Add parallel Print Page Options

Dùng Áp-ra-ham làm dẫn chứng

Chúng ta có thể nói Áp-ra-ham, tổ tiên của dân tộc ta, đã học được gì về đức tin? Nếu Áp-ra-ham được hòa thuận với Thượng Đế nhờ những điều ông làm thì ông sẽ có lý do chính đáng để khoe. Nhưng Áp-ra-ham không thể tự khoe trước Thượng Đế. Vì Thánh Kinh viết, “Áp-ra-ham đặt niềm tin nơi Thượng Đế, Ngài chấp nhận niềm tin của ông và niềm tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài.” [a]

Ai làm việc thì lương bổng không thể xem là quà biếu mà là tiền công của mình. Nhưng con người không thể làm cách nào để hòa thuận lại với Thượng Đế được. Nên con người phải trông cậy vào Thượng Đế là Đấng có thể khiến cho kẻ ác hòa thuận lại với Ngài. Thượng Đế sẽ chấp nhận đức tin của họ, nhờ đó họ được hòa thuận lại với Ngài.

Read full chapter

Footnotes

  1. Rô-ma 4:3 Áp-ra-ham … với Ngài Sáng 15:6.

Thượng Đế gọi Áp-ram

12 CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy rời bỏ xứ sở,
    thân nhân và gia đình cha con,
    đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
Ta sẽ làm cho con trở thành một dân lớn
    và sẽ ban phước cho con.
Ta sẽ khiến con nổi danh
    và là nguồn phước cho nhiều người.
Ta sẽ ban phước cho kẻ chúc phước con
    và nguyền rủa kẻ hại con.
Mọi dân tộc trên đất sẽ nhờ con
    mà được phước.”

Áp-ram đi đến vùng Ca-na-an

Vậy Áp-ram rời Ha-ran theo như CHÚA đã dặn bảo, có Lót cùng đi. Lúc đó Áp-ram đã 75 tuổi. Ông mang Sa-rai vợ mình, Lót cháu mình và mọi vật thuộc về mình cùng các đầy tớ ông đã có tại Ha-ran và lên đường ra đi, dự định đến đất Ca-na-an, sau cùng thì tới nơi. Áp-ram đi qua suốt cả xứ đến tận cây sồi lớn Mô-rê thuộc Sê-chem. Lúc đó dân Ca-na-an đang cư ngụ trong xứ nầy.

CHÚA hiện ra [a] cùng Áp-ram và bảo, “Ta sẽ cấp đất nầy cho dòng dõi con.” Vì thế tại đó, Áp-ram xây một bàn thờ cho CHÚA, Đấng đã hiện ra cùng ông. Rồi từ Sê-chem ông đi đến núi phía đông của Bê-tên và dựng trại tại đó. Bê-tên nằm về phía tây, còn A-hi [b] nằm về phía đông. Nơi ấy Áp-ram xây một bàn thờ nữa cho CHÚA và thờ phụng Ngài. Rồi ông tiếp tục đi đến vùng Nê-ghép.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 12:7 CHÚA hiện ra Thượng Đế thường hay dùng những hình dạng đặc biệt để người ta nhận ra Ngài. Có khi Ngài hiện ra như một người, một thiên sứ, một đám lửa, hay ánh sáng chói lọi.
  2. Sáng Thế 12:8 A-hi Nghĩa là “nơi đổ nát.”

Áp-ram và Lót chia tay nhau

13 Áp-ram, vợ ông, và Lót rời Ai-cập mang theo các tài sản và đi về vùng Nê-ghép, miền nam Ca-na-an. Áp-ram rất giàu, có vô số gia súc, bạc và vàng.

Sau đó ông rời vùng Nê-ghép trở về lại Bê-tên, nơi ông dựng trại trước kia, tức nơi nằm giữa Bê-tên và A-hi [a], là chỗ ông đã xây một bàn thờ. Vậy ông thờ phụng CHÚA tại đó.

Áp-ram và Lót chia rẽ nhau

Trong thời gian cùng đi với Áp-ram, Lót cũng có rất nhiều bầy gia súc và lều trại. Áp-ram và Lót có quá nhiều gia súc đến nỗi đất không đủ cho cả hai người cư ngụ, vì thế mà những bọn chăn gia súc của Áp-ram và Lót bắt đầu gây sự với nhau. Trong khi đó dân Ca-na-an và dân Phê-ri-xít đang sống trong xứ.

Áp-ram bảo Lót, “Bác với cháu không nên gây sự với nhau làm gì, và bọn chăn gia súc chúng ta cũng không nên cãi nhau vì chúng ta là thân nhân ruột thịt. Thôi chúng ta nên chia tay nhau. Cả xứ ở trước mặt cháu đó. Nếu cháu chọn phía Bắc, bác sẽ đi phía Nam. Nếu cháu chọn phía Nam, bác sẽ đi phía Bắc.”

10 Lót nhìn quanh thấy toàn vùng thung lũng sông Giô-đanh có nhiều nước, giống như vườn của CHÚA, như xứ Ai-cập về hướng Xoa. (Đó là trước khi CHÚA hủy diệt Xô-đôm và Gô-mô-rơ.) 11 Vì thế Lót chọn vùng phía Đông và định cư trong thung lũng sông Giô-đanh. Vậy là Áp-ram và Lót chia tay nhau. 12 Áp-ram sống trong xứ Ca-na-an, còn Lót sống trong các thành phố nằm trong thung lũng sông Giô-đanh, rồi dời lều đến Xô-đôm. 13 Dân Xô-đôm rất độc ác và phạm tội nặng cùng CHÚA.

