Añadir traducción en paralelo Imprimir Opciones de la página

Sa-lô-môn Xây Cung Ðiện

Sa-lô-môn cũng xây cất cung điện cho ông. Ông hoàn tất công trình xây cất đó trong mười ba năm.

Ông xây Cung Ðiện Rừng Li-băng. Cung điện ấy dài năm mươi mét, rộng hai mươi lăm mét, và cao mười lăm mét.[a] Cung điện được xây trên bốn hàng cột gỗ bá hương; gỗ bá hương cũng được dùng làm đà đặt trên các hàng cột gỗ bá hương. Trần cung điện được lát bằng gỗ bá hương, do bốn mươi lăm cây đà nâng đỡ, mười lăm cây mỗi dãy, các đà ấy đều gác đầu trên cột. Có ba dãy cửa sổ, các cửa sổ đối diện nhau, và cứ mỗi ba cửa sổ thành một bộ. Gỗ của tất cả các cửa và khung cửa đều có bốn cạnh, đối diện với nhau, và cứ ba cửa thành một bộ.

Ông cũng xây một sảnh đường bằng cột, sảnh đường ấy dài hai mươi lăm mét, rộng mười lăm mét.[b] Phía trước sảnh đường là một vòm mặt tiền với một hàng cột và một mái hiên.

Ông cũng xây một triều cung để đặt ngai vàng, nơi ông xét đoán; đó là Cung Công Lý. Cung ấy được lát bằng gỗ bá hương từ sàn cho đến trần.

Còn cung thất, nơi ông ở, nằm phía sau triều cung, cũng có lối kiến trúc như thế. Sa-lô-môn cũng xây một cung tương tự cho con gái của Pha-ra-ôn mà ông đã cưới làm vợ.

Tất cả các cung điện ấy đều được xây bằng đá quý – các đá ấy được đục đẽo cắt xén theo kích thước đã định sẵn – cả phía trước lẫn phía sau, từ nền cho đến trần, từ bên ngoài cho đến đại sảnh. 10 Nền các cung điện làm bằng những phiến đá quý và lớn, mỗi phiến rộng bốn mét và dài năm mét.[c] 11 Xây trên nền là các phiến đá thượng hạng đã cắt sẵn theo kích thước, và gỗ bá hương. 12 Chung quanh đại sảnh là ba hàng đá và một hàng đà bằng gỗ bá hương, giống như nội điện của Ðền Thờ Chúa và tiền đình của Ðền Thờ.

Hi-ram Người Thợ Ðồng

13 Vua Sa-lô-môn sai người mời Hi-ram ở Ty-rơ về. 14 Ông là con một góa phụ thuộc chi tộc Náp-ta-li, cha ông là người Ty-rơ, một chuyên viên làm đồ đồng. Hi-ram là một người có tài khéo, kinh nghiệm, và có kiến thức về nghệ thuật và kỹ thuật làm đồ đồng. Ông đến với Vua Sa-lô-môn và làm mọi việc vua giao cho ông.

Trụ Ðồng của Ðền Thờ

(2 Sử 3:15-17)

15 Hi-ram đúc hai trụ đồng, mỗi trụ cao chín mét;[d] chu vi mỗi trụ là sáu mét[e] nếu lấy dây mà đo. 16 Ông cũng đúc hai đầu trụ bằng đồng để đặt trên đầu hai trụ. Chiều cao của đầu trụ nầy là hai mét rưỡi,[f] chiều cao của đầu trụ kia cũng hai mét rưỡi. 17 Ông cũng làm một lưới bằng đồng gắn trên đầu mỗi trụ; lưới ấy do các dây chuyền đồng kết lại; các dây chuyền ấy được đúc theo hình các đóa hoa. Có bảy dây chuyền cho đầu trụ nầy và bảy dây chuyền cho đầu trụ kia. 18 Hi-ram cũng đúc hai hàng trái lựu bằng đồng, gắn bên ngoài lưới bằng đồng, ở trên đầu trụ, để tô điểm cho đầu trụ được đẹp đẽ. Ông làm như vậy cho mỗi đầu trụ. 19 Các đầu trụ đặt trên các trụ dựng nơi tiền đình đều được đúc theo hình hoa huệ; các hình ấy cao hai mét.[g] 20 Ở ngoài mặt, trên chóp mỗi đầu trụ, gần lưới đồng, ông cho đúc một hàng hai trăm trái lựu, gắn quanh đầu trụ. 21 Ðoạn ông dựng hai trụ ấy nơi tiền đình của Ðền Thờ. Ông dựng một trụ bên phải và đặt tên là Gia-kin;[h] ông dựng một trụ bên trái và đặt tên là Bô-a.[i] 22 Mỗi đầu trụ đặt trên chóp trụ đều có hình hoa huệ. Vậy công việc làm hai trụ đồng được hoàn tất.

Bể Nước Bằng Ðồng

(2 Sử 4:2-5)

23 Hi-ram cũng đúc một bể nước tròn, bằng đồng, đường kính của miệng bể là năm mét; bể nước nầy cao hai mét rưỡi, với chu vi mười lăm mét[j] nếu lấy dây mà đo. 24 Ông cũng cho đúc hai hàng hình trái bầu quanh miệng bể, cứ nửa mét[k] mười trái. Ông cho đúc như thế cùng một lượt khi đúc bể. 25 Bể nước bằng đồng nầy được đặt trên lưng mười hai con bò đúc, đứng quay đuôi vào nhau. Ba con quay mặt về hướng bắc, ba con quay mặt về hướng tây, ba con quay mặt về hướng nam, và ba con quay mặt về hướng đông. 26 Thành bể dày bằng bề ngang của bàn tay, và miệng bể giống như miệng chén hình hoa huệ. Bể ấy chứa được bốn mươi bốn ngàn lít nước.[l]

Xe Ðồng và Bồn Nước

27 Hi-ram cũng làm mười chiếc xe bằng đồng, mỗi xe có chiều ngang hai mét, chiều dọc hai mét, và chiều cao một mét rưỡi.[m] 28 Kiểu của mỗi xe như sau: mỗi xe đều có các tấm đồng gắn vào khung. 29 Trên mỗi tấm đồng gắn vào khung có chạm hình các sư tử, các bò đực, và các chê-ru-bim. Phía trên và phía dưới các hình của các sư tử và các bò đực được chạm hình các dây hoa. 30 Mỗi xe có bốn bánh bằng đồng và các trục bằng đồng. Ở bốn góc xe lại có bốn cái trụ để chịu sức nặng của sàn xe. Bốn trụ ấy được đúc liền với khung xe và ngoài mặt các trụ ấy có chạm hình các dây hoa. 31 Trên mặt sàn xe là một khung tròn để làm đế cho bồn nước, khung nầy cao hơn mặt sàn xe nửa mét và lõm xuống bảy tấc rưỡi.[n] Mặt của thành khung được chạm khắc mỹ thuật. Mặt ấy được làm bằng những tấm đồng vuông, chứ không tròn. 32 Dưới các tấm đồng của thân xe là bốn bánh và các trục bánh xe. Mỗi bánh xe cao bảy tấc rưỡi.[o] 33 Các bánh xe ấy cũng được làm giống như các bánh xe của xe chiến mã. Cây trục, vành, căm, và bộ trục đều được đúc. 34 Ở bốn góc xe, dưới bốn trụ là bốn cái đế được đúc liền với xe. 35 Trên mặt sàn xe cũng có một niền tròn, cao hai tấc rưỡi.[p] Thành của niền và chân của nó được đúc liền với sàn xe. 36 Trên các mặt vuông của khung tròn và trên mặt các tấm đồng ở thân xe ông chạm hình các chê-ru-bim, các sư tử, và các cây chà là. Nơi nào còn trống, ông chạm các dây hoa vòng quanh nơi đó.

37 Ông làm mười chiếc xe như thế. Tất cả đều được đúc cùng một khuôn, một kích thước, và một kiểu.

38 Sau đó ông làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được tám trăm tám mươi lít.[q] Mỗi bồn như thế cao hai mét.[r] Rồi ông cho đặt chúng trên mười chiếc xe ấy; mỗi xe một bồn nước.

39 Ông đặt năm xe ở phía nam của Ðền Thờ và năm xe ở phía bắc của Ðền Thờ. Ông cũng cho đặt bể nước bằng đồng ở góc đông nam của Ðền Thờ.

Vật Dụng trong Ðền Thờ

(2 Sử 4:11-5:1)

40 Hi-ram cũng làm các nồi, vá, và chậu. Vậy Hi-ram hoàn tất mọi công tác Vua Sa-lô-môn giao ông làm cho nhà Chúa, gồm: 41 hai trụ đồng, hai đầu trụ đặt trên hai trụ đồng, các lưới bằng đồng gắn trên các đầu trụ, 42 bốn trăm trái lựu bằng đồng, gắn thành hai hàng, mỗi hàng một trăm trái, quanh mỗi đầu trụ, 43 mười chiếc xe, mười bồn nước để trên các xe, 44 một bể nước, và mười hai con bò đỡ bên dưới bể nước, 45 các nồi, vá, và chậu.

Tất cả các vật ấy Hi-ram làm cho nhà Chúa do Vua Sa-lô-môn giao phó đều được làm bằng đồng đánh bóng. 46 Vua cho làm những vật ấy tại một nơi có nhiều đất sét trong đồng bằng Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xa-rê-than. 47 Sa-lô-môn không cho cân các khí dụng ấy, vì chúng quá nhiều, và số lượng đồng không thể tính nổi.

