Add parallel Print Page Options

Chúa lại hiện ra cùng Sô-lô-môn

Sô-lô-môn hoàn tất việc xây cất đền thờ của CHÚA và cung vua cùng mọi thứ vua muốn xây. Rồi CHÚA lại hiện ra cho vua lần nữa giống như lần trước ở Ghi-bê-ôn. CHÚA bảo vua, “Ta đã nghe lời cầu nguyện ngươi và điều ngươi cầu xin. Ngươi đã xây đền thờ nầy mà ta đã chọn làm nơi thánh. Người ta sẽ thờ phụng ta tại đó đời đời; ta sẽ trông nom và luôn luôn bảo vệ nó. Nhưng ngươi phải phục vụ ta như Đa-vít cha ngươi. Ngươi phải hết lòng làm điều phải. Ngươi phải vâng giữ những gì ta truyền cùng những luật lệ và qui tắc của ta. Nếu ngươi làm như thế, ta sẽ khiến ngôi nước ngươi vững chắc trên Ít-ra-en. Đây là lời ta hứa cùng Đa-vít cha ngươi rằng trong nhà người sẽ luôn luôn có người cai trị trên Ít-ra-en.

Nhưng ngươi và con cái ngươi phải đi theo ta, vâng giữ luật lệ và mệnh lệnh ta truyền cho. Các ngươi không được phục vụ hay thờ phụng thần nào khác. Nếu không ta sẽ đuổi dân Ít-ra-en ra khỏi xứ ta ban cho họ, và ta sẽ rời bỏ đền thờ nầy mà ta đã biệt riêng ra thánh. Các dân tộc sẽ chế giễu dân Ít-ra-en và bêu xấu họ. Nếu đền thờ bị tiêu hủy, ai đi qua lại cũng sẽ sửng sốt. Họ sẽ chế giễu các ngươi và hỏi, ‘Tại sao CHÚA làm điều ghê gớm nầy cho xứ và đền thờ?’ Người ta sẽ trả lời, ‘Vì họ đã bỏ CHÚA là Thượng Đế họ là Đấng mang tổ tiên họ ra khỏi Ai-cập. Họ đi theo các thần khác. Họ thờ phụng và phục vụ các thần đó cho nên CHÚA đưa thảm họa nầy đến trên họ.’”

Read full chapter

24 Sô-lô-môn kiểm soát tất cả các xứ nằm về phía Tây sông Ơ-phơ-rát: vùng đất từ Típ-sa cho đến Ga-xa. Tất cả các vương quốc của vua đều có hoà bình bốn bên. 25 Trong đời Sô-lô-môn, xứ Giu-đa và Ít-ra-en, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, đều có hòa bình; ai nấy đều được an vui dưới cây vả và cây nho mình.

26 Sô-lô-môn có bốn ngàn [a] con ngựa để kéo quân xa, và mười hai ngàn ngựa. 27 Mỗi tháng thì mỗi một tổng trấn cung cấp thực phẩm cho vua Sô-lô-môn đủ cho mọi người ăn chung bàn với vua. Các quan tổng trấn phải làm sao để vua có đầy đủ mọi thứ cần dùng. 28 Họ cũng mang đủ lúa mạch và rơm cho các con ngựa kéo quân xa và ngựa làm việc của Sô-lô-môn; mỗi người phải đem ngũ cốc đến đúng nơi.

Sự khôn ngoan của Sô-lô-môn

29 Thượng Đế cho Sô-lô-môn sự khôn ngoan khiến ông thông hiểu nhiều điều. Sự khôn ngoan của vua rất bao la, khó lường được. 30 Sự khôn ngoan của vua trổi hơn bất cứ nhà thông thái nào khác ở Đông Phương [b] hay ở Ai-cập. 31 Vua khôn ngoan hơn bất cứ ai trên đất. Vua cũng khôn hơn Ê-than, người Ết-ra-hít, Hê-man, Canh-côn, và Đạc-đa, ba con trai của Ma-hôn. Vua Sô-lô-môn nổi danh trong tất cả các quốc gia lân cận. 32 Trong đời mình, Sô-lô-môn nói [c] ba ngàn câu châm ngôn và soạn một ngàn lẻ năm bài ca.