14 Sau khi Lót ra đi rồi, CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy nhìn quanh con từ bắc đến nam, từ đông sang tây. 15 Tất cả vùng đất mà con nhìn thấy, ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đời đời. 16 Ta sẽ khiến cho dòng dõi con đông như cát bụi trên đất. Ai có thể đếm được cát bụi trên đất mới có thể đếm được con cháu con. 17 Hãy đứng dậy! Đi khắp vùng đất mà ta sẽ cấp cho con.”

18 Vậy Áp-ram dời trại và đi đến định cư gần các cây sồi lớn tại Mam-rê nơi thành Hếp-rôn. Ông xây một đền thờ cho CHÚA tại đó.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 13:3 A-hi Nghĩa là “chỗ đổ nát.”

Giao ước của Thượng Đế với Áp-ram

15 Sau các việc ấy CHÚA phán với Áp-ram trong một sự hiện thấy, “Áp-ram ơi, đừng sợ. Ta sẽ bảo vệ con, ta sẽ cho con phần thưởng lớn.”

Nhưng Áp-ram thưa, “Lạy CHÚA là Thượng Đế, CHÚA sẽ ban gì cho con? Con không có con trai, nên sau khi con qua đời thì Ê-li-ê-xe, người nô lệ từ Đa-mách sẽ hưởng hết tài sản của con.” Áp-ram tiếp, “CHÚA xem, Ngài không cho con đứa con trai nào, nên kẻ nô lệ được sinh trong nhà con sẽ hưởng tài sản của con.”

Nhưng CHÚA phán cùng Áp-ram rằng, “Kẻ nô lệ đó không phải là người thừa hưởng tài sản con đâu. Con sẽ có một con trai ruột, là người sẽ hưởng tài sản con.”

Rồi Thượng Đế dẫn Áp-ram ra ngoài và bảo, “Hãy ngước nhìn bầu trời! Các ngôi sao nhiều vô số không thể đếm nổi. Con cháu con cũng đông như vậy.”

Áp-ram tin CHÚA. Ngài chấp nhận ông. Đức tin ấy khiến ông trở nên công chính trước mặt CHÚA.

Read full chapter

18 Ngày đó CHÚA lập giao ước với Áp-ram. Ngài nói, “Ta sẽ ban cho dòng dõi con vùng đất nằm giữa sông Ai-cập [a] và sông lớn Ơ-phơ-rát.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 15:18 sông Ai-cập Đây là suối mang tên “Hoa-đi En-A-rít.”

Phép cắt dương bì—Bằng chứng về giao ước

17 Khi Áp-ram được 99 tuổi, thì CHÚA hiện ra cùng ông và bảo, “Ta là Thượng Đế Toàn Năng [a]. Hãy vâng lời ta và làm điều phải. Ta sẽ lập giao ước giữa chúng ta. Ta sẽ làm cho con trở thành ông tổ của nhiều người.”

Áp-ram liền cúi mọp mình xuống đất. Thượng Đế bảo ông, “Ta đang lập giao ước với con: Ta sẽ khiến con trở thành cha của nhiều dân tộc. Nay ta đổi tên con từ Áp-ram [b] ra Áp-ra-ham [c] vì ta sẽ khiến con trở nên cha của nhiều dân tộc. Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông đảo. Nhiều dân tộc sẽ từ con mà ra, nhiều vua cũng sẽ là dòng dõi của con. Từ nay ta sẽ lập giao ước giữa ta với con và dòng dõi con: Ta sẽ làm Thượng Đế con và là Thượng Đế của tất cả dòng dõi con. Hiện con đang sống trong xứ Ca-na-an như dân tạm trú, nhưng ta sẽ cấp xứ nầy cho con và dòng dõi con đời đời. Ta sẽ làm Thượng Đế của dòng dõi con.”

Rồi CHÚA phán cùng Áp-ra-ham, “Từ nay về sau con và dòng dõi con phải giữ giao ước nầy. 10 Giao ước giữa ta với con và dòng dõi con mà các con phải giữ như sau: Mọi người nam trong các con phải chịu cắt dương bì.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 17:1 Thượng Đế Toàn Năng Nguyên văn, “En Sa-đai.”
  2. Sáng Thế 17:5 Áp-ram Nghĩa là “cha đáng kính.”
  3. Sáng Thế 17:5 Áp-ra-ham Nghĩa là “cha vĩ đại” hay “cha của nhiều người.”

23 Sau đó Áp-ra-ham tập họp Ích-ma-ên, tất cả những người nam sinh trong trại mình và những người nô lệ ông đã mua. Ngày đó Áp-ra-ham cắt dương bì cho mọi người đàn ông và con trai trong trại mình theo như Thượng Đế đã dặn.

Read full chapter

23 Ai phạm tội thì phải lãnh tiền công của tội lỗi—đó là sự chết. Nhưng quà tặng của Thượng Đế là sự sống đời đời trong Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.