48 Sa-lô-môn cũng làm các vật dụng cho nhà Chúa gồm: bàn thờ dâng hương bằng vàng, bàn dâng Bánh Hằng Hiến bằng vàng, 49 các cây đèn bằng vàng ròng, năm cái bên phải và năm cái bên trái,[s] đặt phía trước Nơi Chí Thánh. Vua cũng cho làm các hoa, các đèn, và các kẹp gắp đều bằng vàng. 50 Các chén, các kéo cắt tim đèn, các chậu, các khay đựng tro, và các khay đựng than đều bằng vàng ròng. Các bộ bản lề các cửa vào bên trong của Ðền Thờ, tức vào Nơi Chí Thánh, và các cửa của Nơi Thánh đều làm bằng vàng cả.

51 Vậy Vua Sa-lô-môn hoàn tất mọi công trình ông muốn làm cho nhà Chúa. Sa-lô-môn đem vào Ðền Thờ những vật mà Ða-vít cha ông đã dâng hiến, gồm bạc, vàng, và các vật dụng. Ông để các vật ấy trong các kho của nhà Chúa.

Read full chapter

Notas al pie

  1. I Các Vua 7:2 dài 100 cubits, rộng 50 cubits, cao 30 cubits
  2. I Các Vua 7:6 nt: dài 50 cubits, rộng 30 cubits
  3. I Các Vua 7:10 nt: rộng 8 cubits, dài 10 cubits
  4. I Các Vua 7:15 nt: 18 cubits
  5. I Các Vua 7:15 nt: 12 cubits
  6. I Các Vua 7:16 nt: 5 cubits và 5 cubits
  7. I Các Vua 7:19 nt: 4 cubits
  8. I Các Vua 7:21 Gia-kin nghĩa là Chúa lập cho vững chắc
  9. I Các Vua 7:21 Bô-a nghĩa là Chúa là sức mạnh
  10. I Các Vua 7:23 nt: đường kính 10 cubits, cao 5 cubits, và chu vi 30 cubits
  11. I Các Vua 7:24 nt: 1 cubit
  12. I Các Vua 7:26 nt: 2000 baths (2 Sử 4: 5 ghi 3000 baths)
  13. I Các Vua 7:27 nt: ngang 4 cubits, dọc 4 cubits, cao 3 cubits
  14. I Các Vua 7:31 nt: 1 cubit và 1,5 cubit
  15. I Các Vua 7:32 nt: 1,5 cubit
  16. I Các Vua 7:35 nt: nửa cubit
  17. I Các Vua 7:38 nt: 40 baths
  18. I Các Vua 7:38 nt: 4 cubits
  19. I Các Vua 7:49 ctd: năm cái phía nam và năm cái phía bắc

Cung điện Sô-lô-môn

Vua Sô-lô-môn cũng xây một cung điện cho mình; mất mười ba năm mới xong. Cung điện được xây bằng gỗ hương nam, gọi là Rừng Li-băng, cung điện dài năm mươi thước [a], rộng hai mươi lăm thước [b], và cao mười lăm thước [c]. Có bốn hàng cột đỡ các cây đà bằng gỗ hương nam. Có bốn mươi lăm cây đà đỡ mái nhà, mỗi hàng có mười lăm cây đà, và trần phía trên các cây đà được bọc bằng gỗ hương nam. Các cửa sổ được đặt theo ba hàng đối diện nhau. Các cửa đều hình vuông, và có ba cửa ở mỗi đầu đối diện nhau.

Sô-lô-môn cũng xây mái vòm có cột chống. Vòm nầy dài hai mươi lăm thước, rộng mười lăm thước. Dọc theo vòm là một mái có các trụ đỡ.

Sô-lô-môn cũng xây một phòng để ngai vàng, nơi ông ngồi xét xử dân chúng gọi là Điện Công Lý. Phòng nầy bọc bằng gỗ hương nam từ sàn cho tới trần.

Cung điện nơi Sô-lô-môn ở được xây như Điện Công Lý, và nằm ngay sau điện ấy. Sô-lô-môn cũng xây một cung điện như thế cho vợ mình, tức công chúa, con vua Ai-cập.

Các dinh thự nầy làm bằng các khối đá đẽo tốt. Trước hết các tảng đá được đục cẩn thận rồi mặt trước và mặt sau được xén gọn bằng cưa. Các tảng đá tốt nầy chạy từ nền dinh thự cho đến đỉnh của các vách. Sân cung điện cũng làm bằng các khối đá. 10 Các nền được làm bằng các khối đá đẽo tốt, có khối dài đến mười lăm bộ. Các khối đá khác dài mười hai bộ. 11 Bên trên các khối đá làm nền là các khối đá tốt khác và các cây đà hương nam. 12 Sân cung vua, sân bên trong đền thờ, và vòm của đền thờ đều có vách bao quanh. Tất cả các vách nầy có ba hàng đá khối, và một hàng cây đà bằng gỗ hương nam.

13 Vua Sô-lô-môn sai người đến thành Tia mang Hu-ram [d] về. 14 Mẹ của Hu-ram thuộc chi tộc Nép-ta-li, góa chồng. Cha Hu-ram là người gốc thành Tia và rất giỏi về nghề làm đồ đồng. Hu-ram cũng rất giỏi và giàu kinh nghiệm làm đồ đồng. Nên ông đến làm đồ đồng cho vua Sô-lô-môn.

15 Ông làm hai cây cột đồng, mỗi cột cao chín thước, chu vi sáu thước. Các cột đều rỗng ruột, chiều dầy của vách cột khoảng bảy phân tây [e]. 16 Ông cũng làm hai đầu cột cao hai thước rưỡi [f] và đặt lên trên đỉnh các cột. 17 Rồi ông cũng làm một cái lưới gồm bảy dây xích cho mỗi đầu cột, lưới đó bao quanh đỉnh của các đầu cột. 18 Ông làm hai hàng trái lựu bằng đồng gắn vào lưới. Các trái lựu đó bao quanh đầu cột. 19 Các phần đầu cột nơi vòm cửa được làm theo hình hoa huệ, cao hai thước. 20 Các đầu cột nằm trên chóp hai cột, phía trên phần hình chậu kế cận các lưới. Có hai trăm trái lựu kết theo hàng quanh đầu cột. 21 Hu-ram đặt hai cột đồng nầy nơi vòm cửa của đền thờ. Ông gọi cột phía nam là Đấng Thiết Lập và cột phía bắc là Sức Mạnh ở trong Ngài. 22 Trên mỗi đầu cột đều đúc theo hình hoa huệ. Như thế công tác xây cột hoàn tất.

23 Rồi Hu-ram làm một cái chậu lớn hình tròn bằng đồng, gọi là cái Biển [g]. Chu vi biển là mười lăm thước, ngang năm thước, sâu hai thước rưỡi. 24 Quanh mép ngoài cái chậu là cái viền. Dưới cái viền nầy là hai hàng cây bằng đồng tạc quanh chậu. Mỗi nửa thước có mười cây, các cây được đúc thành một khối liền với chậu. 25 Cái chậu được đặt trên lưng mười hai con bò đực bằng đồng, mặt xoay ra ngoài. Ba con quay mặt về phía bắc, ba con quay mặt về phía tây, ba con quay mặt về phía nam, và ba con quay mặt về phía đông. 26 Bề dầy của chậu khoảng một tấc, chứa được khoảng hai ngàn bát [h] nước. Viền của chậu giống như viền của ly hay đóa hoa sen.

27 Sau đó Hu-ram làm mười cái giá bằng đồng, mỗi cái dài sáu bộ, rộng sáu bộ, và cao bốn bộ rưỡi. 28 Các giá có hình vuông, đặt trên khung. 29 Trên mỗi cạnh có tạc hình sư tử, bò đực và thú có cánh. Trên các khung, phía trên và phía dưới các con sư tử và con bò là các hình bông hoa giát vào đồng. 30 Mỗi giá có bốn bánh xe bằng đồng và trục ngang cũng bằng đồng. Ở các góc có các cây chống bằng đồng để đỡ cái chậu lớn, trên các cây chống cũng có chạm trổ hình bông hoa. 31 Trên các chậu có cái khung, cao hơn chậu nửa thước. Miệng chậu hình tròn, sâu bảy tấc rưỡi. Có các kiểu chạm hoa vào khung đồng quanh miệng hình vuông, không phải hình tròn. 32 Bốn bánh xe đặt dưới khung cao bảy tấc rưỡi. Các trục giữa các bánh xe cũng được làm thành một miếng cùng với cái giá. 33 Các bánh xe giống như các bánh quân xa. Vật gì cũng đặt trên bánh xe trục, niền, căm, và ổ trục và đều làm bằng đồng.

34 Bốn cây chống được đặt ở bốn góc xe đẩy. Chúng được chế thành một khối chung với xe đẩy. 35 Một đường viền đồng bọc quanh mỗi xe đẩy sâu hai tấc rưỡi. Nó cũng được chế thành một khối chung với xe đẩy. 36 Các cạnh của xe đẩy và khung đều có chạm hình các con thú có cánh, hình sư tử, cây chà là, và bông hoa. 37 Hu-ram làm mười xe đẩy giống nhau. Đồng để làm xe đẩy được nấu chảy và đổ vào một khuôn nên tất cả các xe đều cùng một cỡ và một dạng.