33 Vua giảng dạy về nhiều loại thảo mộc, từ cây hương nam của Li-băng cho đến rong rêu mọc trên vách. Vua cũng dạy về các loại thú vật, chim chóc, loài bò sát [d], và loài cá. 34 Dân chúng từ các quốc gia đến để nghe sự khôn ngoan của Sô-lô-môn. Vua các nước phái dân mình đến vì họ nghe tiếng khôn ngoan của Sô-lô-môn.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Các Vua 4:26 bốn ngàn Con số nầy có trong bản cổ Hi-lạp. Bản tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ ghi “bốn chục ngàn.” Xem II Sử 9:25.
  2. I Các Vua 4:30 Đông Phương Vùng đất nằm giữa sông Ti-gờ-rít và Ơ-phơ-rát, kéo dài đến vịnh Ba-tư.
  3. I Các Vua 4:32 nói Hay “viết.”
  4. I Các Vua 4:33 loài bò sát Nguyên văn, “những thú vật bò sát” gồm có côn trùng, kỳ đà, rắn, hay cá.

10 Đến cuối năm thứ hai mươi, vua Sô-lô-môn đã xây hai tòa nhà: đền thờ của CHÚA và cung vua. 11 Lúc đó vua Sô-lô-môn cấp cho Hi-ram, vua Tia, hai mươi thị trấn trong vùng Ga-li-lê vì Hi-ram đã giúp vua xây cất các tòa nhà. Hi-ram đã cấp cho Sô-lô-môn tất cả gỗ hương nam, gỗ thông, và vàng mà vua cần. 12 Vậy Hi-ram từ Tia đi đến viếng các thị trấn mà Sô-lô-môn cấp cho mình nhưng khi viếng xong, Hi-ram không hài lòng. 13 Hi-ram hỏi, “Anh ơi, các thị trấn anh cho tôi đó có ra gì đâu?” Cho nên ông gọi chúng là Đất Ca-bun [a], ngày nay vẫn còn mang tên đó. 14 Hi-ram gởi cho Sô-lô-môn khoảng chín ngàn cân [b] vàng.

15 Sau đây là cách Sô-lô-môn dùng lao công cưỡng bách để xây đền thờ và hoàng cung. Ông bắt họ xây Mi-lô [c] ở Giê-ru-sa-lem. Ông cũng bảo họ xây lại các thành Hát-xo, Mê-ghi-đô, và Ghê-xe.

16 Trước kia vua Ai-cập tấn công và chiếm Ghê-xe. Sau khi tiêu hủy thành thì vua giết tất cả người Ca-na-an cư ngụ ở đó. Rồi vua tặng thành đó cho con gái mình là người kết hôn với Sô-lô-môn để làm của hồi môn. 17 Cho nên Sô-lô-môn xây lại thành ấy. Vua cũng xây các thành trong vùng hạ Bết-Hô-rôn 18 và Ba-a-lát, cùng Tát-mo trong sa mạc. 19 Vua Sô-lô-môn cũng xây các thành để trữ thóc lúa và đồ tiếp liệu và các thành cho quân xa và ngựa của vua. Ở Giê-ru-sa-lem, Li-băng hay bất cứ nơi nào vua cai trị vua muốn xây gì thì xây.

20 Trong xứ cũng có những dân không phải Ít-ra-en: A-mô-rít, Hê-tít, Phê-ri-xít, Hê-vít, và Giê-bu-xít. 21 Họ thuộc dòng dõi những dân mà người Ít-ra-en không tiêu diệt. Sô-lô-môn bắt họ làm nô lệ cho mình và cho đến nay vẫn như thế. 22 Nhưng Sô-lô-môn không bắt dân Ít-ra-en làm nô lệ. Họ làm lính, các quan chức, sĩ quan, các cấp chỉ huy, sĩ quan điều khiển quân xa, và tài xế quân xa. 23 Đó là những sĩ quan cao cấp nhất trông coi mọi việc. Có năm trăm năm mươi đốc công coi sóc các nhân công thực hiện những chương trình của Sô-lô-môn.

