ước đã lập với Áp-ra-ham
    và lời hứa Ngài cùng Y-sác.
17 Ngài biến nó thành luật lệ cho dân cư Gia-cốp;
    Ngài biến nó thành giao ước với Ít-ra-en đời đời.

18 Ngài phán, “Ta sẽ ban đất Ca-na-an cho các ngươi,
    để làm tài sản ngươi.”
19 Lúc đó dân của Thượng Đế hãy còn ít ỏi,
    họ sống như người xa lạ trong xứ.
20 Họ lưu lạc từ dân nầy đến dân khác,
    từ nước nầy đến nước nọ.
21 Nhưng Ngài không cho ai làm hại họ;
    Ngài cảnh cáo các vua không được đụng đến họ.

22 Ngài dặn, “Không được đụng đến dân tuyển chọn của ta,
    không được làm hại các nhà tiên tri ta.”
23 Hỡi cả trái đất, hãy hát xướng cho CHÚA.
    Mỗi ngày hãy thuật lại ơn cứu của Ngài.
24 Hãy thuật cho các dân về vinh hiển Ngài;
    Hãy cho mọi người biết các phép lạ Ngài làm.
25 CHÚA rất cao cả, đáng được ca ngợi.
    Ngài đáng được tôn kính hơn tất cả các thần.
26 Tất cả thần của các dân chỉ là hình tượng,
    nhưng CHÚA tạo ra các bầu trời.
27 Ngài đầy vinh hiển và oai nghi;
    Ngài có uy quyền và niềm vui trong đền thờ Ngài.
28 Hỡi các dân trên đất hãy ca ngợi CHÚA.
    Hãy ca ngợi vinh hiển và quyền năng Ngài.
29 Hãy ca ngợi vinh hiển của danh Ngài.
    Hãy mang của lễ mà đến cùng Ngài.
    Hãy thờ kính CHÚA trong trang phục thánh [d].
30 Hỡi mọi người trên đất hãy run sợ trước mặt Ngài.
    Trái đất đã được đặt để,
    nó không thể dời đi nơi khác.
31 Trời hãy vui mừng, và đất hãy hớn hở.
    Dân chúng các nơi hãy nói, “CHÚA là vua!”
32 Biển và mọi loài trong đó hãy la lớn,
    đồng ruộng và mọi thứ trong đó hãy vui mừng.
33 Các cây cối trong rừng sẽ reo vui trước mặt CHÚA.
    Chúng sẽ hát mừng vì Ngài đến để phân xử thế gian.
34 Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài nhân từ.
    Tình yêu Ngài còn đến đời đời.
35 Hãy thưa cùng Ngài,
    “Lạy Thượng Đế là Đấng Cứu Chuộc chúng tôi,
    xin hãy giải cứu chúng tôi,
    mang chúng tôi trở về và cứu chúng tôi từ các nước khác.
Thì chúng tôi sẽ cảm tạ Ngài và hết lòng ca ngợi Ngài.”
36 Hãy ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en.
    Ngài hằng hữu từ ngàn xưa cho đến mãi mãi.

Toàn dân đều nói “A-men” và ca ngợi CHÚA.

37 Sau đó Đa-vít để A-sáp và các người Lê-vi khác đứng trước mặt Rương Giao Ước với CHÚA. Họ ở đó để phục vụ công tác mỗi ngày. 38 Đa-vít cũng để Ô-bết Ê-đôm và sáu mươi tám người Lê-vi phục vụ chung với họ. Hô-sa và Ô-bết Ê-đôm, con Giê-đu-thun lo nhiệm vụ canh gác.