Read full chapter

Đa-vít cũng đã nói tương tự như thế. Ông bảo rằng ai được hòa thuận với Thượng Đế, nghĩa là được Ngài tha thứ những tội lỗi của mình, thật có phúc.

“Phúc cho người nào được xóa hết tội,
    bao nhiều việc phạm pháp đều được tha thứ.
Phúc cho kẻ mà Chúa không kết tội.” (A)

Read full chapter

Nên xưng tội

Bài mạch-kinh của Đa-vít.

32 Phúc cho người nào mà tội lỗi được tha,
    mọi lầm lỗi được bôi xóa.
Phước cho người mà CHÚA không kết tội
    và trong lòng không có gì giả dối.

Khi tôi im lặng, tôi cảm thấy yếu đuối.
    Tôi rên rỉ suốt ngày.
Ngày và đêm tay CHÚA đè nặng trên tôi.
    Sức lực tôi suy yếu vì sức nóng mùa hè. Xê-la

Rồi tôi xưng tội cùng CHÚA,
    không giấu diếm tội lỗi tôi.
Tôi nói, “Tôi sẽ xưng tội cùng CHÚA,”
    còn Ngài sẽ tha thứ cho tôi. Xê-la

Vì thế những ai vâng lời Ngài
    hãy cầu nguyện trong khi còn có cơ hội.
Để khi khốn khó xảy đến như nước lụt,
    họ sẽ không bị tổn hại gì.
Ngài là nơi trú ẩn của tôi.
Ngài bảo vệ tôi khỏi mọi gian nan
    và khiến lòng tôi đầy dẫy những bài ca cứu rỗi của CHÚA. Xê-la

CHÚA phán, “Ta sẽ khiến con khôn ngoan,
    và sẽ chỉ cho con biết đường phải đi.
Ta sẽ dắt dẫn và trông nom con.
Đừng giống như lừa và ngựa
    vốn không hiểu biết gì.
Người ta phải dùng hàm khớp và dây cương để dắt dẫn,
    nếu không chúng sẽ chẳng chịu đến gần con.”

10 Kẻ ác gặp nhiều nỗi khổ đau
    nhưng tình yêu CHÚA bao phủ những kẻ tin cậy Ngài.
11 Hỡi những người nhân đức,
    hãy hớn hở vui mừng trong CHÚA.
Còn những ai có lòng ngay thẳng,
    hãy ca hát lên.

Đa-vít phạm tội với Bát-Sê-ba

11 Vào mùa xuân khi các vua thường ra tranh chiến nhau, thì Đa-vít phái Giô-áp, các tôi tớ ông, và toàn quân Ít-ra-en ra trận. Họ tiêu diệt dân Am-môn và tấn công thành Ráp-ba.

Còn Đa-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem. Một buổi chiều nọ vua ngồi dậy khỏi giường và đi dạo trên nóc đền vua. Trong khi đang dạo trên nóc thì vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng rất đẹp. Nên Đa-vít sai đầy tớ hỏi xem nàng là ai. Một đầy tớ trả lời, “Người đàn bà đó là Bát-Sê-ba, con gái Ê-li-am. Nàng là vợ U-ri người Hê-tít.”

Đa-vít liền cho người mang Bát-Sê-ba vào gặp mình. Khi nàng đến cùng vua thì vua ăn nằm cùng nàng. Lúc đó Bát-Sê-ba đã tẩy sạch kinh nguyệt. Rồi nàng trở về nhà mình. Nhưng Bát-Sê-ba có thai và sai nhắn với Đa-vít, “Tôi có thai.”

Đa-vít tìm cách che giấu tội mình

Vì thế Đa-vít ra lệnh cho Giô-áp: “Hãy gởi U-ri, người Hê-tít, về với ta.”

Giô-áp liền gởi U-ri về với Đa-vít. Khi U-ri vào gặp vua thì Đa-vít hỏi thăm về Giô-áp, các binh sĩ về tình hình chiến cuộc ra sao. Rồi Đa-vít bảo U-ri, “Thôi anh về nhà nghỉ ngơi [a] đi.”

U-ri rời cung vua, và nhà vua gởi biếu ông một món quà. Nhưng U-ri không về nhà. Ông ngủ ở ngoài cửa cung vua như tất cả các sĩ quan hoàng gia khác. 10 Các sĩ quan báo cáo với Đa-vít, “U-ri không có về nhà.” Đa-vít liền hỏi U-ri, “Anh từ xa đi về. Sao anh không đi về nhà?”

11 U-ri thưa, “Rương Giao Ước và các chiến sĩ Ít-ra-en và Giu-đa đang ở trong lều. Chủ tôi là Giô-áp cùng các sĩ quan đang trú ngoài mặt trận mà tôi đi về ăn uống, rồi ngủ với vợ thì không phải lẽ tí nào! Tôi xin thề với vua là tôi sẽ không đời nào làm như thế.”

12 Đa-vít bảo U-ri, “Anh ở đây hôm nay đi. Ngày mai ta sẽ gởi anh ra mặt trận.” Vậy U-ri ở lại Giê-ru-sa-lem hôm đó và hôm sau. 13 Rồi Đa-vít gọi U-ri vào gặp mình. U-ri vào và ăn uống với vua. Đa-vít phục rượu cho U-ri say nhưng U-ri cũng không chịu về nhà. Đêm hôm đó U-ri vẫn ngủ với các sĩ quan của vua.

