Add parallel Print Page Options

Gương Của Áp-ra-ham

Vậy chúng ta sẽ nói làm sao về việc Áp-ra-ham, tổ chúng ta theo phần xác, ông đã tìm thấy gì? Vì nếu Áp-ra-ham được tuyên xưng công chính bởi việc làm thì người có cớ để khoe khoang; nhưng trước mặt Đức Chúa Trời không có như vậy. Vì Kinh Thánh nói gì? “Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời và vì thế được kể là công chính.”

Đối với người làm việc thì tiền công không được kể là ơn mà phải kể là nợ; còn đối với người không làm nhưng chỉ tin vào Đấng xưng công chính kẻ vô đạo thì đức tin của người ấy được kể là công chính.

Read full chapter

Áp-ram Được Chúa Chọn

12 CHÚA bảo Áp-ram: “Con hãy rời bỏ quê hương, dân con và nhà cha con để đi đến xứ Ta sẽ chỉ cho.

Ta sẽ làm cho con thành một nước lớn.
    Ta sẽ ban phước lành cho con
Và làm nổi danh con
    Và con sẽ thành một nguồn phước.
Ta sẽ ban phước lành cho ai chúc phước con
    Và rủa sả kẻ nào nguyền rủa con;
Tất cả các dân tộc trên thế giới
    Sẽ nhờ con mà được phước.”

Áp-ram Di Cư Qua Ca-na-an

Áp-ram ra đi đúng theo lời CHÚA truyền bảo. Lót cùng đi với ông. Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời bỏ Cha-ran. Áp-ram đem Sa-rai vợ mình, Lót, cháu mình, tất cả tài sản ông tạo được và các tôi tớ ông đã có được ở Cha-ran ra đi để đến xứ Ca-na-an và vào xứ ấy.

Áp-ram đi qua trong xứ đến tận thành Si-chem, tại cây sồi của Mô-rê. Dân Ca-na-an đang ở tại đó. CHÚA hiện ra, nói với Áp-ram: “Ta sẽ ban cho dòng dõi con vùng đất này!” Tại đây Áp-ram lập một bàn thờ CHÚA, Đấng đã hiện ra với ông.

Từ đó, Áp-ram đến vùng đồi núi ở phía đông Bê-tên và hạ trại ở đó. Ông lập một bàn thờ tại đó, Bê-tên ở phía tây và A-hi ở phía đông rồi ông cầu khẩn danh CHÚA. Áp-ram di chuyển dần xuống Nê-ghép[a].

Read full chapter

Footnotes

  1. 12:9 phía nam của Giu-đê

Áp-ram Và Lót Chia Tay

13 Vậy, Áp-ram từ Ai-cập đi lên cùng với vợ, Lót và tất cả tài sản mình, đến Nê-ghép. Áp-ram trở nên rất giàu có về gia súc, bạc và vàng.

Từ Nê-ghép, ông tiếp tục cuộc hành trình đến Bê-tên, nơi ông hạ trại lần trước, giữa hai thành Bê-tên và A-hi, chỗ ông đã lập bàn thờ đầu tiên. Tại đây, Áp-ram cầu khẩn danh CHÚA.

Lót cùng đi với Áp-ram, ông cũng có các bầy chiên, bầy bò và lều trại. Vì tài sản của họ trở nên quá nhiều, đất đai không còn đủ, nên họ không thể ở chung một nơi được nữa. Có sự tranh chấp nổi lên giữa những người chăn súc vật của Áp-ram và của Lót. Lúc đó dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít sống ở trong xứ.

Áp-ram nói với Lót: “Không nên có tranh chấp giữa bác và cháu, giữa những người chăn súc vật của bác và của cháu, vì chúng ta là bà con với nhau. Cả xứ ở trước mặt cháu đó; chúng ta hãy tách ra. Nếu cháu chọn bên trái, bác sẽ qua bên phải; nếu cháu chọn bên phải, bác sẽ qua bên trái.”

10 Lót ngước mắt lên và nhìn thấy toàn thể đồng bằng sông Giô-đanh, (trước khi CHÚA hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ), có nước xanh tươi như vườn của CHÚA, như đất Ai-cập, đến tận thành Xoa, 11 nên Lót chọn cho mình toàn thể đồng bằng sông Giô-đanh và dời về hướng đông. Hai bác cháu chia tay nhau. 12 Áp-ram cư ngụ trong đất Ca-na-an, còn Lót cư ngụ trong các thành của đồng bằng, ông đóng trại gần Sô-đôm. 13 Dân thành Sô-đôm lúc bấy giờ rất gian ác, tội lỗi, nghịch lại CHÚA.

14 Sau khi Lót rời đi, CHÚA nói với Áp-ram: “Từ chỗ con đang ở, con hãy ngước mắt lên nhìn bốn hướng đông, tây, nam, bắc. 15 Tất cả đất đai con nhìn thấy, Ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đời đời. 16 Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông đảo như bụi trên đất, ai đếm được bụi trên đất thì có thể đếm được dòng dõi của con. 17 Con hãy đứng lên, đi dọc ngang khắp xứ vì Ta ban nó cho con.”