38 Hu-ram cũng chế mười chậu đồng, mỗi xe đẩy có một chậu. Mỗi chậu rộng hai thước và có thể chứa được khoảng tám mươi thùng [i]. 39 Hu-ram đặt năm xe đẩy về phía nam của đền thờ và năm xe đẩy về phía bắc. Ông đặt cái biển lớn về góc Đông Nam của đền thờ. 40 Hu-ram cũng làm các chậu, giá múc, và chén bát. Vậy Hu-ram thực hiện xong công tác trong đền thờ của CHÚA cho vua Sô-lô-môn: 41 hai cây trụ mang hình cái chậu; hai mạng lưới để che phần trên đầu trụ; 42 bốn trăm trái lựu cho hai mạng lưới, mỗi mạng lưới trên chóp cột được phủ bằng hai hàng trái lựu; 43 mười giá, trên mỗi giá có một chậu; 44 một bể lớn đặt trên mười hai con bò; 45 các nồi, xẻng, chén bát, và tất cả vật dụng dùng cho đền thờ của CHÚA. Tất cả những gì vua Sô-lô-môn muốn, Hu-ram đều làm bằng đồng đánh bóng.

46 Vua cũng cho đúc khuôn tất cả các vật dụng đó ở thung lũng sông Giô-đanh giữa Xu-cốt và Xa-rê-than. 47 Sô-lô-môn không cân số lượng đồng dùng để làm các thứ đó, vì quá nhiều nên không ai biết tổng số lượng đồng là bao nhiêu.

48 Sô-lô-môn cũng làm tất cả các đồ dùng cho đền thờ của CHÚA: bàn thờ bằng vàng, cái bàn bọc vàng để chưng bày bánh hiện diện; 49 các chân đèn bằng vàng ròng đặt trong Nơi Chí Thánh, bên phải năm cái, bên trái năm cái; các bông hoa, đèn, các kẹp gắp bằng vàng; 50 các chậu bằng vàng ròng, kéo hớt tim đèn, chén bát, chậu đựng, và dĩa dùng đựng than; các bản lề vàng cho các cửa của Nơi Chí Thánh và phòng chính của đền thờ.

51 Sau cùng công tác vua Sô-lô-môn thực hiện cho đền thờ của CHÚA hoàn tất. Sô-lô-môn mang tất cả những thứ Đa-vít, cha mình đã biệt riêng ra cho đền thờ: bạc, vàng, và các món khác. Vua để mọi thứ vào trong kho ngân khố của đền thờ CHÚA.

Read full chapter

Notas al pie

  1. I Các Vua 7:2 năm mươi thước Nguyên văn, “100 cu-bít” (khoảng 51,80 thước).
  2. I Các Vua 7:2 hai mươi lăm thước Nguyên văn, “50 cu-bít” (khoảng 25,92 thước).
  3. I Các Vua 7:2 mười lăm thước Nguyên văn, “30 cu-bít” (khoảng 15,50 thước).
  4. I Các Vua 7:13 Hu-ram Hay “Hi-ram.” Xem thêm các câu 15, 23, 27, 37, 38, 40-45.
  5. I Các Vua 7:15 bảy phân tây Nguyên văn, “1 gang tay” (khoảng 7,5 phân).
  6. I Các Vua 7:16 hai thước rưỡi Nguyên văn, “5 cu-bít” (khoảng 2,6 thước).
  7. I Các Vua 7:23 cái Biển Một thùng rất lớn để đựng nước.
  8. I Các Vua 7:26 bát Là đơn vị đo lường chất lỏng của Do-thái. Mỗi bát khoảng 22 lít. Hai ngàn bát tương đương với khoảng 44.000 lít.
  9. I Các Vua 7:38 tám mươi thùng Nguyên văn, “40 bát” (khoảng 880 lít).

Các Vật Dụng trong Ðền Thờ

Ông làm một bàn thờ bằng đồng, chiều dọc mười mét, chiều ngang mười mét, và chiều cao năm mét.[a]

Ông đúc một bể nước tròn bằng đồng, đường kính của miệng bể năm mét, bể cao hai mét rưỡi, chu vi mười lăm mét[b] nếu đo bằng thước dây. Bên dưới gờ quanh miệng bể là hai hàng hình các con bò đúc nổi trên thân bể. Chúng được đúc cùng một lượt với bể, cứ khoảng nửa mét mười con. Bể được đặt trên lưng mười hai con bò. Ba con quay về hướng bắc, ba con quay về hướng tây, ba con quay về hướng nam, và ba con quay về hướng đông. Bể đồng ấy được đặt trên lưng mười hai con bò đúc, thân sau của chúng đều quay vào trong. Thành bể dày bằng bề ngang của bàn tay. Miệng bể được đúc như miệng chén hình hoa huệ. Bể ấy có thể chứa đến sáu mươi sáu ngàn lít[c] nước.

Ông cũng làm mười cái bồn nước để rửa. Ông đặt năm cái bên phải và năm cái bên trái. Người ta dùng các bồn nước ấy để rửa các của lễ sẽ đem thiêu. Còn cái bể đồng thì chỉ để cho các tư tế dùng.

Ông làm mười cây đèn bằng vàng như đã chỉ bảo, rồi đặt chúng trong Ðền Thờ, năm cái ở phía nam và năm cái ở phía bắc.

Ông làm mười cái bàn và đặt chúng trong Ðền Thờ, năm cái bên phải và năm cái bên trái. Ông làm một trăm cái chậu bằng vàng.

Ông xây một sân dành cho các tư tế, và một sân lớn, cùng làm các cửa cho sân. Ông dát đồng các cửa ấy. 10 Ông đặt bể nước ở góc đông nam của Ðền Thờ.

11 Hu-ram làm các nồi, các xẻng, và các bình rảy. Vậy Hu-ram hoàn tất công tác chế tạo các vật dụng cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời theo như Vua Sa-lô-môn đã chỉ thị: 12 hai cây trụ, hai bầu trên đầu hai trụ, hai bộ lưới trang trí quanh bầu trên đầu hai trụ, 13 bốn trăm trái lựu gắn vào hai bộ lưới. Mỗi bộ lưới được gắn hai hàng trái lựu, để trang trí hai bầu trên đầu hai trụ. 14 Ông làm mười chiếc xe và các bồn nước đặt trên các xe ấy, 15 một cái bể và mười hai con bò đỡ bên dưới bể ấy, 16 các nồi, các xẻng, các chĩa thịt, và các dụng cụ liên hệ. Hu-ram A-bi chế tạo tất cả các vật dụng đó cho Ðền Thờ bằng đồng đánh bóng, theo như chỉ thị của Sa-lô-môn. 17 Vua cho dùng đất sét làm khuôn để đúc chúng trong Ðồng Bằng Giô-đanh, giữa Súc-cốt và Xê-rê-đa. 18 Vua Sa-lô-môn cho làm rất nhiều các món ấy, và số lượng đồng dùng để chế tạo chúng rất nhiều, không sao cân xuể. 19 Sa-lô-môn làm tất cả các đồ vật trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời: bàn thờ bằng vàng, các bàn để các Bánh Hằng Hiến, 20 các cây đèn và các ngọn đèn đều bằng vàng ròng, để thắp sáng phía trước Nơi Chí Thánh như đã quy định. 21 Các hoa, các đèn, và các kẹp gắp đều bằng vàng ròng; 22 các kéo cắt tim đèn, các chậu, các bát dâng hương, và các khay than đều bằng vàng ròng. Về các lối ra vô trong Ðền Thờ, tức các cửa bên trong để ra vào Nơi Chí Thánh và các cửa ra vào Nơi Thánh đều được dát vàng.

Notas al pie

  1. II Sử Ký 4:1 nt: dọc 20 cubits, ngang 20 cubits, và cao 10 cubits
  2. II Sử Ký 4:2 nt: đường kính 10 cubits, cao 5 cubits, chu vi 30 cubits
  3. II Sử Ký 4:5 nt: 3.000 baths (1 Vua 7:26 ghi 2.000 baths)

Những vật dụng trong đền thờ

Ông xây một bàn thờ bằng đồng dài mười thước [a], rộng mười thước, và cao năm thước [b]. Rồi ông đúc một cái chậu bằng đồng lớn hình tròn gọi là Cái Biển. Chu vi chậu đó là mười lăm thước đường kính, cao ba thước và sâu hai thước. Quanh viền của chậu có chạm hình các con bò đực, mỗi năm tấc có 10 con bò. Các con bò làm thành hai dãy và gắn liền thành một khối với cái chậu. Cái chậu đặt trên lưng 12 con bò bằng đồng hướng mặt ra ngoài từ trung tâm chậu. Ba con hướng về phía Bắc, ba con hướng phía Tây, ba con hướng phía Nam, và ba con hướng phía Đông. Vách của chậu dầy một gang tay [c] và chứa khoảng 66.000 lít [d]. Viền của chậu giống như viền của chén hay giống như nụ hoa sen.

Ông làm 10 chậu nhỏ hơn và đặt năm chậu về phía Nam, năm chậu về phía Bắc. Các chậu đó để rửa các con thú dùng trong của lễ thiêu, nhưng chậu lớn dùng cho các thầy tế lễ tắm rửa.