39 Đa-vít để thầy tế lễ Xa-đốc và các thầy tế lễ khác phục vụ cùng ông trước Lều của CHÚA [e] ở nơi thờ phụng tại Ghi-bê-ôn. 40 Mỗi sáng và chiều họ dâng của lễ thiêu trên bàn thờ theo đúng các qui tắc trong Lời Giáo Huấn của CHÚA đã được ban cho dân Ít-ra-en. 41 Cùng với họ có Hê-man và Giê-đu-thun cùng các người Lê-vi khác. Họ được chọn đích danh để ca ngợi CHÚA chẳng hạn như hát khúc Ca tụng CHÚA vì tình yêu Ngài còn đời đời [f]. 42 Hê-man và Giê-đu-thun cũng có nhiệm vụ thổi kèn, đánh chập chỏa và chơi các nhạc cụ khác khi người ta hát lên cho Thượng Đế. Các con trai Giê-đu-thun lo nhiệm vụ gác cửa.

43 Rồi tất cả dân chúng ra về. Mọi người đều trở về nhà. Đa-vít cũng về nhà chúc phước cho các người trong gia đình mình.

Thượng Đế hứa cùng Đa-vít

17 Sau khi Đa-vít dọn vào cung điện mình thì ông nói với Na-than, nhà tiên tri, “Nầy, tôi đang ở trong một cung điện làm bằng gỗ hương nam, nhưng Rương Giao Ước của CHÚA lại ở trong lều.”

Na-than bảo Đa-vít, “Vua muốn làm điều gì cũng được vì Thượng Đế ở cùng vua.”

Nhưng đêm đó Thượng Đế phán cùng Na-than như sau, “Hãy đi bảo tôi tớ ta là Đa-vít rằng, ‘CHÚA phán: Ngươi sẽ không phải là người xây nhà cho ta ở. Từ khi ta mang Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập cho đến nay ta không ở trong nhà nào. Ta dời từ lều nầy sang lều khác và từ nơi nầy đến nơi kia. Trong khi ta đi cùng Ít-ra-en từ nơi nầy đến nơi kia, ta chưa hề bảo các lãnh tụ là những người ta truyền dặn lo cho dân chúng rằng: Sao các ngươi không xây nhà cho ta bằng gỗ hương nam?’

Bây giờ hãy bảo tôi tớ ta là Đa-vít: CHÚA Toàn Năng phán: Ta chọn ngươi từ nơi đồng cỏ khỏi nghề chăn chiên và lập ngươi làm vua trên dân Ít-ra-en ta. Ta đã ở cùng ngươi mọi nơi ngươi đi. Ta đã đánh bại các kẻ thù ngươi giùm cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi nổi danh như các vĩ nhân trên đất. Ta sẽ chọn một nơi cho dân Ít-ra-en ta, rồi ta sẽ đặt họ vào để họ sống trong nhà mình. Họ sẽ không còn bị ai quấy nhiễu nữa. Những kẻ ác sẽ không còn làm hại họ như trước kia 10 khi ta chọn các quan án cho dân Ít-ra-en ta. Ta sẽ đánh bại tất cả các kẻ thù ngươi.

Ta hứa rằng ta sẽ lập con cháu ngươi nối ngôi vua trên Ít-ra-en sau ngươi [g]. 11 Khi ngươi qua đời về cùng tổ tiên thì ta sẽ lập một trong các con trai ngươi làm vua mới, và sẽ thiết lập nước của nó. 12 Nó sẽ xây nhà cho ta, và ta sẽ cho nước nó cai trị đời đời. 13 Ta sẽ làm cha nó, nó sẽ làm con ta. Ta đã lấy lại tình yêu ta đối cùng Sau-lơ là kẻ cai trị trước ngươi, nhưng ta sẽ luôn luôn yêu thương con trai ngươi. 14 Ta sẽ đặt nó quản trị nhà ta và nước ta đời đời. Gia đình nó sẽ trị vì mãi mãi.”