24 Con gái của vua Ai-cập dời từ thành Đa-vít đến cung điện Sô-lô-môn cất cho nàng. Rồi Sô-lô-môn xây Mi-lô.

25 Mỗi năm ba lần Sô-lô-môn dâng của lễ toàn thiêu và của lễ thân hữu trên bàn thờ vua đã xây cho CHÚA. Vua cũng đốt hương trước mặt CHÚA. Sô-lô-môn hoàn tất công tác cho đền thờ là như thế.

26 Vua Sô-lô-môn cũng đóng các tàu bè ở Ê-xi-ôn Ghê-be, một thị trấn gần Ê-lát trên bờ Biển Sậy, thuộc xứ Ê-đôm. 27 Hi-ram có các thủy thủ chuyên nghiệp nên vua phái họ phục vụ trên các thuyền bè nầy cùng với các thủy thủ của Sô-lô-môn. 28 Các thuyền đó đi Ô-phia và mang về khoảng mười lăm tấn [d] vàng cho vua Sô-lô-môn.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Các Vua 9:13 Ca-bun Từ ngữ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “đồ bỏ” hay “đồ vô dụng.”
  2. I Các Vua 9:14 chín ngàn cân Nguyên văn, “120 ta-lâng” (khoảng 4.100 kí-lô).
  3. I Các Vua 9:15 Mi-lô Các bực đất có tường chống đỡ, có lẽ nằm về phía Tây Nam thành phố.
  4. I Các Vua 9:28 mười lăm tấn Nguyên văn, “420 ta-lâng” (14.500 kí-lô).

Những thành phố do Sô-lô-môn thiết lập

Đến cuối năm thứ hai mươi, Sô-lô-môn đã xây xong đền thờ cho CHÚA và cung điện mình. Sô-lô-môn cho xây sửa lại các thị trấn mà vua Hi-ram [a] đã cho mình rồi đưa dân Ít-ra-en đến định cư trong các thị trấn ấy. Rồi ông kéo đến chiếm Ha-mát Xô-ba. Sô-lô-môn cũng xây thị trấn Thát-mo trong sa mạc và xây tất cả các thị trấn trong Ha-mát cùng làm nơi chứa ngũ cốc và vật liệu. Ông xây sửa lại các thị trấn Bết-Hô-rôn trên, và Bết-Hô-rôn dưới, xây tường, cổng, và các thanh cài cổng để phòng vệ các nơi đó. Ông cũng cho xây lại thị trấn Ba-a-lát. Ông cũng xây các thị trấn khác để làm kho chứa, và các thành khác chứa quân xa và ngựa. Những gì ông muốn thì ông xây ở Giê-ru-sa-lem, Li-băng, và bất cứ nơi nào ông trị vì.

Có những dân khác trong xứ không phải dân Ít-ra-en: như dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-ri-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. Họ là dòng dõi của những dân tộc mà người Ít-ra-en chưa tiêu diệt. Sô-lô-môn buộc họ làm tôi mọi, và ngày nay cũng vẫn như thế. Nhưng Sô-lô-môn không bắt dân Ít-ra-en làm tôi mọi. Ông cho họ làm lính, các sĩ quan chỉ huy, sĩ quan chỉ huy quân xa, và những người tài xế quân xa. 10 Đó là những sĩ quan cao cấp nhất của ông. Có hai trăm năm mươi người thuộc cấp đó để điều động dân chúng.

11 Sô-lô-môn rước con gái của vua Ai-cập từ khu cũ của thành Giê-ru-sa-lem vào cung điện vua xây cho nàng. Sô-lô-môn nói, “Vợ ta không nên ở trong cung vua Đa-vít vì nơi nào Rương Giao Ước của CHÚA đã được đặt để đều là thánh.”

12 Rồi Sô-lô-môn dâng của lễ thiêu cho CHÚA trên bàn thờ ông đã xây trước mặt vòm cửa đền thờ. 13 Ông dâng sinh tế mỗi ngày theo như Mô-se truyền dặn. Các của lễ được dâng vào ngày Sa bát, ngày Trăng Mới, và ba ngày lễ hằng năm tức Lễ Bánh Không Men, Lễ Các Tuần, và Lễ Lều Tạm. 14 Sô-lô-môn theo đúng những lời dặn dò của Đa-vít và chọn các nhóm thầy tế lễ để phục vụ và các người Lê-vi để hướng dẫn ca hát đồng thời giúp các thầy tế lễ trong công việc hằng ngày. Ông chọn các người giữ cửa theo nhóm để canh gác ở mỗi cổng theo như Đa-vít, người của Thượng Đế đã truyền dặn. 15 Họ vâng theo các mệnh lệnh của Sô-lô-môn truyền cho các thầy tế lễ và người Lê-vi cùng những mệnh lệnh liên quan đến kho ngân khố.