18 Áp-ram dời trại đi đến sống gần những cây sồi ở Mam-rê tại Hếp-rôn và lập một bàn thờ CHÚA.

Read full chapter

Giao Ước Với Áp-ram

15 Sau các việc đó, CHÚA phán bảo Áp-ram trong khải tượng:

“Áp-ram, con đừng sợ,
    Ta sẽ là cái khiên bảo vệ con,
    Là phần thưởng rất lớn cho con.”

Nhưng Áp-ram nói: “Lạy CHÚA, CHÚA sẽ cho con điều gì? Con vẫn không có con và Ê-li-ê-se, người Đa-mách sẽ thừa hưởng sản nghiệp của con.” Áp-ram tiếp: “Chúa chẳng cho con con cái, nên một đầy tớ sinh ra trong nhà con sẽ thừa kế con!”

CHÚA đáp: “Đó không phải là người thừa kế, một con trai ra từ con sẽ là người thừa kế của con!” CHÚA đem Áp-ram ra sân và bảo: “Con hãy nhìn lên bầu trời và thử đếm sao đi, nếu con đếm được!” Rồi Ngài nói với ông: “Dòng dõi con sẽ đông như thế.”

Áp-ram tin CHÚA, nên Ngài kể cho người là công chính.

Read full chapter

18 Ngày hôm ấy, CHÚA kết ước với Áp-ram rằng: “Ta đã ban cho dòng dõi con đất này, từ khe Ai-cập đến sông cái Ơ-phơ-rát,

Read full chapter

Chúa Xác Nhận Giao Ước Với Áp-ram

17 Khi Áp-ram được chín mươi chín tuổi, CHÚA xuất hiện và phán: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng, con hãy sống một cách thánh thiện trước mặt Ta. Ta sẽ lập giao ước giữa Ta với con và sẽ làm cho dòng dõi con gia tăng bội phần.”

Áp-ram sấp mặt xuống đất, Đức Chúa Trời nói với ông: “Về phần Ta, đây là giao ước của Ta với con: con sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc. Người ta không gọi con là Áp-ram ‘cha tôn quý’ nữa, nhưng gọi là Áp-ra-ham ‘cha của các dân tộc’ vì Ta cho con làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta làm cho con sinh sôi nẩy nở thành nhiều dân tộc, hậu tự con gồm nhiều vua chúa. Ta lập giao ước này với con và hậu tự con đời này sang đời khác. Giao ước này còn mãi đời đời: Ta làm Đức Chúa Trời của con và của hậu tự con. Ta sẽ cho con và hậu tự con toàn thể đất Ca-na-an mà con đang kiều ngụ làm sản nghiệp vĩnh viễn, Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ.”

Lễ Cắt Bì

Rồi Đức Chúa Trời nói với Áp-ra-ham: “Con và hậu tự con phải giữ giao ước của Ta đời đời. 10 Giao ước của Ta với con và dòng dõi con là tất cả người nam trong vòng các con phải chịu lễ cắt bì:

Read full chapter

23 Ngày hôm ấy, Áp-ra-ham cắt bì cho Ích-ma-ên, con trai mình, và tất cả những người nam sinh trong nhà hay nô lệ ông đã mua về, đúng theo lời Đức Chúa Trời phán dạy.

Read full chapter

23 Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Đức Chúa Trời là sự sống vĩnh phúc trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta.

Read full chapter

Ngay vua Đa-vít cũng nói như vậy về phước hạnh của người mà Đức Chúa Trời kể là công chính không bởi việc làm:

“Phước cho người
    Được tha vi phạm,
    Được khỏa lấp tội lỗi;
Phước cho những ai
    Mà Chúa sẽ chẳng bắt tội.”[a]

Read full chapter

Footnotes

  1. 4:8 Thi 32:1-2

Thánh Thi Đa-vít Để Dạy Dỗ

32 Phước cho người nào
    Có sự vi phạm được tha thứ,
    Tội lỗi mình được khỏa lấp.
Phước cho người nào
    CHÚA không quy tội ác cho,
    Và trong tâm linh không có sự gian dối.
Khi tôi nín lặng,
    Xương cốt tôi tiêu mòn
    Và rên siết suốt ngày.
Vì ngày đêm,
    Tay Ngài đè nặng trên tôi,
Sinh lực[a] tôi tiêu hao[b]
    Như sương gặp nắng hạ.
Tôi đã thú tội cùng Ngài,
    Không giấu tội ác tôi.
Tôi nói: “Tôi sẽ xưng
    Các sự vi phạm tôi cùng CHÚA,
Và Ngài đã tha thứ
    Tội lỗi gian ác tôi.”
Vì vậy, hết thảy những người trung tín,[c]
    Hãy cầu nguyện cùng Ngài đang khi có thể gặp được.
Dù khi có nước lụt lớn dâng lên
    Cũng không đụng đến người.
Ngài là nơi trú ẩn cho tôi,
    Ngài gìn giữ tôi khỏi hoạn nạn,
    Ngài bao phủ tôi bằng những bài ca[d] giải cứu.
Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải đi.
    Mắt Ta hằng chăm nom, cố vấn ngươi.[e]
Đừng như con ngựa, con la,
    Là vật vô tri;
Phải dùng hàm thiếc, dây cương để kiềm chế miệng nó.
    Nếu không, chúng sẽ không đến gần ngươi.
10 Kẻ ác có nhiều nỗi đau đớn,
    Nhưng người tin cậy CHÚA
    Được tình yêu thương bao phủ họ.
11 Hỡi những người trung tín,
    Hãy vui mừng và hân hoan trong CHÚA.
Hỡi những người có lòng ngay thẳng,
    Hãy reo mừng.