15 Na-than thuật lại cho Đa-vít mọi điều Thượng Đế phán trong sự hiện thấy.

Lời cầu nguyện của Đa-vít

16 Rồi vua Đa-vít đi vào ngồi trước mặt CHÚA và nói, “Lạy CHÚA là Thượng Đế, tôi là gì? Gia đình tôi là ai mà Ngài mang tôi đến như hôm nay? 17 Lạy CHÚA, thế chưa đủ. Ngài còn hứa về tương lai của gia đình tôi nữa. Lạy CHÚA là Thượng Đế Ngài đã đối cùng tôi như một người có địa vị. 18 Tôi còn thưa gì hơn nữa với Ngài vì Ngài đã tôn trọng tôi, kẻ tôi tớ Ngài? Ngài biết tôi quá rõ. 19 Lạy CHÚA, Ngài đã làm điều diệu kỳ nầy vì tôi và vì Ngài muốn làm như thế. Ngài đã tỏ ra mọi điều lớn lao nầy. 20 Lạy Chúa, không có ai giống như Ngài. Không có Thượng Đế nào ngoài Ngài. Chính tai chúng tôi đã nghe tất cả những điều nầy về Ngài! 21 Không có dân nào giống như dân Ít-ra-en của Ngài. Họ là dân tộc duy nhất trên đất được Ngài chọn lựa cho mình. Ngài đã tỏ danh của Ngài ra bằng những việc lớn lao kỳ diệu Ngài làm cho họ. Ngài đi trước họ và đánh đuổi các dân khác ra khỏi xứ. Ngài giải thoát dân sự Ngài ra khỏi ách nô lệ ở Ai-cập. 22 Ngài lập dân Ít-ra-en làm dân sự của Ngài đời đời, và CHÚA ơi, Ngài là Thượng Đế của họ.

23 Lạy Chúa, xin hãy giữ lời hứa đời đời Ngài đã phán cùng gia đình tôi và tôi, kẻ tôi tớ Ngài. Xin hãy thực hiện điều Ngài đã hứa. 24 Rồi Ngài sẽ luôn luôn được tôn trọng, và người ta sẽ nói, ‘CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế trên Ít-ra-en, là Thượng Đế của Ít-ra-en!’ Gia đình của Đa-vít kẻ tôi tớ Ngài sẽ còn tồn tại trước mặt Ngài.

25 Lạy Thượng Đế tôi, Ngài đã bảo tôi rằng Ngài sẽ làm cho gia đình tôi nổi danh. Cho nên tôi, kẻ tôi tớ Ngài, bạo dạn cầu xin cùng Ngài. 26 Lạy Chúa, Ngài là Thượng Đế, và Đấng đã hứa những điều tốt lành nầy cùng tôi, kẻ tôi tớ Ngài. 27 Ngài đã tự ý ban phước cho gia đình tôi. Xin Ngài hãy tiếp tục làm điều đó mãi mãi. Lạy Chúa, Ngài đã ban phước cho gia đình tôi, nên gia đình tôi sẽ luôn luôn được phước.”

Footnotes

  1. I Sử Ký 15:12 sẵn sàng phục vụ CHÚA Nghĩa là “hãy dọn mình ra thánh.” Xem câu 14.
  2. I Sử Ký 15:20 đờn cầm, đờn sắt Nguyên văn, “a-la-mốt” và “sê-mi-nít.” Rất có thể là hai loại nhạc khí khác nhau hoặc hai nhóm khác nhau mà ban nhạc dùng để chơi trong đền thờ.
  3. I Sử Ký 15:25 viên chỉ huy hàng ngàn quân Hay “các tướng lãnh.”
  4. I Sử Ký 16:29 trang phục thánh Hay “trong vinh hiển thánh của Ngài.”
  5. I Sử Ký 16:39 Lều của CHÚA Hay “Lều Tạm.” Còn gọi là “Lều Họp.” Dân chúng đi vào lều nầy để ra mắt Chúa. Họ sử dụng lều ấy cho đến khi Sô-lô-môn xây đền thờ tại Giê-ru-sa-lem.
  6. I Sử Ký 16:41 Ca tụng CHÚA … đời đời Xem II Sử 7:6; Thi 118 và 136.
  7. I Sử Ký 17:10 Ta hứa rằng … sau ngươi Hay “Ta sẽ xây một căn nhà cho ngươi.” Đây không có nghĩa là căn nhà thật mà là Chúa sẽ chọn người trong gia đình Đa-vít để làm vua trong nhiều năm.