16 Tất cả các công tác của Sô-lô-môn đều hoàn tất y như lời ông đã nói từ ngày khởi công đặt nền cho đền thờ cho đến khi hoàn thành. Vậy đền thờ được xây cất xong.

17 Rồi Sô-lô-môn đi đến các thị trấn Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lát gần Hồng hải trong xứ Ê-đôm. 18 Hi-ram [b] phái các thuyền bè do người của mình là những thủy thủ chuyên nghiệp điều khiển đến Sô-lô-môn. Những người của Hi-ram đi cùng với người của Sô-lô-môn đến Ô-phia [c] mang về khoảng mười sáu tấn [d] vàng cho vua Sô-lô-môn.

Footnotes

  1. II Sử Ký 8:2 Hi-ram Hay “Hu-ram.”
  2. II Sử Ký 8:18 Hi-ram Hay “Hu-ram.”
  3. II Sử Ký 8:18 Ô-phia Nơi có rất nhiều vàng. Ngày nay không ai biết Ô-phia là nơi nào. Xem 9:10.
  4. II Sử Ký 8:18 mười sáu tấn Nguyên văn, “450 ta-lâng” (khoảng 15.500 kí-lô).

Nữ hoàng Sê-ba viếng Sô-lô-môn

10 Khi nữ hoàng nước Sê-ba nghe danh tiếng vua Sô-lô-môn thì bà đến thăm và thử vua nhiều câu đố. Bà đi đến Giê-ru-sa-lem cùng với một đoàn tôi tớ và lạc đà rất đông mang theo hương liệu, ngọc ngà và rất nhiều vàng. Khi đến gặp vua Sô-lô-môn, bà nói với vua những gì bà suy nghĩ, còn vua Sô-lô-môn trả lời mọi câu hỏi của bà. Không có vấn đề gì quá khó mà vua không giải nghĩa được. Nữ hoàng Sê-ba nghe rằng vua Sô-lô-môn rất khôn ngoan. Bà nhìn thấy cung điện vua đã xây, thức ăn trên bàn, các sĩ quan, các tôi tớ trong cung cùng y phục tốt đẹp của họ. Bà cũng thấy các đầy tớ phục vụ các đại tiệc và các của lễ toàn thiêu vua dâng trong đền thờ của CHÚA, tất cả khiến bà vô cùng kinh ngạc.

Bà bảo vua Sô-lô-môn, “Những điều tôi nghe trong xứ tôi về kỳ công và sự khôn ngoan của ngài thì đúng. Lúc ấy tôi không tin nhưng giờ đây khi mắt tôi đã thấy thì những điều người ta nói về ngài chưa đến phân nửa! Sự khôn ngoan và giàu có của ngài lớn hơn điều tôi nghe rất nhiều. Các người làm việc [a] và các quần thần của ngài thật may mắn vì khi phục vụ ngài, họ còn có thể nghe được sự khôn ngoan của ngài. Đáng chúc tụng CHÚA là Thượng Đế của ngài đã vui lòng đặt ngài cai trị nước Ít-ra-en. CHÚA luôn luôn yêu thương Ít-ra-en cho nên cử ngài làm hoàng đế để duy trì công lý và trị vì công bằng.”

10 Rồi bà biếu vua khoảng bốn tấn [b] vàng, vô số hương liệu và ngọc ngà. Từ đó về sau không có ai mang đến nhiều hương liệu bằng số lượng nữ hoàng Sê-ba biếu Sô-lô-môn.

11 Các tàu bè của Hi-ram cũng mang vàng về từ Ô-phia cùng gỗ lim và ngọc ngà. 12 Vua Sô-lô-môn dùng gỗ lim xây các lan can cho đền thờ của CHÚA và cung điện, làm các đờn cầm, đờn tranh cho nhạc sĩ. Từ đó đến nay [c] không thấy ai mang loại gỗ lim tốt như thế.