Footnotes

  1. 32:4 Nt: nước cốt
  2. 32:4 Nt: thay đổi
  3. 32:6 Ctd: các thánh; người kính sợ Chúa
  4. 32:7 Ctd: tiếng hô vang
  5. 32:8 Nt: mắt ta trên ngươi

Vua Đa-vít Phạm Tội Tà Dâm

11 Một năm sau khi các vua[a] ra quân[b] vua Đa-vít sai tướng Giô-áp và triều thần lãnh đạo toàn quân Y-sơ-ra-ên đi chinh chiến. Họ đánh bại quân Am-môn và vây hãm kinh đô Ráp-ba. Còn vua Đa-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem.

Một buổi chiều kia, vua Đa-vít nghỉ trưa xong, thức dậy, đi dạo trên sân thượng cung điện; từ sân thượng vua nhìn thấy một phụ nữ đang tắm. Nàng rất đẹp. Vua Đa-vít sai người dò hỏi về nàng. Người ta tâu: “Đó chính là bà Bát-sê-ba, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia, người Hê-tít.” Vua Đa-vít sai người đón nàng vào cung. Lúc ấy, nàng vừa thanh tẩy mình sau kỳ kinh nguyệt. Khi nàng đến, vua nằm với nàng. Rồi nàng trở về nhà. Sau đó, nàng thụ thai và sai người báo tin cho vua Đa-vít: “Tôi có thai.”

Vua Đa-vít liền sai người mang lệnh vua cho tướng Giô-áp: “Hãy bảo U-ri-gia, người Hê-tít, về gặp ta.” Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về chầu vua Đa-vít. Khi ông U-ri-gia đến chầu vua, vua Đa-vít hỏi thăm tin tức về tướng Giô-áp, về binh sĩ, và tình hình chiến sự. Rồi vua Đa-vít bảo ông U-ri-gia: “Ngươi hãy về nhà nghỉ ngơi đôi chút”[c] Ông U-ri-gia rời khỏi cung điện. Vua sai người mang quà[d] đến nhà cho ông. Nhưng ông U-ri-gia không về nhà. Ông nằm ngủ tại cổng hoàng cung chung với tất cả các cận vệ của chủ ông.

10 Khi vua Đa-vít hay tin ông U-ri-gia không có về nhà, vua hỏi ông: “Ngươi đi đường xa mới về, sao ngươi không về nhà?”

11 Ông U-ri-gia tâu với vua Đa-vít: “Rương Giao Ước và các chiến sĩ Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều ở trong lều;[e] trong khi tướng Giô-áp chủ tôi, và các đầy tớ của ông đều cắm trại ngoài đồng, lẽ nào tôi lại về nhà tôi, ăn uống và ngủ với vợ tôi sao? Tôi xin thề với bệ hạ tôi không bao giờ làm một chuyện như vậy!”

12 Vua Đa-vít bảo: “Hãy ở lại đây hôm nay nữa, rồi ngày mai ta sẽ cho ngươi đi.” Vậy ông U-ri-gia ở lại thành Giê-ru-sa-lem ngày hôm ấy. Ngày hôm sau, 13 vua Đa-vít mời ông U-ri-gia đến. Ông dùng bữa với vua, vua ép ông uống cho thật say, nhưng đến chiều, ông vẫn không về nhà. Ông ra ngoài nằm ngủ trên chiếu của mình, bên cạnh mấy người cận vệ của vua.

Vua Đa-vít Phạm Tội Giết Người

14 Sáng hôm sau, vua Đa-vít viết thơ gởi ông U-ri-gia cầm về cho tướng Giô-áp. 15 Trong thơ, vua viết như thế này: “Hãy đặt U-ri-gia ở ngay hàng đầu, chỗ trận chiến ác liệt nhất, rồi các ngươi hãy lui xa ra, để cho U-ri-gia bị trúng thương mà tử trận.”

16 Vậy, trong lúc vây thành, ông Giô-áp đặt ông U-ri-gia ở ngay chỗ ông biết quân địch có chiến sĩ hùng mạnh. 17 Khi quân trong thành xông ra giao chiến với quân của ông Giô-áp, một vài người trong số các cận thần của vua Đa-vít, bị tử trận. Ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.