Đa-vít âm mưu giết U-ri

14 Sáng hôm sau Đa-vít viết một bức thư cho Giô-áp nhờ U-ri mang đi. 15 Trong thư Đa-vít dặn, “Hãy đặt U-ri nơi tiền tuyến chỗ đánh nhau nguy hiểm nhất rồi rút binh ra, để hắn lại một mình. Để hắn bị bỏ xác nơi mặt trận.”

16 Giô-áp quan sát thành phố và xem chỗ nào địch quân mạnh nhất liền đặt U-ri ở đó. 17 Khi quân trong thành đổ ra đánh nhau với Giô-áp thì một số binh sĩ của Đa-vít bị giết. U-ri người Hê-tít cũng chết trong toán đó.

18 Rồi Giô-áp gởi bản báo cáo toàn bộ cuộc chiến về cho Đa-vít. 19 Giô-áp dặn sứ giả, “Hãy tường thuật chi tiết cuộc chiến cho vua Đa-vít nghe. 20 Khi tường thuật xong, nếu vua nổi giận và hỏi, ‘Sao các ngươi tiến gần quá thành để tấn công như thế? Các ngươi không biết là địch quân có thể bắn tên xuống từ vách thành sao? 21 Các ngươi có nhớ ai giết A-bi-mê-léc, con trai Giê-rúp Bê-sết không? Một người đàn bà trên vách thành. Người đó ném cái cối đá lên đầu A-bi-mê-léc, giết người chết ở Thê-be. Sao các ngươi tiến sát thành quá như thế?’ Nếu vua Đa-vít hỏi như vậy thì tiếp, ‘Kẻ tôi tớ vua, U-ri, người Hê-tít cũng bị giết nữa.’”

22 Sứ giả về gặp Đa-vít và thuật cho vua nghe những gì Giô-áp dặn mình. 23 Sứ giả kể với Đa-vít, “Quân Am-môn đang thắng thế. Chúng đổ ra tấn công chúng tôi trong ruộng nhưng chúng tôi đánh bạt chúng trở lại nơi cửa thành. 24 Các lính cầm cung bắn tên xuống các tôi tớ vua, một vài người bị chết. Tôi tớ vua là U-ri cũng chết nữa.”

25 Đa-vít bảo sứ giả, “Nói với Giô-áp như sau: ‘Đừng quá bực mình về chuyện nầy. Gươm giáo đâu có mắt. Hãy mở cuộc tấn công mãnh liệt hơn và chiếm thành đi.’ Hãy giục Giô-áp như thế.”

Đa-vít lấy Bát-sê-ba

26 Khi vợ U-ri nghe tin chồng mình tử trận, liền than khóc. 27 Sau khi mãn tang chồng thì Đa-vít sai người mang nàng vào cung với mình. Nàng trở thành vợ Đa-vít và sinh cho vua một con trai, nhưng Thượng Đế không bằng lòng điều Đa-vít làm.

Con trai Đa-vít chết

12 CHÚA sai Na-than đến gặp Đa-vít. Khi gặp Đa-vít ông bảo, “Có hai người cùng ở trong một thành phố nọ. Một người giàu, một người nghèo. Người giàu có rất nhiều chiên và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả ngoại trừ một con chiên con mình mua. Người nhà nghèo nuôi con chiên, nó lớn cùng với người và các con của người. Nó ăn đồ ăn và uống chung ly chén với người và ngủ trong lòng người. Con chiên được xem như con gái của người vậy.

Có một lữ khách ghé thăm người giàu. Người giàu muốn tiếp đãi lữ khách nhưng không muốn bắt chiên hay bò của mình nên bắt con chiên người nhà nghèo làm thịt đãi khách.”

Đa-vít nổi giận cùng người giàu. Ông bảo Na-than, “Tôi chỉ CHÚA hằng sống mà thề, tên nào làm chuyện đó phải chết! Nó phải đền bốn lần giá con chiên vì làm chuyện bậy như thế. Nó chẳng có lòng nhân ái gì cả!”

Na-than vạch tội Đa-vít ra

Na-than liền bảo Đa-vít, “Vua là người đó chứ ai? Đây là điều CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: ‘Ta đã chọn [b] ngươi làm vua Ít-ra-en và giải cứu ngươi khỏi Sau-lơ. Ta đã trao nước và các vợ người vào tay ngươi. Ta đã đặt ngươi làm vua trên Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu như thế chưa đủ, ta có thể cho ngươi thêm nữa. Vậy tại sao ngươi coi thường mệnh lệnh của CHÚA? Tại sao ngươi làm điều bậy? Ngươi nhờ gươm của quân Am-môn giết U-ri người Hê-tít và lấy vợ nó làm vợ mình! 10 Bây giờ đây trong nhà ngươi sẽ có người chết vì gươm vì ngươi không tôn kính ta; ngươi đoạt vợ của U-ri người Hê-tít cho mình!’

11 CHÚA phán: Ta sẽ mang khốn khổ đến cho ngươi từ trong gia đình ngươi. Ta sẽ bắt các vợ ngươi mà trao cho người rất gần ngươi ngay trước mắt ngươi. Nó sẽ ăn nằm với các vợ ngươi và mọi người sẽ biết chuyện đó [c]. 12 Ngươi thầm lén ăn nằm với Bát-Sê-ba nhưng ta sẽ làm điều nầy giữa thanh thiên bạch nhật để tất cả Ít-ra-en đều thấy.”