15 And David made him houses in the city of David, and prepared a place for the ark of God, and pitched for it a tent.

Then David said, None ought to carry the ark of God but the Levites: for them hath the Lord chosen to carry the ark of God, and to minister unto him for ever.

And David gathered all Israel together to Jerusalem, to bring up the ark of the Lord unto his place, which he had prepared for it.

And David assembled the children of Aaron, and the Levites:

Of the sons of Kohath; Uriel the chief, and his brethren an hundred and twenty:

Of the sons of Merari; Asaiah the chief, and his brethren two hundred and twenty:

Of the sons of Gershom; Joel the chief and his brethren an hundred and thirty:

Of the sons of Elizaphan; Shemaiah the chief, and his brethren two hundred:

Of the sons of Hebron; Eliel the chief, and his brethren fourscore:

10 Of the sons of Uzziel; Amminadab the chief, and his brethren an hundred and twelve.

11 And David called for Zadok and Abiathar the priests, and for the Levites, for Uriel, Asaiah, and Joel, Shemaiah, and Eliel, and Amminadab,

12 And said unto them, Ye are the chief of the fathers of the Levites: sanctify yourselves, both ye and your brethren, that ye may bring up the ark of the Lord God of Israel unto the place that I have prepared for it.

13 For because ye did it not at the first, the Lord our God made a breach upon us, for that we sought him not after the due order.

14 So the priests and the Levites sanctified themselves to bring up the ark of the Lord God of Israel.

15 And the children of the Levites bare the ark of God upon their shoulders with the staves thereon, as Moses commanded according to the word of the Lord.

16 And David spake to the chief of the Levites to appoint their brethren to be the singers with instruments of musick, psalteries and harps and cymbals, sounding, by lifting up the voice with joy.

17 So the Levites appointed Heman the son of Joel; and of his brethren, Asaph the son of Berechiah; and of the sons of Merari their brethren, Ethan the son of Kushaiah;

18 And with them their brethren of the second degree, Zechariah, Ben, and Jaaziel, and Shemiramoth, and Jehiel, and Unni, Eliab, and Benaiah, and Maaseiah, and Mattithiah, and Elipheleh, and Mikneiah, and Obededom, and Jeiel, the porters.

19 So the singers, Heman, Asaph, and Ethan, were appointed to sound with cymbals of brass;

20 And Zechariah, and Aziel, and Shemiramoth, and Jehiel, and Unni, and Eliab, and Maaseiah, and Benaiah, with psalteries on Alamoth;

21 And Mattithiah, and Elipheleh, and Mikneiah, and Obededom, and Jeiel, and Azaziah, with harps on the Sheminith to excel.

22 And Chenaniah, chief of the Levites, was for song: he instructed about the song, because he was skilful.

23 And Berechiah and Elkanah were doorkeepers for the ark.

24 And Shebaniah, and Jehoshaphat, and Nethaneel, and Amasai, and Zechariah, and Benaiah, and Eliezer, the priests, did blow with the trumpets before the ark of God: and Obededom and Jehiah were doorkeepers for the ark.

25 So David, and the elders of Israel, and the captains over thousands, went to bring up the ark of the covenant of the Lord out of the house of Obededom with joy.

26 And it came to pass, when God helped the Levites that bare the ark of the covenant of the Lord, that they offered seven bullocks and seven rams.

27 And David was clothed with a robe of fine linen, and all the Levites that bare the ark, and the singers, and Chenaniah the master of the song with the singers: David also had upon him an ephod of linen.

28 Thus all Israel brought up the ark of the covenant of the Lord with shouting, and with sound of the cornet, and with trumpets, and with cymbals, making a noise with psalteries and harps.