18 Ông Giô-áp sai người báo cáo cho vua Đa-vít biết mọi sự về tình hình chiến trận. 19 Ông dặn người đem tin: “Khi anh báo cáo cho vua nghe xong mọi việc về tình hình chiến trận, 20 có thể vua nổi giận hỏi: ‘Tại sao các ngươi đến gần tường thành như vậy mà giao chiến? Các ngươi không biết rằng quân địch bắn từ trên tường thành xuống sao? 21 Ai giết A-bi-mê-léc, con ông Giê-ru-bê-sết.[f] Phải chăng một người đàn bà từ trên tường thành đã liệng thớt đá xuống trên đầu ông và ông chết tại Thê-bết? Tại sao các ngươi lại đến gần tường thành như vậy?’ Bấy giờ anh hãy tâu: ‘Tôi tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.’ ”

22 Người lính đem tin lên đường; anh đến nơi, báo tin lại cho vua Đa-vít mọi điều ông Giô-áp căn dặn. 23 Anh thưa với vua: “Lúc đầu quân địch mạnh hơn chúng tôi, chúng nó xông vào đánh chúng tôi ngoài đồng, nhưng sau đó chúng tôi đẩy lui chúng về đến cổng thành. 24 Nhưng lính bắn cung từ trên tường thành bắn vào các đầy tớ của vua, và một vài người tử trận; đầy tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.”

25 Vua Đa-vít bảo người đem tin: “Ngươi hãy khuyến khích tướng Giô-áp, khuyên ông đừng buồn phiền về chuyện này, vì lưỡi gươm chém giết khi nhằm người này, lúc người kia. Ngươi hãy khuyên ông ra sức chiến đấu, tấn công và phá hủy thành.”

26 Bà vợ ông U-ri-gia nghe tin chồng tử trận, liền than khóc chồng. 27 Sau khi mãn tang, vua Đa-vít sai người đón bà về cung. Bà trở thành vợ vua, và sanh cho vua một con trai. Nhưng điều Đa-vít đã làm không đẹp lòng CHÚA.

Sứ Điệp Của Tiên Tri Na-than

12 CHÚA sai tiên tri Na-than đi gặp vua Đa-vít. Ông đến gặp vua và nói: “Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, và một người nghèo. Người giàu có rất nhiều đàn chiên dê, và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài một con chiên cái nhỏ mà ông đã mua. Ông nuôi nó, và nó lớn lên trong nhà ông, cùng với con cái ông. Nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, và ngủ trong lòng ông. Ông coi nó như một đứa con gái.

Một ngày kia, có khách đi đường xa đến thăm người giàu. Ông này tiếc, không muốn bắt chiên dê, hoặc bò của mình làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo làm thịt đãi khách.”

Vua Đa-vít bất bình giận dữ về việc làm của người giàu, nói với ông Na-than: “Có CHÚA hằng sống, kẻ nào làm chuyện đó thật đáng chết! Nó phải bồi thường gấp bốn lần[g] giá con chiên cái, vì nó đã làm chuyện đó, và không có lòng thương xót.”

Ông Na-than nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là bệ hạ! CHÚA, là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Chính Ta đã xức dầu cho con làm vua dân Y-sơ-ra-ên, chính Ta đã giải cứu con khỏi tay vua Sau-lơ. Ta ban cho con quyền trên gia đình của chủ con, Ta giao những người vợ của chủ con vào lòng con, Ta ban cho con quyền cai trị dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu chưa đủ, Ta có thể ban cho con nhiều hơn gấp mấy lần nữa. Tại sao con lại khinh dể mạng lịnh của CHÚA, làm điều ác trước mắt Ngài? Con đã dùng gươm giết U-ri-gia, người Hê-tít! Con lấy vợ nó làm vợ con, rồi con dùng gươm của quân Am-môn giết nó! 10 Vậy, lưỡi gươm sẽ không bao giờ lìa khỏi nhà con, vì con đã khinh dể Ta, lấy vợ của U-ri-gia người Hê-tít làm vợ con.’

11 CHÚA phán như vầy: ‘Này, Ta sẽ khiến chính người nhà của con gây họa cho con. Ngay trước mắt con, Ta sẽ bắt các vợ của con và giao cho một người thân cận của con, và nó sẽ ngủ với các vợ của con giữa ban ngày, trước mắt mọi người. 12 Con đã hành động lén lút, nhưng Ta sẽ làm việc này ngay giữa ban ngày, trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên.’ ”

13 Vua Đa-vít thú nhận với ông Na-than: “Tôi có tội với CHÚA.” Ông Na-than đáp: “Phải, nhưng CHÚA đã tha thứ cho bệ hạ, và bệ hạ sẽ không chết. 14 Tuy nhiên, vì bệ hạ đã tỏ ra khinh thường CHÚA[h] trong vụ này, nên bé trai vừa sanh ra cho bệ hạ sẽ phải chết.”