13 Đa-vít liền thú tội với Na-than, “Tôi đã phạm tội cùng CHÚA.”

Na-than đáp, “CHÚA cũng đã tha tội vua. Vua sẽ không chết. 14 Nhưng điều vua làm khiến các kẻ thù của CHÚA không kính sợ Ngài nữa. Vì lý do đó đứa con trai sinh cho vua sẽ phải chết.”

Con của Đa-vít và Bát-sê-ba chết

15 Rồi Na-than đi về nhà. CHÚA khiến cho đứa con của Đa-vít và vợ của U-ri mắc bệnh nặng. 16 Đa-vít cầu khẩn Thượng Đế cho đứa bé. Ông không chịu ăn uống gì. Ông đi về nhà và ở đó, suốt đêm nằm dưới đất.

17 Các người lớn tuổi trong gia đình Đa-vít đến tìm cách đỡ vua dậy nhưng vua từ chối, và cũng không chịu ăn chung với họ. 18 Đến ngày thứ bảy thì đứa bé chết. Các đầy tớ Đa-vít sợ không dám báo tin đó cho Đa-vít. Họ bảo, “Lúc đứa bé còn sống chúng ta tìm cách khuyên nhủ vua nhưng vua không nghe. Bây giờ nó chết rồi, nếu chúng ta cho vua biết, vua còn làm chuyện tệ hơn nữa.”

19 Khi thấy các đầy tớ thì thầm với nhau thì Đa-vít biết đứa bé đã chết nên ông liền hỏi, “Đứa bé chết rồi phải không?”

Họ đáp, “Dạ phải, nó chết rồi.”

20 Đa-vít liền đứng dậy khỏi đất, tắm rửa, xức dầu thơm, và thay quần áo. Rồi vua vào trong nhà CHÚA để thờ lạy. Sau đó vua về nhà kiếm món gì để ăn. Các đầy tớ vua mang thức ăn đến và vua ăn.

21 Các đầy tớ vua hỏi, “Tại sao vua làm gì kỳ vậy. Khi đứa bé còn sống, vua không chịu ăn và than khóc. Bây giờ nó chết rồi thì vua ngồi dậy ăn.”

22 Đa-vít trả lời, “Trong khi nó còn sống ta không chịu ăn và than khóc vì ta nghĩ, ‘Biết đâu CHÚA sẽ thương hại ta mà để cho nó sống.’ 23 Nhưng bây giờ nó chết rồi thì ta cữ ăn làm gì? Ta đâu có thể làm cho nó sống lại được? Trong tương lai ta sẽ đi đến cùng nó, nhưng nó đâu có trở lại cùng ta.”

Sô-lô-môn ra đời

24 Đa-vít an ủi Bát-Sê-ba, vợ mình. Vua ăn nằm cùng nàng. Nàng thụ thai nữa và sanh một con trai khác, Đa-vít đặt tên là Sô-lô-môn. CHÚA yêu thương Sô-lô-môn. 25 CHÚA sai Na-than, nhà tiên tri, dặn phải đặt tên nó là Giê-đi-đia [d], vì CHÚA yêu thích nó.

Đa-vít chiếm thành Ráp-ba

26 Giô-áp đánh thành Ráp-ba, một kinh đô của Am-môn, và sắp sửa chiếm nó. 27 Giô-áp sai người đến báo với Đa-vít rằng, “Tôi đã đánh Ráp-ba và chiếm nguồn cung cấp nước của thành đó. 28 Vậy bây giờ xin mang hết binh sĩ còn lại xuống tấn công thành nầy. Hãy chiếm thành đó trước khi tôi chiếm để lập công cho tôi.”

29 Vậy Đa-vít triệu tập toàn lực lượng và đi xuống thành Ráp-ba, tấn công và chiếm lấy nó. 30 Đa-vít lấy mão triều của vua Ráp-ba [e] đội trên đầu mình. Mão triều đó nặng khoảng bảy mươi lăm cân [f], có cẩn nhiều ngọc quý trên đó. Đa-vít cũng chiếm lấy nhiều món đồ quí giá của thành phố.

31 Vua cũng bắt dân cư trong thành đó làm công việc bằng cưa, cuốc, và rìu. Vua cũng bắt chúng xây nhà bằng gạch. Đa-vít làm như thế cho tất cả các thành Am-môn. Rồi Đa-vít và toàn quân trở về Giê-ru-sa-lem.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 11:8 nghỉ ngơi Nguyên văn, “rửa chân.”
  2. II Sa-mu-ên 12:7 chọn Nguyên văn, “xức dầu.” Xem từ ngữ nầy trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  3. II Sa-mu-ên 12:11 mọi người sẽ biết chuyện đó Nguyên văn, “giữa thanh thiên bạch nhật.”
  4. II Sa-mu-ên 12:25 Giê-đi-đia Nghĩa là “được Chúa yêu thích.”
  5. II Sa-mu-ên 12:30 mão triều của vua Ráp-ba Hay “mão triều của Minh-côm.” Minh-côm là một thần giả mà dân Am-môn tôn thờ.
  6. II Sa-mu-ên 12:30 bảy mươi lăm cân Nguyên văn, “một ta-lâng” (khoảng 35 kí-lô).