Vua làm 10 chân đèn bằng vàng theo đồ án. Ông đặt các chân đèn đó trong đền thờ, năm cái về phía Nam, và năm cái về phía Bắc. Ông cũng đóng 10 cái bàn đặt trong đền thờ, năm cái về phía Nam, và năm cái về phía Bắc. Vua dùng vàng để làm một trăm cái chậu khác. Vua cũng làm sân cho thầy tế lễ và sân lớn. Ông làm các cửa mở ra sân và bọc đồng các cửa đó. 10 Rồi vua đặt cái chậu lớn nơi góc Đông Nam của đền thờ.

11 Hu-ram cũng làm các chén bát, xẻng xúc, và các chén nhỏ. Ông hoàn tất công tác cho vua Sô-lô-môn về đền thờ của Thượng Đế như sau: 12 hai cây trụ; hai chậu lớn để trên đầu trụ; hai mạng lưới để che hai chậu lớn trên phần đầu của trụ; 13 bốn trăm trái lựu để treo vào hai mạng lưới. Có hai hàng trái lựu gắn vào mỗi mạng lưới để che các chậu đặt trên đầu trụ; 14 các đế và chậu trên mỗi đế; 15 cái chậu lớn có 12 con bò đực đỡ bên dưới; 16 các nồi, xẻng xúc, nĩa, và tất cả những vật dùng cho các món ấy. Tất cả các món đồ Hu-ram A-bi làm cho vua Sô-lô-môn dùng trong đền thờ CHÚA đều làm bằng đồng đánh bóng. 17 Vua cho đúc các món đồ đó vào khuôn đất sét tại bình nguyên sông Giô-đanh nằm giữa Su-cốt và Xa-rê-than. 18 Sô-lô-môn cho làm nhiều dụng cụ đến nỗi không ai biết được tổng số lượng đồng là bao nhiêu nữa.

19 Sô-lô-môn cũng làm những món sau đây cho đền thờ Thượng Đế: bàn thờ vàng, các bàn để bánh chứng tỏ dân chúng đứng trước mặt Thượng Đế; 20 các chân đèn, và đèn làm bằng vàng ròng để thắp sáng trước Nơi Chí Thánh theo như đã định; 21 các hoa, đèn và que gắp [e] bằng vàng ròng; 22 các đồ hớt tim đèn bằng vàng ròng, các chén nhỏ, chảo, và mâm dùng đựng than [f], các cửa bằng vàng cho đền thờ, và các cửa bên trong của Nơi Chí Thánh và phòng chính.

Notas al pie

  1. II Sử Ký 4:1 mười thước Nguyên văn, “20 cu-bít” (khoảng 10,30 thước tây).
  2. II Sử Ký 4:1 năm thước Nguyên văn, “10 cu-bít” (khoảng 5,20 thước).
  3. II Sử Ký 4:5 một gang tay Nguyên văn, “một gang tay” (khoảng 8 phân tây).
  4. II Sử Ký 4:5 66.000 lít Nguyên văn, “3.000 bát.”
  5. II Sử Ký 4:21 que gắp Hay “đũa gắp dùng để gắp than nóng.”
  6. II Sử Ký 4:22 mâm dùng đựng than Các bát lớn để đựng than cháy đỏ.

So Sánh Sự Thi Hành Chức Vụ Thượng Tế Dưới Ðất và Chức Vụ Thượng Tế Trên Trời

Vậy giao ước thứ nhất cũng có những quy luật thờ phượng và một đền thánh trên đất. Vì trong Ðền Tạm, phòng thứ nhất ở phía trước được gọi là Nơi Thánh, nơi ấy được thiết trí với cây đèn, bàn, và bánh thánh. Phía sau bức màn là một phòng thứ hai được gọi là Nơi Chí Thánh, trong đó có bàn thờ dâng hương bằng vàng và Rương Giao Ước được bọc vàng mọi phía, trong rương có một bình bằng vàng đựng man-na, cây gậy trổ hoa của A-rôn, và các bảng giao ước. Trên nắp rương là các chê-ru-bim oai nghiêm rực rỡ, dang cánh che phủ nắp thi ân. Về những điều ấy thì không cần phải nói từng chi tiết lúc này.

Các vật đó được sắp đặt như thế để các tư tế thường xuyên đi vào phòng thứ nhất của Ðền Tạm hầu cử hành các nghi lễ phụng vụ. Nhưng phòng thứ nhì thì chỉ vị thượng tế mới được vào mỗi năm một lần, và phải luôn đem theo huyết, để dâng lên, chuộc những tội lỗi của ông và của toàn dân đã vô tình phạm.

Ðức Thánh Linh dùng điều đó để cho chúng ta biết rằng ngày nào phòng thứ nhất của Ðền Tạm vẫn còn thì đường vào Nơi Chí Thánh vẫn chưa mở. Ðó là hình bóng của thời hiện tại, thời các lễ vật và các thú vật hiến tế được dâng hiến không thể làm cho lương tâm người thờ phượng được thánh sạch vẹn toàn. 10 Những điều ấy chỉ liên quan đến thức ăn, thức uống, các hình thức tẩy rửa, những luật lệ cho xác thịt được áp đặt cho đến khi có một trật tự mới.

11 Nhưng Ðấng Christ đã đến để làm Vị Thượng Tế của những điều tốt đẹp hơn sắp đến. Ngài đi vào một Ðền Tạm vĩ đại hơn và toàn hảo hơn, không bởi tay loài người dựng nên, tức là không thuộc về thế giới thọ tạo này. 12 Ngài không nhờ huyết của dê đực và bò đực, nhưng dùng chính huyết Ngài, để vào Nơi Chí Thánh một lần đủ cả, mà thực hiện sự cứu chuộc đời đời. 13 Vì nếu huyết của dê đực và bò đực, cùng tro của bò cái tơ rảy trên những người bị ô uế có thể thánh hóa họ, làm phần xác của họ được tinh sạch, 14 thì huyết của Ðấng Christ, Ðấng nhờ Ðức Thánh Linh đời đời dâng chính Ngài làm con vật hiến tế không tì vết lên Ðức Chúa Trời, tẩy sạch những việc chết khỏi lương tâm chúng ta để chúng ta phục vụ Ðức Chúa Trời hằng sống, có hiệu lực hơn biết dường nào!

Ðấng Christ Lập Giao Ước Mới Bằng Chính Huyết Ngài

15 Vì lý do đó Ngài là Ðấng Trung Gian của giao ước mới, để những người được gọi có thể nhận lãnh cơ nghiệp đời đời đã hứa, vì cái chết đã xảy ra để cứu chuộc những người phạm tội dưới giao ước thứ nhất.

16 Nơi nào có chúc thư thì người lập chúc thư cần phải được xác nhận rằng đã qua đời, 17 vì chúc thư chỉ có hiệu lực khi người lập chúc thư đã qua đời, vì chúc thư không bao giờ được đem ra thi hành khi người lập chúc thư vẫn còn sống. 18 Vì vậy ngay cả giao ước thứ nhất cũng không có hiệu lực nếu không có huyết. 19 Sau khi Môi-se công bố mọi điều răn trong Luật Pháp cho toàn dân, ông đã lấy huyết của bò đực và dê đực, với nước, dây nhung đỏ, và nhánh cây bài hương rảy trên cuộn sách và trên toàn dân, 20 rồi nói rằng,

“Ðây là huyết của giao ước mà Ðức Chúa Trời đã truyền cho anh chị em.”Xuất 24:8

21 Tương tự ông cũng rảy huyết trên Lều Tạm và trên mọi khí dụng được dùng trong việc thờ phượng. 22 Thật vậy theo Luật Pháp hầu hết mọi vật phải nhờ huyết để được tinh sạch, và không có đổ huyết thì không có sự tha thứ.

23 Vậy nếu những gì mô phỏng của những cái có thật trên trời mà còn phải được thanh tẩy như thế, thì chính những cái có thật trên trời càng phải được thanh tẩy bằng các thú vật hiến tế cao quý hơn biết bao.

Read full chapter

Giao ước cũ

Giao ước cũ có những qui tắc thờ phụng và nơi thờ phụng do tay người dựng nên. Lều Thánh có hai phần riêng biệt. Phần đầu tiên của Lều gọi là Nơi Thánh. Trong đó có cái đèn và cái bàn chưng bánh được Thượng Đế thánh hóa. Sau bức màn thứ nhì là một phòng gọi là Nơi Chí Thánh. Trong đó có bàn thờ bằng vàng để đốt hương và Rương Giao ước bọc vàng, bên trong hộp đựng giao ước cũ. Bên trong hộp có một cái bình đựng bánh ma-na, cây gậy trổ hoa của A-rôn và hai bảng đá của giao ước cũ. Phía trên hộp là các thiên sứ [a] phô bày sự vinh hiển của Thượng Đế và các cánh che nắp hộp. Các thiên sứ ngồi trên nắp thương xót [b]. Nhưng bây giờ chúng ta không thể mô tả tỉ mỉ những vật ấy.