15 Nói xong, ông Na-than trở về nhà.

Con Trai Bà Bát-sê-ba Chết

CHÚA khiến cho đứa bé bà vợ ông U-ri-gia vừa sanh ra cho vua Đa-vít lâm bệnh nặng. 16 Vua Đa-vít nài xin Đức Chúa Trời chữa lành cho đứa bé; vua nhịn ăn, và ban đêm, vua về phòng nằm dưới đất suốt đêm. 17 Các cận thần phục vụ lâu năm trong hoàng cung chầu chực bên cạnh vua, nài nỉ xin đỡ vua dậy, nhưng vua không chịu; vua cũng chẳng ăn chút gì với họ.

18 Đến ngày thứ bảy, đứa bé chết. Các cận thần sợ, không dám báo cho vua Đa-vít hay tin đứa bé chết, vì họ bảo nhau: “Khi đứa bé còn sống, vua đã chẳng chịu nghe chúng ta khuyên giải. Làm sao chúng ta dám báo cho vua hay là đứa bé chết? Vua có thể làm liều!”

19 Thấy triều thần thì thầm với nhau, vua Đa-vít biết là đứa bé đã chết.

Vua hỏi triều thần: “Đứa bé chết rồi, phải không?” Họ thưa: “Tâu phải.”

20 Vua Đa-vít chỗi dậy khỏi đất, tắm rửa, xức dầu thơm; thay quần áo xong, vua vào Lều của CHÚA, sấp mình xuống thờ phượng. Rồi vua trở về cung, truyền dọn thức ăn. Khi người ta dọn lên, vua dùng ngay.

21 Triều thần thưa với vua: “Chúng tôi không hiểu tại sao bệ hạ hành động như vậy. Khi đứa bé còn sống, bệ hạ nhịn ăn và khóc lóc. Nhưng ngay khi đứa bé chết, bệ hạ lại chỗi dậy và ăn.”

22 Vua đáp: “Khi đứa bé còn sống, ta nhịn ăn và khóc lóc, vì ta tự nhủ: ‘Biết đâu CHÚA thương xót ta và Ngài cho đứa bé được sống.’ 23 Nhưng bây giờ nó chết rồi, ta còn nhịn ăn làm gì nữa? Ta có thể nào đem nó trở lại dương gian này được không? Chính ta sẽ đi đến nơi nó ở, chớ nó không thể trở về với ta được.”

Vua Sa-lô-môn Ra Đời

24 Vua Đa-vít an ủi bà Bát-sê-ba, vợ mình. Vua đến với nàng và ngủ với nàng. Nàng sanh một con trai, vua đặt tên là Sa-lô-môn. CHÚA yêu thương đứa bé 25 và sai tiên tri Na-than đến báo cho vua Đa-vít biết CHÚA đặt tên đứa bé là Giê-đi-đê-gia, vì Ngài yêu thương nó.

Những Năm Hoạn Nạn

26 Trong khi đó, tướng Giô-áp tấn công thành Ráp-ba, kinh đô của dân Am-môn, và sắp chiếm được kinh thành. 27 Ông Giô-áp sai lính về tâu với vua Đa-vít: “Tôi đang tấn công kinh đô Ráp-ba, và tôi đã chiếm được thành lũy bảo vệ nơi dự trữ nước của kinh thành. 28 Bây giờ, xin bệ hạ tập hợp số binh sĩ còn lại, đến bao vây và chiếm kinh đô, kẻo chính tôi chiếm nó, và nó mang tên tôi.”

29 Vua Đa-vít tập hợp toàn quân, kéo đến đánh thành Ráp-ba, và chiếm được. 30 Vua lột vương miện trên đầu tượng thần Minh-côm[i] ra, đặt lên đầu mình; vương miện bằng vàng, nặng khoảng một ta-lâng,[j] và có một viên ngọc quý.[k] Vua cũng đem đi rất nhiều chiến lợi phẩm lấy được từ trong thành. 31 Vua cũng đưa dân trong thành đi lao động, bắt họ sử dụng cưa, bừa sắt, rìu sắt, và đúc gạch. Vua xử như vậy với mọi thành của dân Am-môn. Rồi vua Đa-vít và toàn quân trở về thành Giê-ru-sa-lem.