Nên xưng tội

Bài mạch-kinh của Đa-vít.

32 Phúc cho người nào mà tội lỗi được tha,
    mọi lầm lỗi được bôi xóa.
Phước cho người mà CHÚA không kết tội
    và trong lòng không có gì giả dối.

Khi tôi im lặng, tôi cảm thấy yếu đuối.
    Tôi rên rỉ suốt ngày.
Ngày và đêm tay CHÚA đè nặng trên tôi.
    Sức lực tôi suy yếu vì sức nóng mùa hè. Xê-la

Rồi tôi xưng tội cùng CHÚA,
    không giấu diếm tội lỗi tôi.
Tôi nói, “Tôi sẽ xưng tội cùng CHÚA,”
    còn Ngài sẽ tha thứ cho tôi. Xê-la

Vì thế những ai vâng lời Ngài
    hãy cầu nguyện trong khi còn có cơ hội.
Để khi khốn khó xảy đến như nước lụt,
    họ sẽ không bị tổn hại gì.
Ngài là nơi trú ẩn của tôi.
Ngài bảo vệ tôi khỏi mọi gian nan
    và khiến lòng tôi đầy dẫy những bài ca cứu rỗi của CHÚA. Xê-la

CHÚA phán, “Ta sẽ khiến con khôn ngoan,
    và sẽ chỉ cho con biết đường phải đi.
Ta sẽ dắt dẫn và trông nom con.
Đừng giống như lừa và ngựa
    vốn không hiểu biết gì.
Người ta phải dùng hàm khớp và dây cương để dắt dẫn,
    nếu không chúng sẽ chẳng chịu đến gần con.”

10 Kẻ ác gặp nhiều nỗi khổ đau
    nhưng tình yêu CHÚA bao phủ những kẻ tin cậy Ngài.
11 Hỡi những người nhân đức,
    hãy hớn hở vui mừng trong CHÚA.
Còn những ai có lòng ngay thẳng,
    hãy ca hát lên.

Lời cầu nguyện xin Chúa tha thứ

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít soạn khi nhà tiên tri Na-than khiển trách ông sau khi ông phạm tội với Bát-sê-ba.

51 Thượng Đế ôi, xin hãy đối nhân từ cùng tôi vì Ngài là Đấng thành tín.
    Xin hãy xoá sạch các sai lầm tôi
    vì Ngài là Đấng vị tha.
Xin hãy rửa tội lỗi tôi
    và làm cho tôi tinh sạch trở lại.
Tôi biết các sai lầm tôi,
    tôi không bao giờ quên chúng được.
Tôi đã phạm tội với riêng Chúa;
    làm điều Chúa ngăn cấm.
Ngài rất công minh khi phán xử,
    và phán quyết Ngài dành cho tôi rất công bằng.
Tôi chào đời trong vi phạm.
    Mẹ tôi sinh tôi ra trong tội lỗi.
Chúa muốn tôi hoàn toàn chân thật,
    nên xin hãy dạy tôi khôn ngoan.
Xin cất lấy tội lỗi tôi thì tôi sẽ tinh sạch [a].
    Hãy rửa tôi thì tôi sẽ trắng
    hơn tuyết.
Xin cho tôi nghe tiếng mừng rỡ
    và hân hoan;
Xin hãy làm cho các xương cốt tôi mà Chúa đã bẻ gãy được vui sướng trở lại.
Xin hãy ngoảnh mặt làm ngơ khỏi các tội lỗi tôi
    và lau sạch mọi gian ác tôi.
10 Lạy Thượng Đế, xin hãy tạo
    một tấm lòng trong sạch
    trong tôi và chỉnh đốn tâm linh tôi lại.
11 Xin đừng đuổi tôi đi khỏi mặt Ngài
    hay cất Thánh Linh Ngài
    ra khỏi tôi.
12 Xin hãy ban lại cho tôi niềm vui vẻ về sự cứu rỗi Chúa.
    Xin giữ tôi vững mạnh qua ý muốn sẵn lòng.
13 Rồi tôi sẽ dạy đường lối Ngài cho những kẻ làm quấy,
    và tội nhân sẽ quay về cùng Ngài.
14 Lạy Chúa là Thượng Đế của sự cứu rỗi tôi,
    xin giải cứu tôi khỏi tội giết người [b],
    rồi tôi sẽ hát ngợi ca sự nhân từ Ngài.
15 Lạy Chúa, xin cho phép tôi nói
    để tôi ca ngợi Ngài.
16 Chúa không thích của lễ,
    nếu không thì tôi đã dâng.
    Ngài không màng của lễ thiêu.
17 Của lễ đẹp lòng Ngài là tấm lòng tan vỡ.
Lạy Thượng Đế, Ngài không gạt bỏ
    tấm lòng tan vỡ và hối hận.

18 Xin Chúa hãy làm điều tốt lành
    cho Giê-ru-sa-lem theo ý muốn Ngài.
Xin hãy xây lại vách thành Giê-ru-sa-lem
19 rồi Chúa sẽ vui lòng nhận sinh tế [c] và của lễ toàn thiêu,
    và người ta sẽ dâng bò đực trên bàn thờ Ngài.