Khi mọi vật trong Lều được sắp xếp sẵn sàng như thế rồi thì mỗi ngày các thầy tế lễ đi vào gian phòng đầu tiên để thờ phụng. Nhưng chỉ có một mình thầy tế lễ tối cao mới được vào gian phòng thứ nhì, mỗi năm một lần thôi. Thầy tế lễ tối cao không thể vào phòng ấy mà không mang huyết theo dâng cho Thượng Đế để chuộc tội mình và chuộc tội vô tình của dân chúng. Thánh Linh dùng điều nầy để cho thấy rằng khi hệ thống Lều Thánh cũ vẫn đang được dùng thì đường vào Nơi Chí Thánh [c] chưa mở ra. Đây là ví dụ về thời hiện tại. Hình ảnh ấy cho thấy rằng các của lễ và sinh tế không thể khiến lương tâm kẻ thờ phụng toàn thiện được. 10 Các của lễ và sinh tế chỉ liên quan đến thực phẩm, thức uống và nghi thức tẩy sạch. Đó là những qui luật cho thân thể phải tuân theo cho đến khi Thượng Đế chỉ cách thức mới.

Giao Ước Mới

11 Khi Chúa Cứu Thế Giê-xu đến làm thầy tế lễ tối cao mang những điều tốt đẹp chúng ta hiện đang hưởng, thì Ngài đi vào một lều lớn hơn và hoàn toàn hơn, không do tay người làm ra và cũng không thuộc về trần gian nầy. 12 Chúa Cứu Thế đi vào Nơi Chí Thánh một lần đủ cả. Ngài không mang theo huyết của dê hoặc bò con. Sinh tế của Ngài mang vào là chính huyết mình, nhờ huyết ấy Ngài giải thoát chúng ta đời đời khỏi tội lỗi. 13 Nếu huyết của dê, bò đực và tro của bò cái rắc lên những người không tinh sạch còn làm cho thân thể họ được sạch, 14 huống chi huyết của Chúa Cứu Thế còn hữu hiệu đến mức nào nữa. Ngài dâng chính mình qua Thần linh [d] đời đời để làm một sinh tế toàn vẹn cho Thượng Đế. Huyết Ngài tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những hành vi dẫn đến cái chết để chúng ta có thể thờ kính và phục vụ Thượng Đế hằng sống.

15 Do đó, Chúa Cứu Thế mang đến cho dân chúng một Giao Ước Mới từ Thượng Đế. Những ai được Thượng Đế kêu gọi thì bây giờ có thể hưởng được phúc lành đời đời mà Ngài đã hứa. Họ nhận được những phúc lành ấy là vì Chúa Cứu Thế chịu chết để ai sống dưới giao ước cũ đều được giải thoát khỏi tội.

16 Khi có tờ di chúc thì phải chứng tỏ rằng người viết di chúc đó đã qua đời. 17 Di chúc ấy chẳng có giá trị gì khi người đó còn sống; nó chỉ có hiệu lực sau khi người ấy qua đời. 18 Vì thế giao ước đầu tiên không thể bắt đầu nếu không có huyết để chứng tỏ đã có một cái chết. 19 Trước hết, Mô-se dạy dân sự mọi mệnh lệnh mà luật pháp dặn bảo. Sau đó ông lấy huyết của bò con và dê trộn với nước, rồi lấy len đỏ và nhánh kinh giới rưới lên sách luật và trên dân chúng. 20 Ông nói, “Đây là huyết để bắt đầu Giao ước mà Thượng Đế truyền cho các ngươi phải vâng giữ.” [e] 21 Cũng thế, Mô-se rưới huyết lên Lều Thánh và trên mọi vật dùng trong việc thờ phụng. 22 Luật pháp qui định rằng mọi việc phải được tẩy sạch nhờ huyết vì nếu không đổ huyết thì không thể được tha tội.

Sự chết Chúa Giê-xu xóa sạch tội lỗi

23 Cho nên những gì tượng trưng cho các việc thật trên trời phải được tẩy sạch qua của lễ bằng thú vật; nhưng những việc thật trên trời cần những sinh tế tốt hơn thú vật.

Read full chapter

Notas al pie

  1. Hê-bơ-rơ 9:5 thiên sứ Còn gọi là Chê-ru-bim, có khi gọi là hình nhân.
  2. Hê-bơ-rơ 9:5 nắp thương xót Hay “ngôi thương xót,” một nơi trên nắp “Hộp Giao Ước,” chỗ mà thầy tế lễ tối cao rưới huyết của thú vật mỗi năm một lần để chuộc tội cho dân chúng.
  3. Hê-bơ-rơ 9:8 Nơi Chí Thánh Nguyên văn, “chỗ cực thánh,” nơi thiêng liêng mà Thượng Đế ngự và được thờ kính. Xem câu 12, 24.
  4. Hê-bơ-rơ 9:14 Thần linh Có thể là Thánh Linh, thần linh của chính Chúa Cứu Thế hoặc bản chất thiêng liêng và đời đời của sự hi sinh Ngài. Xem “Thánh Linh” ở Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  5. Hê-bơ-rơ 9:20 Đây là … vâng giữ Xuất 24:8.

22 Tôi không thấy đền thờ trong thành, vì Chúa, Ðức Chúa Trời Toàn Năng, và Chiên Con là đền thờ của thành. 23 Thành không cần mặt trời hay mặt trăng soi sáng, vì vinh quang của Ðức Chúa Trời tỏa sáng cho thành và Chiên Con là đèn của thành. 24 Muôn dân sẽ bước đi trong ánh sáng của thành, và các vua trên đất sẽ đem vinh hiển của mình vào đó. 25 Ban ngày các cổng thành không bao giờ đóng lại, và nơi đó không có ban đêm. 26 Muôn dân sẽ đem vinh hiển và tôn quý của dân tộc mình vào đó. 27 Không ai ô uế hoặc làm những việc ghê tởm hoặc gian dối có thể vào trong thành, nhưng chỉ những ai có tên được ghi trong sách sự sống của Chiên Con mà thôi.

Sông Nước Sự Sống

22 Bấy giờ vị thiên sứ ấy chỉ cho tôi một sông nước sự sống; dòng sông trong suốt như pha lê, chảy ra từ ngai của Ðức Chúa Trời và của Chiên Con. Giữa quảng trường của thành, nơi tẻ ra của hai nhánh sông,[a] có cây sự sống sinh trái mười hai đợt, mỗi tháng một đợt, và lá của cây ấy được dùng để chữa lành các dân.

Trong thành sẽ không có bất cứ lời nguyền rủa nào. Ngai của Ðức Chúa Trời và ngai của Chiên Con sẽ ở trong đó, và các tôi tớ Ngài sẽ phụng sự Ngài. Họ sẽ nhìn thấy mặt Ngài, và danh Ngài sẽ ở trên trán họ. Ðêm sẽ không còn nữa; họ sẽ không cần ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa, Ðức Chúa Trời, sẽ tỏa sáng trên họ; và họ sẽ trị vì đời đời vô cùng.

Notas al pie

  1. Khải Huyền 22:2 nt: ở bên này và bên kia của bờ sông

22 Tôi không thấy một đền thờ nào khác trong thành vì Chúa, Thượng Đế Toàn Năng và Chiên Con là đền thờ của thành. 23 Thành cũng không cần mặt trời, mặt trăng chiếu sáng vì vinh hiển của Thượng Đế là ánh sáng cho thành và Chiên Con là đèn của thành. 24 Nhờ ánh sáng ấy các dân trên thế giới sẽ bước đi còn các vua trên đất sẽ mang vinh hiển mình vào đó. 25 Các cổng thành chẳng bao giờ đóng vì ở đó không còn có đêm nữa. 26 Các dân tộc sẽ mang vinh hiển và uy danh vào đó. 27 Mọi điều dơ bẩn, các kẻ làm những việc nhơ nhuốc và các kẻ nói dối đều không được vào. Chỉ những người có tên trong sách Chiên Con mới được phép vào thành thôi.

22 Rồi thiên sứ chỉ cho tôi thấy sông nước sự sống trong suốt như pha lê chảy ra từ ngôi Thượng Đế và ngôi Chiên Con giữa phố thành. Cây sự sống mọc hai bên bờ sông. Mỗi năm ra trái mười hai lần, mỗi tháng một lần. Lá của cây dùng chữa lành cho các dân. Những gì bị Thượng Đế nguyền rủa không được phép vào thành. Ngôi của Thượng Đế và của Chiên Con ngự ở đó và các tôi tớ Thượng Đế sẽ thờ phụng Ngài. Họ sẽ nhìn mặt Ngài và trán họ ghi tên Ngài. Cũng không còn đêm nữa. Họ không cần ánh sáng đèn hay mặt trời vì Thượng Đế là ánh sáng cho họ còn họ sẽ làm vua cai trị đến muôn đời.

Rước Rương Giao Ước vào Ðền Thờ

(2 Sử 5:2-6:2)

Bấy giờ Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão của I-sơ-ra-ên, tất cả các vị trưởng chi tộc và các trưởng gia tộc trong I-sơ-ra-ên lại trước mặt vua ở Giê-ru-sa-lem, để rước Rương Giao Ước của Chúa từ Thành Ða-vít ở Si-ôn đến Ðền Thờ. Vào tháng Ê-tha-nim, tức tháng bảy, toàn dân I-sơ-ra-ên tụ họp quanh Vua Sa-lô-môn để dự lễ. Khi tất cả các trưởng lão đến, các tư tế khiêng Rương ra đi. Vậy các tư tế và những người Lê-vi khiêng Rương của Chúa, Ðền Tạm tức Lều Hội Kiến, và tất cả các vật dụng thánh trong Ðền Tạm đem đi.

Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, tức những người đã tụ họp trước mặt vua, hiệp với ông đến trước Rương. Họ dâng hiến chiên và bò nhiều vô kể, nhiều đến nỗi không thể đếm được. Kế đó các tư tế thỉnh Rương Giao Ước của Chúa, đặt vào vị trí ở phòng trong cùng của Ðền Thờ, tức Nơi Chí Thánh, dưới các cánh chê-ru-bim. Các chê-ru-bim dang cánh ra trên Rương; các chê-ru-bim che trên Rương và các đòn khiêng. Các đòn khiêng ấy khá dài đến nỗi lòi các đầu ra, khiến ai đứng ở trước Nơi Chí Thánh đều có thể trông thấy, nhưng ai đứng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. Trong Rương không có gì ngoài hai bảng đá mà Môi-se đã đặt vào đó khi còn ở Hô-rếp, nơi Chúa đã lập giao ước với dân I-sơ-ra-ên, khi họ vừa mới ra khỏi Ai-cập.

10 Khi các tư tế vừa ra khỏi Nơi Thánh, mây mù kéo đến bao phủ Ðền Thờ CHÚA 11 đến nỗi các tư tế không thể đứng để tiếp tục thi hành công tác vì bị mây mù bao phủ, bởi vinh quang của Chúa tràn ngập cả Ðền Thờ Chúa.

Read full chapter

Rước Rương Giao Ước vào đền thờ

Vua Sô-lô-môn triệu tập các bô lão trong Ít-ra-en, các tộc trưởng, và các trưởng gia đình đến trình diện mình tại Giê-ru-sa-lem. Ông muốn họ rước Rương Giao Ước của CHÚA từ thành Đa-vít, còn gọi là Xi-ôn. Vậy toàn dân Ít-ra-en họp lại cùng vua Sô-lô-môn vào dịp lễ đặc biệt [a] trong tháng lễ Ê-tha-nim, tức tháng thứ bảy.

Khi các bô lão Ít-ra-en đến thì các thầy tế lễ khiêng Rương lên. Họ mang Rương của CHÚA, Lều Họp, và các vật dụng thánh; các thầy tế lễ và người Lê-vi mang các món đó đến. Vua Sô-lô-môn và toàn dân Ít-ra-en tập họp trước Rương và dâng sinh tế bằng chiên và bò nhiều đến nỗi không thể đếm được. Rồi các thầy tế lễ đặt Rương Giao Ước của CHÚA vào Nơi Chí Thánh trong đền thờ, dưới các cánh của hai con thú. Các cánh của hai con thú giương ra trên nơi để Rương Giao Ước, che Rương và các đòn khiêng. Các đòn khiêng dài đến nỗi ai đứng trong Nơi Thánh ngay trước Nơi Chí Thánh đều có thể nhìn thấy đuôi của các đòn, nhưng đứng bên ngoài Nơi thánh thì không thấy được. Ngày nay các đòn nầy vẫn còn đó. Bên trong có hai bảng đá mà Mô-se đã đặt vào Rương trên núi Hô-rếp. Đó là nơi CHÚA lập giao ước với dân Ít-ra-en sau khi họ ra khỏi Ai-cập.

10 Khi các thầy tế lễ ra khỏi Nơi Thánh thì mây [b] phủ đầy đền thờ của CHÚA. 11 Các thầy tế lễ không thể thi hành nhiệm vụ được vì đền thờ đầy dẫy vinh quang CHÚA.

Read full chapter

Notas al pie

  1. I Các Vua 8:2 lễ đặc biệt Nghĩa là Lễ Chòi Lá. Xem “Lễ Chòi Lá” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  2. I Các Vua 8:10 mây Dấu hiệu đặc biệt cho thấy Thượng Đế hiện diện giữa dân Ngài.

22 Ta sẽ gặp ngươi tại đó. Từ trên Nắp Thi Ân, tức từ giữa hai chê-ru-bim ở trên Rương Giao Ước, Ta sẽ truyền cho ngươi mọi mạng lịnh cho dân I-sơ-ra-ên.

Read full chapter

22 Ta sẽ gặp các con tại đó, phía trên nắp giữa hai con vật có cánh trên Rương Giao Ước. Tại đó ta sẽ cho con mọi huấn lệnh cho dân Ít-ra-en.”

Read full chapter

21 Bà đặt tên cho đứa trẻ là I-ca-bốt[a] và nói, “Vinh hiển đã lìa khỏi I-sơ-ra-ên!” vì Rương của Ðức Chúa Trời đã bị đoạt mất và vì cha chồng và chồng của bà đều đã chết. 22 Bà nói tiếp, “Vinh hiển đã lìa khỏi I-sơ-ra-ên, vì Rương của Ðức Chúa Trời đã bị cướp mất.”

Read full chapter

Notas al pie

  1. I Sa-mu-ên 4:21 I-ca-bốt nghĩa là “không còn vinh hiển nữa”

21 Nàng đặt tên cho đứa bé là Y-ca-bốt [a] vì nàng bảo, “Vinh hiển của Ít-ra-en đã mất rồi [b].” Nàng nói vậy vì Rương Giao Ước của Thượng Đế đã bị cướp mất và cha chồng cùng chồng nàng đã chết. 22 Nàng bảo, “Vinh quang của Ít-ra-en không còn vì Rương Giao Ước của Thượng Đế đã bị cướp mất rồi.”

Read full chapter

Notas al pie

  1. I Sa-mu-ên 4:21 Y-ca-bốt Nghĩa là “mất vinh hiển.”
  2. I Sa-mu-ên 4:21 Vinh hiển … mất rồi Câu nầy không có trong bản cổ Hi-lạp.

Rương Giao Ước Ðược Trả Về

Ðến lúc ấy Rương Giao Ước của Chúa đã ở trong xứ Phi-li-tin được bảy tháng. Dân Phi-li-tin gọi các tế sư và các bốc sư của họ đến để tham vấn, “Chúng tôi phải làm gì với Rương Giao Ước của Chúa? Xin chỉ chúng tôi cách nào để gởi trả Rương ấy về chỗ cũ.”

Vậy họ bảo, “Nếu anh em muốn gởi trả Rương của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên về, anh em chớ gởi Rương ấy về không, nhưng bằng mọi cách, anh em phải gởi kèm theo một của lễ chuộc lỗi. Bấy giờ anh em mới được chữa lành, và anh em sẽ biết tại sao tay Ngài đã đè nặng trên anh em.”

Họ hỏi, “Thế chúng tôi phải lấy gì làm của lễ chuộc lỗi để gởi về cho Ngài?”

Họ đáp, “Năm cục bướu bằng vàng và năm con chuột bằng vàng, theo số các lãnh chúa của dân Phi-li-tin, vì bịnh dịch đó đã hoành hành trên tất cả anh em và trên các lãnh chúa của anh em. Vì thế anh em phải làm tượng của các cục bướu và tượng của các con chuột đã gieo tai ương trong khắp xứ. Anh em cũng phải tôn vinh Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên; may ra Ngài sẽ nhẹ tay với anh em, với các thần của anh em, và với xứ sở của anh em. Tại sao anh em lại cứng lòng như người Ai-cập và Pha-ra-ôn đã cứng lòng ngày xưa? Khi Ngài thực hiện những việc quyền năng giữa những người ấy, há chẳng phải cuối cùng họ cũng phải chấp nhận để cho dân Ngài ra đi hay sao? Vậy bây giờ hãy đóng một cỗ xe mới, bắt hai con bò cái mới sinh con và chưa hề mang ách, thắng hai con bò ấy vào cỗ xe, rồi tách con của chúng ra. Ðoạn lấy Rương của Chúa đem đặt trên xe, rồi để các vật bằng vàng làm của lễ chuộc lỗi vào một cái hộp ở bên cạnh, xong hãy để đôi bò ấy kéo cỗ xe ra đi. Anh em hãy theo dõi. Nếu xe ấy cứ thẳng đường mà đi về lãnh thổ của Rương, tức đi về hướng Bết Sê-mếch, thì đó có nghĩa là Ngài đã giáng họa lớn trên chúng ta. Còn không, chúng ta sẽ biết rằng không phải tay Ngài đã đánh chúng ta đâu, bèn là sự trùng hợp thôi.”

10 Vậy họ cho làm như thế. Họ bắt hai con bò cái có con còn bú, thắng chúng vào cỗ xe, bắt các con nhỏ của chúng nhốt lại trong chuồng. 11 Sau đó họ đặt Rương của Chúa lên xe, cùng với hộp đựng các con chuột bằng vàng và các tượng cục bướu. 12 Ðoạn họ để đôi bò cái đó kéo xe đi. Hai con bò ấy cứ thẳng đường về hướng Bết Sê-mếch mà đi tới. Chúng cứ theo một đường đó mà vừa đi vừa rống, không quay qua bên phải hoặc bên trái. Các lãnh chúa của dân Phi-li-tin đi theo phía sau xe cho đến biên giới Bết Sê-mếch.

13 Lúc ấy dân Bết Sê-mếch đang gặt lúa mì trong thung lũng. Khi họ ngước mắt lên và thấy Rương Thánh đang tiến tới, họ vô cùng mừng rỡ. 14 Khi cỗ xe đến cánh đồng của Giô-sua người Bết Sê-mếch, nó dừng lại bên một tảng đá lớn trong cánh đồng đó. Họ bèn chẻ cỗ xe ra làm củi và bắt hai con bò cái làm của lễ thiêu dâng lên Chúa. 15 Người Lê-vi đem Rương của Chúa xuống, cùng với chiếc hộp được gởi kèm theo –trong hộp đó có các vật bằng vàng– rồi để tất cả trên một tảng đá lớn tại đó. Ngày hôm ấy dân Bết Sê-mếch dâng các của lễ thiêu và các con vật hiến tế lên Chúa. 16 Ngày hôm đó năm lãnh chúa của dân Phi-li-tin đều chứng kiến mọi việc ấy, rồi họ trở về Éc-rôn.