Footnotes

  1. 11:1 Nt: các sứ giả; xem 10:2, 6-8
  2. 11:1 Các dịch giả KT khác thường hiểu là: “Xuân về là lúc các vua thường ra quân”
  3. 11:8 Nt: về nhà rửa chân đi
  4. 11:8 Ctd: thức ăn
  5. 11:11 Ctd: đóng quân ở Xu-cốt
  6. 11:21 Thẩm 7:1 gọi là Giê-ru-ba-anh, một tên khác của Ghi-đê-ôn
  7. 12:6 Xuất 22:1; LXX: “bảy lần,” theo Châm 6:31
  8. 12:14 nt: “kẻ thù của CHÚA”; các học giả thêm vào hai từ “kẻ thù” khi sao lại các cổ bản KT vì họ muốn tránh câu “khinh thường CHÚA”; xem 1Sa 25:22
  9. 12:30 Dân Am-môn thờ thần Minh-côm; ctd: “trên đầu vua chúng”
  10. 12:30 Khoảng 30kg
  11. 12:30 Cổ bản A-ram, La-tinh và Syriac: nhiều viên ngọc quý

Thánh Thi Đa-vít Để Dạy Dỗ

32 Phước cho người nào
    Có sự vi phạm được tha thứ,
    Tội lỗi mình được khỏa lấp.
Phước cho người nào
    CHÚA không quy tội ác cho,
    Và trong tâm linh không có sự gian dối.
Khi tôi nín lặng,
    Xương cốt tôi tiêu mòn
    Và rên siết suốt ngày.
Vì ngày đêm,
    Tay Ngài đè nặng trên tôi,
Sinh lực[a] tôi tiêu hao[b]
    Như sương gặp nắng hạ.
Tôi đã thú tội cùng Ngài,
    Không giấu tội ác tôi.
Tôi nói: “Tôi sẽ xưng
    Các sự vi phạm tôi cùng CHÚA,
Và Ngài đã tha thứ
    Tội lỗi gian ác tôi.”
Vì vậy, hết thảy những người trung tín,[c]
    Hãy cầu nguyện cùng Ngài đang khi có thể gặp được.
Dù khi có nước lụt lớn dâng lên
    Cũng không đụng đến người.
Ngài là nơi trú ẩn cho tôi,
    Ngài gìn giữ tôi khỏi hoạn nạn,
    Ngài bao phủ tôi bằng những bài ca[d] giải cứu.
Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải đi.
    Mắt Ta hằng chăm nom, cố vấn ngươi.[e]
Đừng như con ngựa, con la,
    Là vật vô tri;
Phải dùng hàm thiếc, dây cương để kiềm chế miệng nó.
    Nếu không, chúng sẽ không đến gần ngươi.
10 Kẻ ác có nhiều nỗi đau đớn,
    Nhưng người tin cậy CHÚA
    Được tình yêu thương bao phủ họ.
11 Hỡi những người trung tín,
    Hãy vui mừng và hân hoan trong CHÚA.
Hỡi những người có lòng ngay thẳng,
    Hãy reo mừng.

Footnotes

  1. 32:4 Nt: nước cốt
  2. 32:4 Nt: thay đổi
  3. 32:6 Ctd: các thánh; người kính sợ Chúa
  4. 32:7 Ctd: tiếng hô vang
  5. 32:8 Nt: mắt ta trên ngươi

Tiên Tri Na-than Đến Gặp Đa-vít Sau Khi Người Đến Với Bà Bát-sê-ba

51 Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi
    Tùy theo tình yêu thương Chúa.
Vì lòng thương xót dư dật của Ngài,
    Xin xóa bỏ các vi phạm tôi.
Xin rửa sạch mọi gian ác tôi,
    Và luyện sạch các tội lỗi tôi.
Vì tôi nhận biết các vi phạm tôi,
    Tội lỗi tôi hằng ở trước mặt tôi.
Tôi đã phạm tội cùng Ngài, chỉ một mình Ngài thôi.
    Tôi đã làm điều ác trước mặt Ngài,
Cho nên Ngài là công bình khi tuyên án,
    Ngài là chính đáng[a] khi phán xét.
Thật vậy,[b] tôi vốn gian ác từ khi sinh ra,[c]
    Tôi vốn tội lỗi từ khi được hoài thai trong bụng mẹ.[d]
Này, Ngài muốn sự chân thật nơi bề trong cũng như nơi sâu kín của lòng tôi.
    Xin Ngài dạy tôi sự khôn ngoan.[e]
Xin Ngài dùng nhánh bài hương tẩy sạch tôi, thì tôi sẽ tinh sạch.
    Xin Ngài rửa tôi thì tôi sẽ trắng hơn tuyết.
Xin cho tôi nghe tiếng vui vẻ và mừng rỡ,
    Nguyện xương cốt mà Ngài đã đánh gẫy được vui mừng.
Xin Ngài ngoảnh mặt đừng để ý đến các tội lỗi tôi,
    Và xóa bỏ mọi gian ác tôi.
10 Đức Chúa Trời ôi, xin tạo nên trong tôi một tấm lòng trong sạch
    Và làm mới lại trong tôi một tâm linh chân chính.[f]
11 Xin chớ xua đuổi tôi khỏi trước mặt Ngài,
    Cũng đừng cất thánh linh Ngài khỏi tôi.
12 Xin phục hồi cho tôi niềm vui của sự cứu rỗi Ngài.
    Xin ban cho tôi một tinh thần sẵn sàng để giữ vững tôi.[g]
13 Tôi sẽ dạy các đường lối Ngài cho những kẻ vi phạm,
    Và những kẻ tội lỗi sẽ quay về cùng Ngài.
14 Lạy Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời cứu rỗi tôi,
    Xin giải cứu tôi khỏi tội đổ huyết[h]
    Thì lưỡi tôi sẽ lớn tiếng ca ngợi sự công chính Ngài.
15 Lạy Chúa, xin mở môi tôi,
    Thì miệng tôi sẽ ca ngợi Ngài.
16 Vì Ngài không vui lòng về tế lễ hy sinh,
    Bằng không tôi đã dâng.[i] Tế lễ thiêu Ngài cũng không thích.
17 Tế lễ hy sinh đẹp lòng Đức Chúa Trời[j] là tâm thần tan vỡ.
    Đức Chúa Trời ôi, tấm lòng ăn năn tan vỡ
    Ngài không khinh bỉ đâu.
18 Theo lòng nhân từ Ngài, xin ban phúc lành[k] cho Si-ôn.
    Xin xây dựng[l] các tường thành Giê-ru-sa-lem.
19 Bấy giờ, Ngài sẽ vui lòng về các tế lễ công chính,[m]
    Tế lễ thiêu và tế lễ toàn thiêu.
    Bấy giờ, bò đực sẽ được dâng trên bàn thờ Ngài.