Footnotes

  1. Thánh Thi 51:7 Xin cất lấy … sẽ tinh sạch Nguyên văn, “Xin lấy nhành kinh giới tẩy sạch tội lỗi tôi.” Xem “kinh giới” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  2. Thánh Thi 51:14 xin giải cứu … giết người Hay “xin tha chết cho tôi.”
  3. Thánh Thi 51:19 Chúa sẽ … sinh tế Hay “của lễ công chính thì Chúa vui lòng nhận.”

19 Thượng Đế ngự trong Chúa Cứu Thế và giảng hòa thế gian lại với Ngài. Trong Chúa Cứu Thế, Thượng Đế không còn kết tội thế gian nữa. Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ giảng hòa nầy. 20 Chúng tôi được sai rao giảng về Chúa Cứu Thế như thể Thượng Đế đã nhờ chúng tôi kêu gọi anh chị em. Khi chúng tôi nài xin anh chị em giảng hòa lại với Thượng Đế là chúng tôi nói thay cho Chúa Cứu Thế. 21 Chúa Cứu Thế vốn không có tội lỗi nhưng Thượng Đế đã khiến Ngài trở nên tội lỗi [a] vì chúng ta để nhờ Ngài mà chúng ta có được các đức tính của Thượng Đế.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Cô-rinh-tô 5:21 tội lỗi Hay “của lễ chuộc tội.”

Có phải phúc lành nầy chỉ dành cho người được cắt dương bì thôi hay là cũng dành cho người không được cắt dương bì nữa? Chúng ta đã nói rằng Thượng Đế chấp nhận niềm tin của Áp-ra-ham và chính niềm tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài. 10 Ông được hòa thuận ra sao? Thượng Đế chấp nhận Áp-ra-ham trước khi ông chịu phép cắt dương bì hay là sau?—Trước khi ông chịu phép cắt dương bì. 11 Áp-ra-ham chịu cắt dương bì để chứng tỏ ông đã hòa thuận lại với Thượng Đế vì ông tin Ngài trước khi chịu cắt dương bì. Cho nên Áp-ra-ham trở nên cha của những người tin nhưng không được cắt dương bì; ông là cha của mọi tín hữu đã hòa thuận lại với Thượng Đế. 12 Áp-ra-ham cũng đồng thời là cha của những người đã chịu cắt dương bì và sống theo niềm tin mà Áp-ra-ham, tổ tiên chúng ta đã có trước khi chịu cắt dương bì.

Thượng Đế giữ lời hứa của Ngài

13 Áp-ra-ham và dòng dõi ông đã nhận lời hứa rằng sản nghiệp của họ sẽ gồm toàn thế giới. Ông nhận lời hứa ấy không nhờ luật pháp mà nhờ giảng hòa lại với Thượng Đế qua đức tin. 14 Nếu chúng ta có thể nhận được lời hứa của Thượng Đế bằng cách tuân giữ luật pháp thì đức tin trở nên vô ích. Lời hứa của Thượng Đế cho Áp-ra-ham cũng vô ích, 15 Vì luật pháp chỉ đưa đến cơn thịnh nộ của Thượng đế mà thôi. Nhưng nơi nào không có luật pháp thì cũng không có việc phạm pháp.

Read full chapter

Áp-ram tin CHÚA. Ngài chấp nhận ông. Đức tin ấy khiến ông trở nên công chính trước mặt CHÚA.

Read full chapter

13 CHÚA phán cùng Áp-ram rằng, “Con có thể biết chắc rằng, con cháu con sẽ phải đi qua xứ khác, làm người nước ngoài. Tại đó dân bản xứ sẽ bắt chúng nó làm nô lệ trong bốn trăm năm. 14 Nhưng ta sẽ phạt dân tộc đã bắt chúng làm nô lệ. Con cháu con sẽ ra khỏi xứ ấy, mang theo nhiều tài sản.

15 Phần con, Áp-ram, con sẽ qua đời bình yên và được chôn cất lúc cao tuổi. 16 Sau khi cháu chít con ra đời, chúng nó sẽ về lại xứ nầy. Phải cần thời gian lâu như thế vì ta chưa sẵn sàng trừng phạt tội ác dân A-mô-rít.”

17 Sau khi mặt trời lặn thì trời tối sầm lại. Bỗng nhiên có một nồi lửa bốc khói [a] và một cây đuốc cháy sáng đi qua lại giữa các phần thịt đã chặt của các súc vật [b] dâng lễ.

18 Ngày đó CHÚA lập giao ước với Áp-ram. Ngài nói, “Ta sẽ ban cho dòng dõi con vùng đất nằm giữa sông Ai-cập [c] và sông lớn Ơ-phơ-rát.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 15:17 nồi lửa bốc khói Đây là một nồi bằng đất đựng than lửa để mồi lửa.
  2. Sáng Thế 15:17 đi qua lại … súc vật Điều nầy cho thấy Thượng Đế đã cam kết hay “đóng ấn” giao ước mà Ngài lập cùng Áp-ram. Thời xưa người ta muốn chứng tỏ lòng thành thật khi cam kết thì người ta đi qua lại giữa các phần của các con thú đã được cắt ra và nói “Nếu tôi không giữ được giao ước thì tôi sẽ bị phân thây như thế nầy.”
  3. Sáng Thế 15:18 sông Ai-cập Đây là suối mang tên “Hoa-đi En-A-rít.”

