Print Page Options

Hình Phạt của Si-ôn

(Theo mẫu tự Hê-bơ-rơ)

Hỡi ôi, vàng thật mà lại mờ, vàng ròng mà lại đổi màu!

Những tảng đá của nơi thánh sao lại nằm rải rác khắp đầu đường góc phố thế này?

Hỡi ôi, những đứa con yêu quý của Si-ôn đáng giá vàng ròng,

Nay sao lại bị xem như các bình đất do tay thợ gốm làm ra như thế?

Ngay cả lang sói còn biết đưa vú cho con chúng bú,

Nhưng các phụ nữ của dân tôi hung dữ tựa đà điểu trong đồng hoang.

Lưỡi các ấu nhi dính vào hốc miệng chúng vì khát sữa;

Các trẻ thơ van xin cơm bánh nhưng chẳng ai cho chúng thứ gì.

Những người từng ăn cao lương mỹ vị giờ chết đói trên các đường phố;

Những người từng được lớn lên trong nhung lụa giờ phải lăn lộn giữa các đống phân tro.

Vì hình phạt dành cho Ái Nữ của dân tôi thật nặng hơn hình phạt dành cho Sô-đôm,

Thành đã bị lật đổ trong phút chốc mà chẳng cần ai nhúng tay vào.

Các con nhà quyền quý của nàng mới ngày nào còn tinh khiết hơn tuyết, trắng ngần hơn sữa,

Thân hình của họ hồng hào hơn san hô, nước da mịn màng đẹp như bích ngọc.

Thế mà nay mặt họ đen đúa hơn lọ nồi;

Gặp họ ngoài đường, không ai nhận ra được họ;

Họ chỉ còn da bọc xương,

Thân thể họ gầy khô như khúc củi.

Những kẻ chết vì gươm được may mắn hơn những kẻ chết vì đói,

Bởi đói làm cho gầy yếu, kiệt sức, vì không được ăn hoa quả của ruộng đồng.

10 Những người mẹ vốn hy sinh cho con cái bây giờ lại tự tay nấu thịt chính con mình;

Thịt của những đứa con đã trở thành thức ăn cho mẹ chúng khi Ái Nữ của dân tôi bị tiêu diệt.

11 Chúa trút hết cơn thịnh nộ của Ngài;

Ngài đổ hết cơn giận của Ngài ra;

Ngài nhen lên một ngọn lửa ở Si-ôn,

Và nó thiêu rụi những nền ở đó.

12 Các vua thế gian và mọi dân trên đất không thể tin rằng địch quân và những kẻ thù có thể tiến vào các cổng thành Giê-ru-sa-lem.

13 Nhưng vì tội lỗi của các tiên tri nàng và những gian ác của các tư tế nàng mà điều đó đã xảy ra;

Họ đã làm đổ máu những người ngay lành vô tội ngay giữa thành.

14 Họ như những người mù đi lang thang trong các đường phố,

Mình mẩy đầy máu me đến nỗi không ai dám đụng đến y phục họ.

15 Trông thấy họ người ta la lên, “Cút đi! Quân ô uế! Cút đi! Cút đi! Chớ đụng đến!”

Vì thế họ phải bỏ xứ trốn đi và lang thang ra ngoại quốc;

Nhưng ở giữa các dân ngoại, người ta cũng bảo, “Các người không được ở đây nữa.”

16 Chính Chúa đã rải họ ra,

Ngài chẳng quan tâm đến họ nữa;

Các tư tế chẳng được ai tôn trọng,

Các trưởng lão chẳng còn được đặc ân.

17 Phần chúng tôi, mắt chúng tôi đã mỏi mòn trông đợi,

Ðợi chờ sự cứu giúp chẳng bao giờ đến;

Chúng tôi đã nôn nóng ngóng trông,

Trông chờ một cường quốc không có khả năng giải cứu.

18 Mỗi bước chân của chúng tôi quân thù đều dòm ngó,

Ðến nỗi chúng tôi không thể bước ra đường;

Ngày cuối cùng của chúng tôi đã gần,

Ngày tận số của chúng tôi đã trọn,

Thật vậy ngày tận cùng của chúng tôi đã đến.

19 Những kẻ truy đuổi chúng tôi nhanh nhẹn hơn cả đại bàng trên trời xanh;

Chúng rượt theo chúng tôi trên các núi;

Chúng nằm phục kích chúng tôi trong đồng hoang.