13 Vua Sô-lô-môn cấp cho nữ hoàng Sê-ba tất cả những gì bà thích và yêu cầu, ngoài những thứ vua tặng bà từ của cải giàu sang của mình. Rồi bà cùng các đầy tớ lên đường trở về xứ.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Các Vua 10:8 người làm việc Đây là theo bản Hê-bơ-rơ. Bản cổ Hi-lạp ghi “người vợ.”
  2. I Các Vua 10:10 bốn tấn Nguyên văn, “120 ta-lâng” (khoảng 4.100 kí-lô).
  3. I Các Vua 10:12 Từ đó đến nay Tức là đến khi sách Các Vua được viết.

Sự giàu sang của Sô-lô-môn

14 Mỗi năm vua Sô-lô-môn nhận được khoảng hai mươi ba tấn [a] vàng. 15 Ngoài ra, vua cũng nhận vàng từ các lái buôn cùng các vua xứ Á-rập và các thống đốc của xứ.

16 Vua Sô-lô-môn làm hai trăm tấm khiên bằng vàng giát mỏng, mỗi tấm chứa khoảng bảy kí [b] vàng. 17 Vua cũng làm ba trăm cái khiên nhỏ hơn bằng vàng giát mỏng, mỗi cái chứa khoảng bốn cân [c] vàng. Vua đặt các khiên đó trong Cung điện Rừng Li-băng [d].

18 Vua cũng đóng một ngôi lớn bằng ngà voi bọc vàng. 19 Ngôi có sáu nấc thang đi lên và phần trên của lưng ngai thì tròn. Ngôi cũng có chỗ tựa tay hai bên, và mỗi chỗ tựa tay có khắc hình một con sư tử bên cạnh. 20 Có mười hai con sư tử trên sáu nấc thang, mỗi một đầu nấc có một con sư tử. Trước đây chưa hề có nước nào làm ngôi như vậy cả.

21 Tất cả các ly cốc dùng để uống của vua Sô-lô-môn cùng các dĩa [e] dùng trong cung điện trong Rừng Li-băng đều làm bằng vàng ròng. Không có gì làm bằng bạc cả vì bạc không có giá trị gì dưới thời Sô-lô-môn.

22 Vua Sô-lô-môn cũng có nhiều tàu buôn [f] đi biển cùng với các tàu của Hi-ram. Mỗi ba năm các tàu bè đó đi về mang vàng, bạc, ngà voi, con khỉ, và con công.

23 Vua Sô-lô-môn giàu có và khôn ngoan hơn tất cả các vua trên đất. 24 Dân chúng khắp nơi đều muốn đến gặp vua Sô-lô-môn để nghe sự khôn ngoan mà Thượng Đế ban cho vua. 25 Mỗi năm những người đến thăm mang biếu bạc, vàng, áo quần, vũ khí, hương liệu, ngựa, và la.

26 Sô-lô-môn có một ngàn bốn trăm quân xa và mười hai ngàn ngựa. Ông giữ một số trong các thành đặc biệt dành cho các quân xa, còn số khác ông giữ tại Giê-ru-sa-lem. 27 Ở Giê-ru-sa-lem vua Sô-lô-môn làm cho bạc trở thành tầm thường như sỏi đá và cây hương nam cũng thường như cây sung mọc nơi đồng bằng. 28 Vua mua ngựa từ xứ Ai-cập và Kiêu. Các lái buôn của vua mang ngựa từ Kiêu về. 29 Mỗi quân xa mua từ Ai-cập giá khoảng mười lăm cân bạc, còn ngựa thì khoảng bốn cân [g] bạc. Các con buôn của Sô-lô-môn cũng bán ngựa và quân xa cho các vua Hê-tít và A-ram.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Các Vua 10:14 hai mươi ba tấn Nguyên văn, “666 ta-lâng” (khoảng 22.977 kí-lô).
  2. I Các Vua 10:16 bảy kí Nguyên văn, “600 sê-ken” (khoảng 6,9 kí-lô).
  3. I Các Vua 10:17 bốn cân Nguyên văn Hê-bơ-rơ, “3 mi-na” (khoảng 2 kí-lô).
  4. I Các Vua 10:17 Cung điện Rừng Li-băng Đây là cung điện lớn nhất của Sô-lô-môn. Xem I Vua 7:2-5.
  5. I Các Vua 10:21 dĩa Danh từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ có thể là “dĩa,” “vật dụng,” hay “vũ khí.”
  6. I Các Vua 10:22 tàu buôn Nguyên văn, “tàu đi Ta-rê-si,” hay “tàu chở hàng.”
  7. I Các Vua 10:29 khoảng bốn cân Nguyên văn, “150 sê-ken” (khoảng 1,72 kí-lô).