29 And it came to pass, as the ark of the covenant of the Lord came to the city of David, that Michal, the daughter of Saul looking out at a window saw king David dancing and playing: and she despised him in her heart.

16 So they brought the ark of God, and set it in the midst of the tent that David had pitched for it: and they offered burnt sacrifices and peace offerings before God.

And when David had made an end of offering the burnt offerings and the peace offerings, he blessed the people in the name of the Lord.

And he dealt to every one of Israel, both man and woman, to every one a loaf of bread, and a good piece of flesh, and a flagon of wine.

And he appointed certain of the Levites to minister before the ark of the Lord, and to record, and to thank and praise the Lord God of Israel:

Asaph the chief, and next to him Zechariah, Jeiel, and Shemiramoth, and Jehiel, and Mattithiah, and Eliab, and Benaiah, and Obededom: and Jeiel with psalteries and with harps; but Asaph made a sound with cymbals;

Benaiah also and Jahaziel the priests with trumpets continually before the ark of the covenant of God.

Then on that day David delivered first this psalm to thank the Lord into the hand of Asaph and his brethren.

Give thanks unto the Lord, call upon his name, make known his deeds among the people.

Sing unto him, sing psalms unto him, talk ye of all his wondrous works.

10 Glory ye in his holy name: let the heart of them rejoice that seek the Lord.

11 Seek the Lord and his strength, seek his face continually.

12 Remember his marvellous works that he hath done, his wonders, and the judgments of his mouth;

13 O ye seed of Israel his servant, ye children of Jacob, his chosen ones.

14 He is the Lord our God; his judgments are in all the earth.

15 Be ye mindful always of his covenant; the word which he commanded to a thousand generations;

16 Even of the covenant which he made with Abraham, and of his oath unto Isaac;

17 And hath confirmed the same to Jacob for a law, and to Israel for an everlasting covenant,

18 Saying, Unto thee will I give the land of Canaan, the lot of your inheritance;

19 When ye were but few, even a few, and strangers in it.

20 And when they went from nation to nation, and from one kingdom to another people;

21 He suffered no man to do them wrong: yea, he reproved kings for their sakes,

22 Saying, Touch not mine anointed, and do my prophets no harm.

23 Sing unto the Lord, all the earth; shew forth from day to day his salvation.

24 Declare his glory among the heathen; his marvellous works among all nations.

25 For great is the Lord, and greatly to be praised: he also is to be feared above all gods.

26 For all the gods of the people are idols: but the Lord made the heavens.

27 Glory and honour are in his presence; strength and gladness are in his place.

28 Give unto the Lord, ye kindreds of the people, give unto the Lord glory and strength.

29 Give unto the Lord the glory due unto his name: bring an offering, and come before him: worship the Lord in the beauty of holiness.

30 Fear before him, all the earth: the world also shall be stable, that it be not moved.

31 Let the heavens be glad, and let the earth rejoice: and let men say among the nations, The Lord reigneth.

32 Let the sea roar, and the fulness thereof: let the fields rejoice, and all that is therein.

33 Then shall the trees of the wood sing out at the presence of the Lord, because he cometh to judge the earth.

34 O give thanks unto the Lord; for he is good; for his mercy endureth for ever.

35 And say ye, Save us, O God of our salvation, and gather us together, and deliver us from the heathen, that we may give thanks to thy holy name, and glory in thy praise.

36 Blessed be the Lord God of Israel for ever and ever. And all the people said, Amen, and praised the Lord.

37 So he left there before the ark of the covenant of the Lord Asaph and his brethren, to minister before the ark continually, as every day's work required:

38 And Obededom with their brethren, threescore and eight; Obededom also the son of Jeduthun and Hosah to be porters:

39 And Zadok the priest, and his brethren the priests, before the tabernacle of the Lord in the high place that was at Gibeon,

40 To offer burnt offerings unto the Lord upon the altar of the burnt offering continually morning and evening, and to do according to all that is written in the law of the Lord, which he commanded Israel;

41 And with them Heman and Jeduthun, and the rest that were chosen, who were expressed by name, to give thanks to the Lord, because his mercy endureth for ever;

42 And with them Heman and Jeduthun with trumpets and cymbals for those that should make a sound, and with musical instruments of God. And the sons of Jeduthun were porters.