20 Người được xức dầu của Chúa;

Người mà chúng tôi coi là lẽ sống của đời chúng tôi;

Người mà chúng tôi nói, “Dưới bóng người chúng tôi sẽ sống giữa các quốc gia,”

Thì nay đã sa vào hố của chúng rồi.

21 Hỡi Ái Nữ của Ê-đôm, kẻ sống trong xứ U-xơ,

Cứ hân hoan và hí hửng đi!

Chén thịnh nộ rồi đến lượt ngươi phải uống;

Ngươi sẽ uống say và tự cởi bỏ y phục của ngươi ra.

22 Hỡi Ái Nữ của Si-ôn, hình phạt vì tội của ngươi sẽ chấm dứt;

Ngài sẽ không bắt ngươi đem đi lưu đày nữa;

Nhưng hỡi Ái Nữ của Ê-đôm, tội lỗi ngươi chắc chắn Ngài sẽ phạt,

Ngài sẽ phơi bày những tội của ngươi ra.

Cuộc tấn công vào Giê-ru-sa-lem

Hãy nhìn vàng đã mất vẻ bóng loáng,
    vàng ròng trở thành lu mờ!
Các vật quí [a] trong đền thờ đã bị phân tán ở mỗi góc phố.

Dân cư quí báu ở Giê-ru-sa-lem
    đáng giá hơn vàng,
nhưng nay họ như bình đất sét
    do tay thợ gốm nặn ra.
Chó rừng còn biết cho con mình bú,
    nhưng dân ta [b] hung dữ
    như chim đà điểu trong sa mạc.

Các trẻ thơ bị khát nước
    lưỡi chúng dính nơi vòm họng.
Trẻ con đi xin bánh,
    nhưng chẳng ai cho.

Những kẻ trước đây ăn ngon
    nay chết đói nơi phố chợ.
Những kẻ lớn lên ăn mặc sang trọng
    nay phải đi moi rác.

Dân ta đã bị trừng phạt
    nặng hơn Xô-đôm.
Thành Xô-đôm bị tiêu hủy bất thần,
    không ai giơ tay ra cứu giúp [c].

Các nhà lãnh đạo của chúng ta tinh sạch hơn tuyết, và trắng hơn sữa.
Thân thể họ đỏ hơn hồng ngọc;
    râu họ trông giống như bích ngọc.

Nhưng nay họ đen hơn than,
    không ai còn nhận ra họ ngoài đường nữa.
Họ chỉ còn da bọc xương;
    khô queo như que củi.

Những kẻ bị giết trong chiến tranh
còn may hơn những kẻ bị chết đói.
Họ chết đói trong đau khổ,
    vì ruộng nương không sản xuất ra thực phẩm nữa.

10 Những người đàn bà nấu con cái mình.
Chúng trở thành thức ăn
    khi dân ta bị tiêu diệt.

11 CHÚA đã đổ hết thịnh nộ Ngài;
    trút cơn giận lớn của Ngài ra.
Ngài phóng hỏa Giê-ru-sa-lem,
    thiêu rụi nó đến tận nền.

12 Các vua trên đất và dân cư trên thế giới không tin rằng
các kẻ thù nghịch có thể đặt chân vào cổng thành Giê-ru-sa-lem.

13 Điều đó xảy ra vì các nhà tiên tri phạm tội
    và các thầy tế lễ làm điều ác.
Họ chém giết những người làm điều thiện trong thành.

14 Họ lang thang trong đường phố
    như thể bị mù lòa.
Mình mẩy họ vấy máu,
    không ai dám đụng đến quần áo họ.

15 Dân chúng quát, “Hỡi những kẻ dơ bẩn, hãy đi chỗ khác!”
    “Đi nơi khác, đi đi! Đừng đụng đến chúng ta!”
Vì thế họ chạy đi và lang thang.
    Thậm chí các dân khác cũng nói, “Không được ở đây.”

16 Chính CHÚA đã phân tán họ
    không còn lo cho họ nữa.
Không ai tôn trọng các thầy tế lễ,
    hay kính nể các bô lão.

17 Ngoài ra, mắt chúng ta đã mòn mỏi,
    trông chờ vào một sự cứu giúp không bao giờ đến.
Từ các vọng canh chúng ta trông chừng,
    mong có dân nào đến cứu chúng ta.