Footnotes

  1. 51:4 Ctd: không có gì đáng trách
  2. 51:5 Ctd: kìa
  3. 51:5 Nt: tôi sinh ra trong gian ác
  4. 51:5 Nt: mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi
  5. 51:6 Ctd: Này, Ngài muốn sự thật nơi bề trong, xin dạy tôi sự khôn ngoan
  6. 51:10 Ctd: vững chắc
  7. 51:12 Ctd: xin ban cho tôi một thần linh sẵn sàng để nâng đỡ tôi
  8. 51:14 Ctd: khỏi phạm tội đổ huyết
  9. 51:16 Ctd: nếu tôi có dâng tế lễ thiêu Ngài cũng không thích
  10. 51:17 Nt: tế lễ hy sinh của Đức Chúa Trời
  11. 51:18 Ctd: thịnh vượng
  12. 51:18 Ctd: xây dựng lại
  13. 51:19 Ctd: “các tế lễ đúng nghi thức” hoặc “các tế lễ dâng trong tinh thần công chính”

19 Thật vậy, Đức Chúa Trời đã giải hòa với nhân loại trong Chúa Cứu Thế; không còn kể những vi phạm của loài người nữa và giao cho chúng ta sứ điệp giải hòa. 20 Vậy chúng tôi là đại sứ của Chúa Cứu Thế, như thể Đức Chúa Trời nhờ chúng tôi mà khuyên bảo. Nhân danh Chúa Cứu Thế chúng tôi van nài anh chị em hãy hòa giải với Đức Chúa Trời. 21 Đức Chúa Trời đã làm cho Chúa Cứu Thế, Đấng vốn chẳng biết tội lỗi, trở nên tội lỗi vì chúng ta để nhờ ở trong Chúa Cứu Thế chúng ta trở nên công chính trong Đức Chúa Trời.

Read full chapter

Vậy phước lành này chỉ ban cho người chịu cắt bì thôi hay cũng cho cả người không chịu cắt bì nữa? Vì chúng ta nói: “Bởi đức tin Áp-ra-ham được kể là công chính.”[a] 10 Vậy người được kể là công chính như thế nào? Sau khi đã chịu cắt bì hay trước khi chịu cắt bì? Không phải sau mà là trước khi chịu cắt bì. 11 Người đã nhận dấu cắt bì là dấu ấn cho sự công chính bởi đức tin mà người đã có khi chưa chịu cắt bì. Như vậy, Áp-ra-ham trở thành cha mọi người tin mà không cắt bì và họ cũng được kể là công chính, 12 và cũng làm cha những người chịu cắt bì, là những người không phải chỉ chịu cắt bì thôi nhưng cũng bước theo dấu chân đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham chúng ta khi người chưa chịu cắt bì nữa.

Lời Hứa Thực Hiện Qua Đức Tin

13 Vì lời hứa cho Áp-ra-ham hay cho dòng dõi người rằng người sẽ thừa hưởng thế giới không phải bởi tuân giữ Kinh Luật nhưng bởi sự công chính đến từ đức tin. 14 Vì nếu nhờ tuân giữ Kinh Luật mà thừa hưởng cơ nghiệp thì đức tin thành vô ích, và lời hứa trở nên vô hiệu lực. 15 Vì Kinh Luật gây ra thịnh nộ, ở đâu không có Kinh Luật thì cũng không có sự vi phạm.

Read full chapter

Footnotes

  1. 4:9 Sáng 15:6

Áp-ram tin CHÚA, nên Ngài kể cho người là công chính.