Lời cầu nguyện cho vua

Bài ca tặng Sô-lô-môn [a].

72 Lạy Chúa, xin ban sự công minh cho vua
    và ban sự nhân từ Ngài
    cho hoàng tử.
Xin giúp vua biết phân xử dân chúng
    một cách công bằng
    và bênh vực kẻ nghèo khó.
Nguyện các núi mang lại hoà bình
    và các đồi mang lại nhân từ.
Xin giúp vua đối xử công bằng cho kẻ nghèo,
    cứu người túng thiếu
    và trừng phạt kẻ hiếp đáp.
Hễ mặt trời còn chiếu sáng và mặt trăng còn soi bóng bao lâu,
    nguyện họ biết kính sợ Chúa bấy lâu.
Nguyện vua như mưa rơi xuống cỏ,
    như mưa rào tưới đất.
Nguyện sự nhân từ được dồi dào
    trong đời vua.
Nguyện sự hoà bình còn mãi như mặt trăng.
Nguyện nước vua trải rộng từ biển nầy đến biển kia,
    và từ sông Ơ-phơ-rát cho đến tận cùng trái đất [b].
Nguyện dân cư sống trong sa mạc cúi đầu trước Ngài
    và các kẻ thù Ngài phải liếm bụi đất.
10 Nguyện các vua Tạt-si và các vùng đất xa xăm
    hãy mang tặng vật đến cho vua.
Các vua Sa-ba và Sê-ba
    hãy mang của lễ đến cho Ngài.
11 Nguyện các vua cúi đầu trước Ngài,
    và các dân tộc phục vụ Ngài.
12 Ngài sẽ giúp kẻ nghèo khổ khi họ kêu cầu
    và cứu kẻ túng thiếu không ai giúp đỡ.
13 Ngài sẽ tỏ lòng nhân ái đối với kẻ yếu đuối nghèo nàn,
    cứu vớt mạng sống họ.
14 Ngài sẽ cứu họ khỏi tay kẻ hung bạo đang tìm cách ức hiếp họ
    vì mạng sống họ là quí trước mặt vua.
15 Vua vạn tuế!
    Cầu cho vua nhận được vàng từ Sê-ba.
Mọi người hãy cầu nguyện cho vua,
    hằng ngày chúc phước cho vua.
16 Nguyện ruộng đất sinh sản đầy ngũ cốc,
    các đồi đầy hoa màu,
    và phì nhiêu như Li-băng,
    các thành trì mọc lên như cỏ trong đồng nội.
17 Nguyện vua được uy danh mãi mãi;
    hễ mặt trời còn chiếu sáng bao lâu,
    nguyện vua được ghi nhớ bấy lâu.
    Nguyện các dân được phước vì vua,
muôn dân chúc phước cho người.

18 Chúc tụng Chúa là Thượng Đế, Thượng Đế của Ít-ra-en
    là Đấng duy nhất làm được các phép lạ đó.
19 Nguyện danh vinh hiển Ngài được ca ngợi mãi mãi.
    Nguyện vinh hiển Ngài đầy dẫy đất.
    A-men! A-men!

20 (Đến đây chấm dứt các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Gie-xê.)

Footnotes

  1. Thánh Thi 72:1 Thi thiên 72 tặng Sô-lô-môn Thi thiên nầy có thể nghĩa là do Sô-lô-môn sáng tác, hoặc được soạn và tặng cho Sô-lô-môn, hoặc có thể là một bài trong những tuyển tập thi thiên ca ngợi.
  2. Thánh Thi 72:8 đến tận cùng trái đất Khi nói như thế nầy thường ám chỉ các quốc gia quanh Địa-trung-hải.