18 Các kẻ thù săn lùng chúng ta,
    nên chúng ta không thể đi trong đường phố.
Kết cục của chúng ta đã gần kề.
    Thời gian của chúng ta hết rồi.
Thời kỳ cuối cùng của chúng ta đã đến.

19 Những kẻ rượt đuổi chúng ta
    nhanh hơn chim ưng trên trời.
Chúng đuổi chúng ta vào trong núi
    và phục kích chúng ta trong sa mạc.

20 Vua được CHÚA bổ nhiệm của chúng ta,
    tức hơi thở chúng ta,
    bị rơi vào bẫy của chúng.
Chúng ta nói về vua ấy như sau,
    “Vua sẽ bảo vệ chúng ta, giữa các dân tộc.

21 Hỡi dân Ê-đôm và dân sống trong đất Út-xơ,
    hãy vui vẻ mừng rỡ,
Chén thịnh nộ của Thượng Đế sẽ đến trên các ngươi;
    Rồi các ngươi sẽ say sưa và trần truồng.

22 Hỡi Giê-ru-sa-lem, sự trừng phạt ngươi đã xong rồi.
    Ngươi sẽ không bị bắt làm tù binh nữa.
Nhưng CHÚA sẽ trừng phạt tội lỗi của ngươi, hỡi Ê-đôm;
    Ngài sẽ phơi bày điều ác ngươi ra.”

Footnotes

  1. Ai Ca 4:1 vật quí Hay “đồ trang sức.” Nghĩa của từ ngữ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ không rõ ràng.
  2. Ai Ca 4:3 dân ta Nguyên văn, “con gái của dân ta.”
  3. Ai Ca 4:6 không ai giơ tay ra cứu giúp Hay “mà không do tay người.”

Как почерня златото! измени се най-чистото злато! Камъните на светилището са пръснати край всичките улици.

Драгоценните синове на Сион, равноценни с чисто злато, Как се считат за глинени съдове, дело на грънчарска ръка!

Даже чакалите подават съсци и кърмят малките си; <А> дъщерята на людете ми се ожесточи като камилоптиците в пустинята;

<Защото> езикът на бозайничето се залепя на небцето му от жажда; Децата искат хляб, но няма кой да им отчупи.

Ония, които ядяха отбрани ястия, лежат небрежни в улиците; Възпитаните в мораво прегръщат бунището.

Защото <наказанието> <за> беззаконието на дъщерята на людете ми стана по-голямо от <наказанието за> греха на Содом, Който биде съсипан в един миг, без да са го барали <човешки> ръце.

Благородните й бяха по-чисти от сняг, по-бели от мляко, Снагата им по-червена от рубини, блестяха като сапфир;

<А сега> лицето им е по-черно от сажди; не се познават по улиците! Кожата им залепна за костите им, изсъхна, стана като дърво.

По-щастливи бяха убитите от меч нежели умъртвените от глад; Защото тия чезнат прободени, от липса на полските произведения.

10 Ръцете на милозливите жени свариха чадата им; Те им станаха храна при разорението на дъщерята на людете ми,

11 Господ извърши <възнамереното от Него> <в> яростта Му, изля пламенния Си гняв. Запали огън в Сион, който изпояде основите му.

12 Земните царе не вярваха, нито живущите по целия свят, Че щеше да влезе противник и неприятел в ерусалимските порти.

13 <А това стана> поради греховете на пророците му и поради беззаконията на свещениците му, Които проливаха кръвта на праведните всред него.

14 Те се скитаха като слепи по улиците, оскверниха се с кръв, Тъй щото човеците не можеха да се допират до дрехите им.

15 Отстъпете, вие нечисти, викаха към тях; отстъпете, отстъпете, не се допирайте <до нас>; А когато те бягаха и се скитаха, говореше се между народите: Няма да пришелствуват вече <с нас>.

16 Гневът на Господа ги разпръсна; Той не ще вече да гледа на тях; Свещеническо лице не почетоха, за старци не се смилиха.

17 И до сега очите ни се изнуряват от чакане суетната за нас помощ; Ожидахме народ, който не можеше да спасява.

18 Причакват стъпките ни, така че не можем да ходим по улиците си; Приближи се краят ни; дните ни се изпълниха; да! краят ни дойде.