43 And all the people departed every man to his house: and David returned to bless his house.

17 Now it came to pass, as David sat in his house, that David said to Nathan the prophet, Lo, I dwell in an house of cedars, but the ark of the covenant of the Lord remaineth under curtains.

Then Nathan said unto David, Do all that is in thine heart; for God is with thee.

And it came to pass the same night, that the word of God came to Nathan, saying,

Go and tell David my servant, Thus saith the Lord, Thou shalt not build me an house to dwell in:

For I have not dwelt in an house since the day that I brought up Israel unto this day; but have gone from tent to tent, and from one tabernacle to another.

Wheresoever I have walked with all Israel, spake I a word to any of the judges of Israel, whom I commanded to feed my people, saying, Why have ye not built me an house of cedars?

Now therefore thus shalt thou say unto my servant David, Thus saith the Lord of hosts, I took thee from the sheepcote, even from following the sheep, that thou shouldest be ruler over my people Israel:

And I have been with thee whithersoever thou hast walked, and have cut off all thine enemies from before thee, and have made thee a name like the name of the great men that are in the earth.

Also I will ordain a place for my people Israel, and will plant them, and they shall dwell in their place, and shall be moved no more; neither shall the children of wickedness waste them any more, as at the beginning,

10 And since the time that I commanded judges to be over my people Israel. Moreover I will subdue all thine enemies. Furthermore I tell thee that the Lord will build thee an house.

11 And it shall come to pass, when thy days be expired that thou must go to be with thy fathers, that I will raise up thy seed after thee, which shall be of thy sons; and I will establish his kingdom.

12 He shall build me an house, and I will stablish his throne for ever.

13 I will be his father, and he shall be my son: and I will not take my mercy away from him, as I took it from him that was before thee:

14 But I will settle him in mine house and in my kingdom for ever: and his throne shall be established for evermore.

15 According to all these words, and according to all this vision, so did Nathan speak unto David.

16 And David the king came and sat before the Lord, and said, Who am I, O Lord God, and what is mine house, that thou hast brought me hitherto?

17 And yet this was a small thing in thine eyes, O God; for thou hast also spoken of thy servant's house for a great while to come, and hast regarded me according to the estate of a man of high degree, O Lord God.

18 What can David speak more to thee for the honour of thy servant? for thou knowest thy servant.

19 O Lord, for thy servant's sake, and according to thine own heart, hast thou done all this greatness, in making known all these great things.

20 O Lord, there is none like thee, neither is there any God beside thee, according to all that we have heard with our ears.

21 And what one nation in the earth is like thy people Israel, whom God went to redeem to be his own people, to make thee a name of greatness and terribleness, by driving out nations from before thy people whom thou hast redeemed out of Egypt?

22 For thy people Israel didst thou make thine own people for ever; and thou, Lord, becamest their God.

23 Therefore now, Lord, let the thing that thou hast spoken concerning thy servant and concerning his house be established for ever, and do as thou hast said.

24 Let it even be established, that thy name may be magnified for ever, saying, The Lord of hosts is the God of Israel, even a God to Israel: and let the house of David thy servant be established before thee.

25 For thou, O my God, hast told thy servant that thou wilt build him an house: therefore thy servant hath found in his heart to pray before thee.

26 And now, Lord, thou art God, and hast promised this goodness unto thy servant:

27 Now therefore let it please thee to bless the house of thy servant, that it may be before thee for ever: for thou blessest, O Lord, and it shall be blessed for ever.