17 Ðây là các cục bướu bằng vàng mà dân Phi-li-tin đã gởi làm của lễ chuộc lỗi dâng lên Chúa: một cho Ách-đốt, một cho Ga-xa, một cho Ách-kê-lôn, một cho Gát, và một cho Éc-rôn, 18 và năm con chuột bằng vàng theo số lượng các thành của dân Phi-li-tin do năm lãnh chúa cai trị, kể cả các đồn lũy kiên cố và các làng mạc ở thôn quê. Tảng đá lớn, nơi người ta khiêng Rương của Chúa xuống để bên cạnh, trong cánh đồng của Giô-sua người Bết Sê-mếch, vẫn còn đó cho đến ngày nay.

19 Bấy giờ Ngài đánh phạt dân Bết Sê-mếch, vì họ đã ngắm nhìn Rương của Chúa. Ngài đánh chết bảy mươi người[a] trong dân. Dân chúng thọ tang than khóc, vì Chúa đã đánh họ một trận đòn rất nặng.

Rương Thánh Ðược Ðể tại Ki-ri-át Giê-a-rim

20 Dân ở Bết Sê-mếch nói, “Ai có thể đứng nổi trước mặt Chúa Ðức Chúa Trời[b] thánh khiết nầy? Ngài sẽ rời chúng ta và đến ở với ai đây?” 21 Họ phái các sứ giả đến với dân ở Ki-ri-át Giê-a-rim và nói, “Dân Phi-li-tin đã mang trả cho chúng ta Rương của Chúa. Xin anh chị em xuống lấy và rước về trên đó với anh chị em.”

Read full chapter

Notas al pie

  1. I Sa-mu-ên 6:19 nt: Không rõ nghĩa trong Hebrew. Có bản ghi là 50.070 người bị đánh chết. Có bản lại ghi 70 người và 50 con bò của một người.
  2. I Sa-mu-ên 6:20 nt: Yahweh Elohim

Trả Rương Giao Ước về

Dân Phi-li-tin giữ Rương của Thượng Đế trong xứ mình bảy tháng. Rồi chúng triệu tập các thầy tế lễ và thuật sĩ lại hỏi, “Chúng ta phải làm sao về Rương của Thượng Đế đây? Hãy cho chúng tôi biết phải gởi về cách nào?”

Các thầy tế lễ và thuật sĩ đáp, “Khi các anh gởi trả Rương Giao Ước của Thượng Đế Ít-ra-en về thì đừng trả không. Các anh phải kèm theo một của lễ chuộc lỗi. Nếu sau đó các anh được lành thì sẽ biết ngay rằng Rương đó đã gây khốn đốn cho các anh. Các anh phải làm như thế để Thượng Đế thôi trừng phạt các anh [a].”

Người Phi-li-tin hỏi, “Của lễ chuộc lỗi dâng cho Thượng Đế của Ít-ra-en như thế nào?”

Họ đáp, “Hãy làm năm mẫu bằng vàng theo như hình phù thủng trên da các ngươi và năm con chuột cống bằng vàng. Các mẫu đó sẽ tiêu biểu cho năm vua Phi-li-tin vì các bệnh tật đó hành hại các ngươi và vua các ngươi. Hãy làm các mẫu phù thủng và mẫu chuột cống đang phá hại xứ các ngươi và hãy tôn kính Thượng Đế của Ít-ra-en. May ra Ngài sẽ không hành hại các ngươi, thần các ngươi và xứ các ngươi. Đừng ngoan cố như vua và dân chúng Ai-cập. Sau khi Thượng Đế sỉ nhục họ thì họ mới chịu để dân Ít-ra-en ra đi.

Vì thế các ngươi phải đóng một xe kéo mới, và dùng hai con bò cái mới sinh con. Hai con bò cái nầy phải chưa hề mang ách. Móc hai con bò vào xe, mang các con bò con về nhà, xa mẹ chúng, đừng để chúng đi theo mẹ chúng [b]. Rồi đặt Rương Giao Ước của CHÚA lên xe cùng với các mẫu vàng để làm của lễ chuộc lỗi trong một cái hộp cạnh Rương. Rồi thả cho xe đi. Phải trông chừng cái xe. Nếu nó đi về hướng Bết-sê-mết trong đất Ít-ra-en thì đúng là CHÚA đã mang bệnh tật khủng khiếp nầy đến cho chúng ta. Nếu không phải thì chúng ta sẽ biết rằng Thượng Đế của Ít-ra-en không có phạt chúng ta. Bệnh tật nầy chỉ ngẫu nhiên xảy đến thôi.”

10 Người Phi-li-tin làm theo điều các thầy tế lễ và thuật sĩ dặn. Chúng bắt hai con bò cái vừa mới sinh con, mắc vào xe nhưng giữ lại hai con bò con. 11 Chúng đặt Rương của CHÚA và hộp đựng các con chuột cống và mẫu bệnh phù thũng bằng vàng lên xe. 12 Rồi hai con bò đi thẳng về hướng Bết-sê-mết. Chúng đi trên đường, vừa đi vừa rống, không quay bên phải hay bên trái. Các vua Phi-li-tin đi theo các con bò cho đến tận ranh giới Bết-sê-mết.

13 Lúc đó dân Bết-sê-mết đang gặt lúa mì trong thung lũng. Khi nhìn lên thấy Rương của CHÚA họ vô cùng mừng rỡ. 14 Chiếc xe bò đi đến ruộng của Giô-suê ở Bết-sê-mết và dừng gần một tảng đá lớn. Dân chúng Bết-sê-mết chặt gỗ của xe bò ra làm củi rồi dâng hai con bò cái làm của lễ thiêu cho CHÚA. 15 Người Lê-vi khiêng Rương của CHÚA và hộp đựng các mẫu bằng vàng rồi đặt cả hai lên tảng đá lớn.

Trong ngày đó dân Bết-sê-mết dâng của lễ toàn thiêu và sinh tế cho CHÚA.

16 Sau khi năm vua Phi-li-tin nhìn thấy mọi việc thì họ trở về Éc-rôn nội ngày đó.

17 Người Phi-li-tin đã gởi các mẫu phù thủng vàng làm của lễ chuộc lỗi cho CHÚA. Mỗi mẫu vàng thay cho một trong các thị trấn sau đây: Ách-đốt, Ga-xa, Ách-kê-lôn, Gát, và Éc-rôn. 18 Người Phi-li-tin cũng gởi năm mẫu chuột cống vàng. Số chuột tương đương với số thị trấn nằm dưới quyền các vua Phi-li-tin, kể cả các thành kiên cố có vách và các làng mạc trong vùng quê.

Tảng đá lớn mà họ đặt Rương của CHÚA ngày nay vẫn còn ở đó trong ruộng Giô-suê ở Bết-sê-mết. 19 Nhưng ở đó không có thầy tế lễ nào [c], và một số người dân ở Bết-sê-mết nhìn vào Rương của CHÚA cho nên Thượng Đế giết bảy mươi người trong vòng họ. Dân cư Bết-sê-mết kêu khóc vì CHÚA giết họ. 20 Họ bảo, “Ai đứng nổi trước mặt CHÚA là Thượng Đế thánh? Ai là người sẽ bị Ngài giết kế tiếp?”

21 Sau đó họ sai người đến dân Ki-ri-át Giê-a-rim bảo rằng, “Dân Phi-li-tin đã trả Rương của CHÚA. Hãy xuống mang về thành của các ngươi đi.”

Read full chapter

Notas al pie

  1. I Sa-mu-ên 6:3 Các anh … thôi trừng phạt các anh Câu nầy có trong bản cổ Hi-lạp và bản Hê-bơ-rơ trong Cuộn Sách Biển Chết. Còn bản Hê-bơ-rơ tiêu chuẩn thì ghi như sau, “Do đó các anh biết được tại sao Thượng Đế cứ mãi trừng phạt các anh.”
  2. I Sa-mu-ên 6:7 đừng để … mẹ chúng Người Phi-li-tin cho rằng nếu các con bò mẹ không tìm cách kiếm các con bò con của chúng thì điều đó cho thấy Thượng Đế dắt chúng đi, như thế nghĩa là Ngài chấp nhận của lễ của họ.
  3. I Sa-mu-ên 6:19 không có thầy tế lễ nào Chỉ có thầy tế lễ mới được phép khiêng Rương Giao Ước.