19 Ония, които ни гонеха, станаха по-леки от небесните орли; Гониха ни по планините, причакваха ни в пустинята.

20 Помазаникът Господен, дишането на ноздрите ни, Тоя, под чиято сянка казвахме, че ще живеем между народите, се хвана в техните ями.

21 Радвай се и весели се, дъщерьо едомска, която живееш в земята Уз! <Обаче> и до тебе ще дойде чашата; ще се опиеш, и ще се заголиш.

22 Свърши се <наказанието за> беззаконието ти, дъщерьо Сионова; Той няма вече да те закара в плен; Но ще накаже твоето беззаконие, дъщерьо едомска, ще открие съгрешенията ти.

Ôi, vàng lu mờ,
    Vàng ròng đã đổi sắc!
Những hòn đá thánh
    Đổ ra ở mọi góc đường!
Ôi, con cái quý chuộng của Si-ôn,
    Đáng giá ngàn vàng.
Nhưng nay coi như đồ sành,
    Việc làm của tay người thợ gốm!
Ngay cả chó rừng cũng đưa vú ra cho con mình bú.
Nhưng con gái dân tôi trở nên độc ác
    Khác nào đà điểu trong đồng vắng!
Lưỡi con trẻ còn bú
    Dính vào họng vì khát.
Trẻ con xin bánh,
    Nhưng không ai chia bánh.
Những kẻ xưa ăn cao lương mỹ vị,
    Nay nằm gục ngoài đường phố.
Những kẻ xưa lớn lên trong nhung lụa.
    Nay ôm đống rác bươi móc.
Sự hình phạt con gái dân tôi
    Nặng hơn hình phạt thành Sô-đôm.
Thành ấy sụp đổ trong chốc lát,
    Bàn tay người không xen vào.
Các bậc quyền thế nàng sạch hơn tuyết, trắng hơn sữa.
Da thịt hồng hào hơn san hô,
    Râu tóc như đá lam bửu.
Nhưng nay diện mạo họ đen hơn lọ,
    Không ai nhận ra họ ngoài đường phố.
Da họ nhăn nheo trên lớp xương,
    Khô héo như củi.
Những kẻ chết vì gươm giáo có phước
    Hơn những kẻ chết vì đói kém:
Họ chết dần mòn, họ bị thương tích,
    Vì thiếu hoa quả của đồng ruộng.
10 Bàn tay của những bà hay thương xót
    Nấu con cái của chính họ.
Thành thức ăn cho chính mình.
    Khi con gái tôi bị hủy diệt.
11 CHÚA đổ hết cơn thịnh nộ.
    Ngài trút hết cơn giận;
Ngài nhen lửa tại Si-ôn,
    Lửa thiêu rụi nền móng thành.
12 Các vua trên đất không tin,
    Mọi người sống trên trần gian cũng không tin.
Rằng kẻ thù địch có thể xâm chiếm
    Cổng thành Giê-ru-sa-lem.
13 Vì cớ tội lỗi của các tiên tri nàng,
    Vì cớ sự gian ác của các thầy tế lễ nàng.
Là kẻ làm đổ ra, ngay giữa thành,
    Máu của người công bình.
14 Chúng đi lảo đảo
    Như người mù ngoài đường phố,
Ô uế vì dính máu.
    Đến nỗi không ai dám sờ đến quần áo chúng.
15 “Đi chỗ khác! Ô uế!” họ thét lên với chúng;
    “Đi! Đi! Chớ sờ đến ta!”
Thế là chúng sống lang thang, trốn chui trốn nhũi,
    Họ nói: “Chúng không được định cư giữa các dân!”
16 Chính CHÚA đã phân tán chúng,
    Ngài không còn đoái xem chúng nữa.
Họ không tôn trọng các thầy tế lễ,
    Cũng không ưu đãi các trưởng lão.
17 Mắt chúng tôi trông đợi mỏi mòn,
    Sự cứu giúp chẳng hề đến.
Chúng tôi ngóng trông, từ vọng canh,
    Một dân tộc chẳng hề cứu giúp.
18 Chúng bám sát chúng tôi từng bước,
    Đến nỗi chúng tôi không thể bước đi ngoài đường phố.
Sự cuối cùng chúng tôi gần kề,
    Số những ngày chúng tôi đã trọn,
    Sự cuối cùng chúng tôi đã đến.
19 Những kẻ săn đuổi chúng tôi nhanh hơn
    Chim đại bàng trên trời,
Chúng lùng bắt chúng tôi trên núi,
    Rình rập chúng tôi trong đồng vắng.
20 Hơi thở chúng tôi, người mà CHÚA xức dầu,
    Đã sập bẫy của chúng.
Chúng tôi từng nói về người:
    “Chúng tôi sẽ sống, núp dưới bóng người, giữa các dân.”
21 Hãy đắc chí reo mừng, hỡi Ê-đôm,
    Hỡi ngươi là kẻ sống trong miền đất U-xơ!
Nhưng rồi chén thịnh nộ cũng sẽ trao sang tay ngươi,
    Ngươi sẽ say và tự lột trần ra!
22 Sự hình phạt ngươi đã trọn, hỡi Si-ôn!
    Ngài không còn bắt ngươi sống lưu đày nữa!
Nhưng Ngài sẽ trừng phạt gian ác ngươi, hỡi Ê-đôm!
    Ngài sẽ vạch trần tội lỗi ngươi ra!