Ích-ma-ên ra đời

16 Sa-rai, vợ Áp-ram không có con nhưng bà có một cô nô lệ người Ai-cập tên Ha-ga. Sa-rai bảo Áp-ram, “CHÚA không cho tôi sinh con, nên ông hãy đến với đứa nô lệ tôi. Nếu nó sinh con thì có thể tôi có gia đình đầy đủ qua nó.” Áp-ram làm theo lời Sa-rai.

Mười năm sau khi sinh sống ở Ca-na-an thì Sa-rai đưa Ha-ga cho chồng mình là Áp-ram để làm vợ. Ha-ga là nữ nô lệ của Sa-rai từ Ai-cập. Áp-ram ăn nằm với Ha-ga. Nàng mang thai. Khi biết mình mang thai, Ha-ga không còn kính trọng bà chủ mình là Sa-rai như trước nữa.

Read full chapter

16 Khi Ha-ga sinh Ích-ma-ên thì Áp-ram được tám mươi sáu tuổi.

Read full chapter

25 Còn khi Ích-ma-ên được cắt dương bì thì đã 13 tuổi. 26 Áp-ra-ham và con trai mình được cắt dương bì cùng ngày.

Read full chapter

Luật pháp và lời hứa

15 Thưa anh chị em, chúng ta hãy suy nghĩ theo cách loài người đi: Một khi di chúc đã thành hiệu lực thì không ai có thể hủy bỏ hay thêm bớt điều gì. 16 Thượng Đế đã hứa với Áp-ra-ham và dòng dõi ông [a]. Ngài không nói, “và cho các dòng dõi ngươi” để chỉ về nhiều người nhưng nói “và cho dòng dõi ngươi” để chỉ về một người mà thôi, người ấy là Chúa Cứu Thế. 17 Đây là điều tôi muốn nói: Thượng Đế đã lập giao ước với Áp-ra-ham theo đúng thể thức ấy. Còn luật pháp thì mãi đến bốn trăm ba mươi năm sau mới có nên không thể thay đổi giao ước ấy hoặc hủy bỏ lời hứa mà Thượng Đế dành cho Áp-ra-ham được. 18 Nếu chúng ta có thể hưởng gia tài qua luật pháp thì không cần lời hứa nữa. Nhưng không phải thế, vì Thượng Đế đã ban phúc lành nhiều trên Áp-ra-ham qua lời hứa mà Ngài đã lập.

Read full chapter

Footnotes

  1. Ga-la-ti 3:16 dòng dõi ông Nguyên văn, “hạt giống,” cũng có nghĩa là “gia đình.” Trong trường hợp ấy thì từ nầy có nghĩa một gia đình của Thượng Đế trong Chúa Cứu Thế.

16 Cho nên chúng ta nhận được lời hứa của Thượng Đế qua đức tin. Lời hứa ấy trở thành một quà tặng, mà tất cả con cháu Áp-ra-ham đều có thể nhận. Lời hứa ấy không phải dành cho những người sống dưới luật pháp Mô-se mà là cho những người sống trong đức tin như Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta. 17 Như Thánh Kinh viết, “Ta lập ngươi làm cha của nhiều dân tộc.” [a] Điều nầy được thực hiện trước mặt Thượng Đế vì Áp-ra-ham tin cậy Ngài là Đấng ban sự sống cho kẻ chết và đã sáng tạo mọi vật từ chỗ hư vô.

18 Áp-ra-ham không hi vọng có con cái nối dòng, nhưng ông tin cậy Thượng đế và vẫn nuôi hi vọng, nên ông đã trở thành cha của nhiều dân tộc. Đúng như Thượng Đế đã bảo, “Dòng dõi ngươi sẽ đông không thể đếm được.” [b] 19 Lúc ấy Áp-ra-ham đã gần một trăm tuổi, quá tuổi bình thường để có con, còn Sa-ra thì không thể nào sinh con được. Áp-ra-ham lo âu về điều ấy nhưng niềm tin của ông nơi Thượng Đế vẫn không lay chuyển. 20 Ông không bao giờ hoài nghi rằng Thượng Đế sẽ không giữ lời hứa của Ngài, trái lại ông nắm chắc niềm tin. Ông vững tin hơn và ca ngợi Thượng Đế. 21 Áp-ra-ham tin chắc rằng những gì Ngài hứa thì Ngài cũng có quyền thực hiện được. 22 Cho nên “Thượng Đế chấp nhận đức tin của Áp-ra-ham, và đức tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài.” [c] 23 Câu “Thượng Đế chấp nhận đức tin của Áp-ra-ham” không phải chỉ viết cho ông mà thôi 24 mà còn cho chúng ta nữa. Thượng Đế sẽ chấp nhận chúng ta vì chúng ta tin nơi Đấng đã khiến Giê-xu, Chúa chúng ta, sống lại từ kẻ chết. 25 Chúa Giê-xu đã chịu chết vì tội chúng ta, Ngài đã sống lại để chúng ta được hòa thuận lại với Thượng Đế.

Read full chapter

Footnotes

  1. Rô-ma 4:17 Ta lập … dân tộc Sáng 17:5.
  2. Rô-ma 4:18 Dòng dõi … đếm được Sáng 15:5.
  3. Rô-ma 4:22 Thượng Đế … với Ngài Sáng 15:6.