29 Cha Ta, Ðấng vĩ đại hơn tất cả, đã ban những chiên ấy cho Ta. Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha.

Read full chapter

29 Cha ta đã cho ta các chiên ấy. Ngài lớn hơn tất cả mọi loài [a], không ai có thể cướp chúng khỏi tay Cha ta.

Read full chapter

Notas al pie

  1. Giăng 10:29 Ngài … mọi loài Vài bản Hi-lạp ghi “Chúng lớn hơn mọi loài.”

16 Ðền thờ của Ðức Chúa Trời có thỏa hiệp gì với các thần tượng chăng? Vì chúng ta là đền thờ của Ðức Chúa Trời hằng sống, như Ðức Chúa Trời đã phán,

“Ta sẽ ở giữa họ và đi lại giữa họ,
Ta sẽ là Ðức Chúa Trời của họ,
Và họ sẽ làm dân Ta.Lê 26:12; Xuất 29:45; Êxê 37:27; Giê 31:1

Read full chapter

16 Đền thờ Thượng Đế [a] làm sao liên kết được với thần tượng, mà chúng ta là đền thờ của Thượng Đế hằng sống. Như Thượng Đế đã phán,

“Ta sẽ sống và đi lại giữa họ.
    Ta sẽ là Thượng Đế của họ,
    còn họ sẽ làm dân ta.” (A)

Read full chapter

Notas al pie

  1. II Cô-rinh-tô 6:16 Đền thờ Thượng Đế Nhà của Thượng Đế—nơi dân sự của Ngài thờ phụng Ngài. Đây có nghĩa là những tín hữu là đền thờ thiêng liêng nơi Thượng Đế ngự.

11 đến nỗi các tư tế không thể đứng để tiếp tục thi hành công tác vì bị mây mù bao phủ, bởi vinh quang của Chúa tràn ngập cả Ðền Thờ Chúa.

12 Bấy giờ Sa-lô-môn nói, “Chúa đã phán, ‘Ngài ngự giữa mây đen,’ 13 và con rất được vinh dự xây cho Ngài một Ðền Thờ nguy nga tráng lệ để làm một nơi Ngài ngự đời đời.”

Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân

(2 Sử 6:3-11)

14 Kế đó vua quay lại và chúc phước cho hội chúng I-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng I-sơ-ra-ên đang đứng. 15 Ông nói, “Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng đã dùng tay Ngài làm trọn mọi điều miệng Ngài đã hứa với Ða-vít cha tôi rằng, 16 ‘Từ ngày Ta đem dân I-sơ-ra-ên Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn thành nào của bất cứ chi tộc nào trong I-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ, hầu danh Ta có thể ngự tại đó,[a] nhưng Ta đã chọn Ða-vít để lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta.’

17 Lúc ấy Ða-vít cha tôi đã có ý định xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, 18 nhưng Chúa đã phán với Ða-vít cha tôi rằng, ‘Ngươi quả có ý tốt khi lòng ngươi muốn xây một Ðền Thờ cho danh Ta. 19 Tuy nhiên ngươi sẽ không xây Ðền Thờ ấy cho Ta, nhưng con trai ngươi, kẻ do ngươi sinh ra, sẽ xây Ðền Thờ ấy cho danh Ta.’

20 Chúa đã làm thành những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên thế vào chỗ của Ða-vít cha tôi, và được ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên như Chúa đã phán; và tôi cũng đã xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 21 Ðây nầy, tôi đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có đựng giao ước của Chúa, mà Ngài đã lập với tổ tiên chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai-cập.”

Read full chapter

Notas al pie

  1. I Các Vua 8:16 Xin xem phần bổ túc của câu nầy trong 2 Sử 6:5b-6a

11 Các thầy tế lễ không thể thi hành nhiệm vụ được vì đền thờ đầy dẫy vinh quang CHÚA. 12 Sau đó Sô-lô-môn nói,

“CHÚA khiến mặt trời soi sáng bầu trời,
    nhưng Ngài lại chọn ở trong đám mây tối đen [a].
13 Lạy Chúa, tôi đã xây một đền thờ tuyệt đẹp cho Ngài,
    một nơi ở cho Ngài đời đời.”

14 Đang khi toàn dân Ít-ra-en đang đứng đó thì vua Sô-lô-môn quay mặt lại và chúc phước cho họ. 15 Rồi vua cầu nguyện như sau:

“Đáng ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. Ngài đã thực hiện điều Ngài đã hứa cùng Đa-vít, cha tôi. CHÚA phán, 16 ‘Từ khi ta mang dân Ít-ra-en ta ra khỏi Ai-cập, ta chưa chọn một thành nào trong chi tộc Ít-ra-en để xây đền thờ cho ta cả. Nhưng nay ta đã chọn Giê-ru-sa-lem làm thành phố, nơi danh ta được tôn kính [b]. Ta đã chọn Đa-vít lãnh đạo dân Ít-ra-en ta.’”

17 Đa-vít, cha ta muốn xây một đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 18 Nhưng CHÚA bảo Đa-vít, cha ta rằng, “Ngươi có ý tốt muốn xây một đền thờ cho ta. 19 Nhưng ngươi sẽ không phải là người làm chuyện đó. Con trai ngươi, do lòng ngươi sinh ra, sẽ là người xây đền thờ cho ta.”

Lời cầu nguyện của Sô-lô-môn

20 “Nay CHÚA đã giữ lời hứa Ngài. Ta đang làm vua thế cho Đa-vít, cha ta. Ta hiện đang cai trị Ít-ra-en như CHÚA đã hứa, và ta đã xây đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 21 Ta đã chuẩn bị một nơi cho Rương, trong đó có Giao ước CHÚA lập với tổ tiên chúng ta khi Ngài mang họ ra khỏi Ai-cập.”

Read full chapter

Notas al pie

  1. I Các Vua 8:12 nhưng Ngài … đám mây tối đen Câu nầy trích trong bản cổ Hi-lạp. Bản nầy đặt các câu 12-13 sau câu 53. Câu 12 của bản tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ chỉ ghi, “Nhưng CHÚA bảo rằng Ngài muốn ở trong bóng tối.”
  2. I Các Vua 8:16 Nhưng nay ta đã … được tôn kính Câu nầy trích trong bản cổ Hi-lạp. Trong bản tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ thì câu nầy chỉ thấy ở trong II Sử 6:5-6 chứ không có ở chỗ nầy.

15 Ðoạn Môi-se đi lên núi, và mây bao phủ núi. 16 Vinh quang của Chúa ngự trên Núi Si-nai. Mây bao phủ núi liên tiếp sáu ngày; đến ngày thứ bảy, Ngài từ trong đám mây gọi Môi-se. 17 Bấy giờ vinh quang Chúa hiện ra trên đỉnh núi giống như lửa cháy phừng phừng trước mắt dân I-sơ-ra-ên. 18 Môi-se đi vào trong đám mây và lên trên núi. Môi-se ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.

Read full chapter

Mô-se gặp Thượng Đế

15 Khi Mô-se lên núi thì cả núi bị mây phủ. 16 Sự vinh quang của Thượng Đế ngự xuống trên núi Si-nai, cả núi bị mây phủ trong sáu ngày. Đến ngày thứ bảy CHÚA gọi Mô-se từ trong đám mây. 17 Người Ít-ra-en nhìn thấy vinh quang của CHÚA giống như lửa cháy trên đỉnh núi.

18 Rồi Mô-se đi vào trong mây và đi lên núi. Ông ở trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm.

Read full chapter

Lều Hội Kiến

Môi-se lấy một cái lều đem dựng bên ngoài doanh trại, cách doanh trại một khoảng xa xa, và gọi đó là Lều Hội Kiến. Nếu ai muốn thỉnh ý Chúa, người ấy phải ra ngoài doanh trại và đến Lều Hội Kiến được dựng bên ngoài doanh trại ấy. Mỗi khi Môi-se đi ra để đến Lều ấy, toàn dân đứng dậy. Ai nấy đứng nơi cửa lều mình và nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào trong Lều thánh. Khi Môi-se đã vào trong Lều, trụ mây hạ xuống, đứng ở cửa Lều, và Chúa nói chuyện với Môi-se. 10 Khi dân thấy trụ mây đứng ở cửa Lều, mọi người đứng dậy, rồi sấp mình xuống thờ lạy nơi cửa lều mình. 11 Ðó là cách Chúa nói chuyện với Môi-se, mặt đối mặt, như hai người bạn nói chuyện với nhau. Sau đó ông trở về doanh trại, nhưng người phụ tá trẻ tuổi của ông, Giô-suê con của Nun, thì không rời Lều ấy.

Read full chapter

Lều Họp

Mô-se dùng một cái lều và dựng cách xa bên ngoài doanh trại; ông gọi đó là “Lều Họp. [a]” Ai muốn cầu hỏi CHÚA điều gì thì đến Lều Họp ngoài doanh trại. Hễ khi nào Mô-se đi đến Lều, tất cả dân chúng ngồi dậy và đứng nơi cửa lều mình, nhìn theo Mô-se cho đến khi ông đi khuất vào Lều Họp. Sau khi Mô-se vào Lều Họp, thì trụ mây lúc nào cũng hạ xuống và đứng yên ở cửa Lều trong khi CHÚA nói chuyện với Mô-se. 10 Hễ khi nào dân chúng thấy trụ mây ở cửa Lều thì mỗi người đứng dậy và bái lạy ngay trước cửa lều mình.

11 CHÚA nói chuyện với Mô-se, mặt đối mặt như người ta nói chuyện với bạn mình. Rồi Mô-se trở về doanh trại, nhưng người phụ tá trẻ tuổi của ông là Giô-suê thì không ra khỏi Lều.

Read full chapter

Notas al pie

  1. Xuất Hành 33:7 Lều Họp Đây có thể là lều tạm mà Mô-se dựng lên cho đến khi Lều Họp chính thức được xây cất.