[a]How the gold has lost its luster,
    the fine gold become dull!
The sacred gems are scattered
    at every street corner.(A)

How the precious children of Zion,(B)
    once worth their weight in gold,
are now considered as pots of clay,
    the work of a potter’s hands!

Even jackals offer their breasts
    to nurse their young,
but my people have become heartless
    like ostriches in the desert.(C)

Because of thirst(D) the infant’s tongue
    sticks to the roof of its mouth;(E)
the children beg for bread,
    but no one gives it to them.(F)

Those who once ate delicacies
    are destitute in the streets.
Those brought up in royal purple(G)
    now lie on ash heaps.(H)

The punishment of my people
    is greater than that of Sodom,(I)
which was overthrown in a moment
    without a hand turned to help her.

Their princes were brighter than snow
    and whiter than milk,
their bodies more ruddy than rubies,
    their appearance like lapis lazuli.

But now they are blacker(J) than soot;
    they are not recognized in the streets.
Their skin has shriveled on their bones;(K)
    it has become as dry as a stick.

Those killed by the sword are better off
    than those who die of famine;(L)
racked with hunger, they waste away
    for lack of food from the field.(M)

10 With their own hands compassionate women
    have cooked their own children,(N)
who became their food
    when my people were destroyed.

11 The Lord has given full vent to his wrath;(O)
    he has poured out(P) his fierce anger.(Q)
He kindled a fire(R) in Zion
    that consumed her foundations.(S)

12 The kings of the earth did not believe,
    nor did any of the peoples of the world,
that enemies and foes could enter
    the gates of Jerusalem.(T)

13 But it happened because of the sins of her prophets
    and the iniquities of her priests,(U)
who shed within her
    the blood(V) of the righteous.

14 Now they grope through the streets
    as if they were blind.(W)
They are so defiled with blood(X)
    that no one dares to touch their garments.

15 “Go away! You are unclean!” people cry to them.
    “Away! Away! Don’t touch us!”
When they flee and wander(Y) about,
    people among the nations say,
    “They can stay here no longer.”(Z)

16 The Lord himself has scattered them;
    he no longer watches over them.(AA)
The priests are shown no honor,
    the elders(AB) no favor.(AC)

17 Moreover, our eyes failed,
    looking in vain(AD) for help;(AE)
from our towers we watched
    for a nation(AF) that could not save us.

18 People stalked us at every step,
    so we could not walk in our streets.
Our end was near, our days were numbered,
    for our end had come.(AG)

19 Our pursuers were swifter
    than eagles(AH) in the sky;
they chased us(AI) over the mountains
    and lay in wait for us in the desert.(AJ)

20 The Lord’s anointed,(AK) our very life breath,
    was caught in their traps.(AL)
We thought that under his shadow(AM)
    we would live among the nations.

21 Rejoice and be glad, Daughter Edom,
    you who live in the land of Uz.(AN)
But to you also the cup(AO) will be passed;
    you will be drunk and stripped naked.(AP)

22 Your punishment will end, Daughter Zion;(AQ)
    he will not prolong your exile.
But he will punish your sin, Daughter Edom,
    and expose your wickedness.(AR)

Footnotes

  1. Lamentations 4:1 This chapter is an acrostic poem, the verses of which begin with the successive letters of the Hebrew alphabet.