Read full chapter

13 CHÚA bảo Áp-ram: “Con phải biết chắc rằng dòng dõi con sẽ kiều ngụ nơi đất khách quê người, phải phục dịch dân bản xứ và bị áp bức bốn trăm năm. 14 Nhưng Ta sẽ trừng phạt quốc gia mà dòng dõi con phục dịch. Sau đó, dòng dõi con sẽ thoát ra và đem theo rất nhiều của cải. 15 Còn con sẽ sống rất thọ, được về với tổ phụ con cách bình an và được chôn cất. 16 Đến đời thứ tư, dòng dõi con sẽ quay lại đây vì hiện nay tội ác dân A-mô-rít chưa đầy trọn.”

Chúa Hứa Ban Sản Nghiệp

17 Khi mặt trời đã lặn hẳn và bóng tối phủ xuống, bỗng có một lò lửa bốc khói và một ngọn lửa cháy phừng đi qua giữa các sinh tế bị phân đôi. 18 Ngày hôm ấy, CHÚA kết ước với Áp-ram rằng: “Ta đã ban cho dòng dõi con đất này, từ khe Ai-cập đến sông cái Ơ-phơ-rát,

Read full chapter

Áp-ram Và A-ga

16 Lúc ấy, Sa-rai, vợ Áp-ram không sinh con được. Bà có một đầy tớ gái người Ai-cập tên là A-ga. Sa-rai nói với Áp-ram: “Vì CHÚA không cho tôi sinh con, ông hãy ăn ở với con đầy tớ của tôi đi; có lẽ nhờ nó tôi có thể có được con cái.”

Áp-ram nghe theo lời Sa-rai. Thế là sau mười năm kiều ngụ tại xứ Ca-na-an, Sa-rai đưa A-ga, người đầy tớ gái Ai-cập của mình, cho Áp-ram làm vợ. Áp-ram ăn ở với A-ga và nàng thụ thai.

Biết mình đã có thai, A-ga khinh bỉ bà chủ mình.

Read full chapter

16 Áp-ram đã được tám mươi sáu tuổi khi A-ga sinh Ích-ma-ên cho ông.

Read full chapter

25 còn Ích-ma-ên lên mười ba khi chịu cắt bì. 26 Áp-ra-ham và con là Ích-ma-ên chịu cắt bì cùng trong một ngày,

Read full chapter

Kinh Luật Và Lời Hứa

15 Thưa anh chị em, tôi nói theo cách của loài người: Khi một giao ước đã lập thì không ai có quyền hủy bỏ hay thêm bớt điều gì. 16 Về các lời hứa đã được ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: Cho các dòng dõi ngươi, như là cho nhiều người, nhưng nói: Cho dòng dõi ngươi, như là cho một người tức là Chúa Cứu Thế.[a] 17 Tôi muốn nói thế này: Giao ước đã được Đức Chúa Trời thiết lập thì Kinh Luật, là điều mãi bốn trăm ba mươi năm sau mới có, không thể hủy bỏ giao ước đó và làm cho lời hứa trở nên vô hiệu được. 18 Vì nếu bởi Kinh Luật mà hưởng gia tài thì không còn nhờ lời hứa nữa. Nhưng Đức Chúa Trời đã dùng lời hứa để ban ân phúc cho Áp-ra-ham.

Read full chapter

Footnotes

  1. 3:16 Sáng 13:15; 17:7

16 Cho nên bởi đức tin thì lời hứa mới dựa trên ân sủng và được bảo đảm cho toàn thể dòng dõi, không phải chỉ cho dòng dõi sống theo Kinh Luật mà cho cả dòng dõi có đức tin như Áp-ra-ham, tổ phụ của tất cả chúng ta, 17 như Kinh Thánh chép: “Ta đã lập ngươi làm cha nhiều dân tộc.”[a] Trước mặt Đức Chúa Trời, Đấng người đã tin, Đấng làm cho kẻ chết sống lại và định những điều chưa có như có rồi.[b]

18 Người vẫn tin trong hy vọng dù không còn gì để hy vọng, nên người trở thành cha của nhiều dân tộc như lời đã phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế;” 19 người không giảm sút đức tin khi thấy thân thể mình cũng như dạ bà Sa-ra như đã chết, vì người đã gần một trăm tuổi; 20 Người không vì lòng vô tín mà nghi ngờ lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng được mạnh mẽ trong đức tin tôn vinh Đức Chúa Trời 21 và hoàn toàn tin chắc rằng điều gì Đức Chúa Trời đã hứa thì Ngài cũng có đủ quyền năng làm được. 22 Vì thế người được kể là công chính. 23 Câu: “người được kể là công chính” không phải được ghi lại chỉ vì một mình người mà thôi, 24 nhưng cũng vì chúng ta nữa, những người Ngài sẽ kể là công chính, là những người tin vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su, Chúa chúng ta, từ chết sống lại, 25 Ngài bị nộp cho chết vì tội lỗi chúng ta và được làm cho sống lại để chúng ta được xưng công chính.

Read full chapter

Footnotes

  1. 4:17 Sáng 17:5
  2. 4:17 Ctd: khiến cái chưa hiện hữu thành hiện hữu