Giê-rê-mi 52
Bản Dịch 2011
Phần Phụ Lục:
Giê-ru-sa-lem Bị Thất Thủ
(2 Các Vua 24:18-25:21, 27-30)
52 Xê-đê-ki-a được hai mươi mốt tuổi khi ông bắt đầu trị vì. Ông trị vì được mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. 2 Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa, giống như Giê-hô-gia-kim đã làm. 3 Thật vậy Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đã chọc giận Chúa đến độ Ngài phải tống khứ chúng ra khỏi mặt Ngài.
Xê-đê-ki-a nổi loạn chống lại vua Ba-by-lôn. 4 Vào ngày mười, tháng mười, năm thứ chín của triều đại ông, Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đem toàn thể quân lực của ông đến tấn công Giê-ru-sa-lem và chúng bao vây thành. Chúng xây các pháo đài chung quanh thành để công hãm nó. 5 Vì thế thành bị vây cho đến năm thứ mười một của triều đại Vua Xê-đê-ki-a. 6 Vào ngày chín của tháng tư, nạn đói trong thành đã đến hồi khốc liệt; trong thành không còn thực phẩm để dân trong xứ ăn. 7 Bấy giờ tường thành bị giặc chọc thủng một chỗ. Ban đêm tất cả binh sĩ bỏ thành chạy trốn ra khỏi thành. Họ chạy ra theo cổng ở giữa hai bức tường, bên cạnh vườn ngự uyển, mặc dầu lúc đó quân Canh-đê đang bao vây thành nghiêm ngặt. Họ bỏ chạy về hướng A-ra-ba. 8 Nhưng quân Canh-đê truy kích vua. Chúng đuổi kịp Xê-đê-ki-a trong đồng bằng ở Giê-ri-cô. Quân sĩ của ông liền tán loạn. Chúng bỏ mặc ông, mạnh ai nấy chạy. 9 Quân giặc bắt sống được vua. Chúng đem ông đến nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la trong xứ Ha-mát; tại đó vua ấy xử tội ông. 10 Vua Ba-by-lôn giết các con của Xê-đê-ki-a trước mắt ông, và cũng giết tất cả các quan tướng của Giu-đa tại Ríp-la. 11 Vua ấy truyền lịnh móc mắt Xê-đê-ki-a và lấy xích đồng xiềng ông lại, rồi vua Ba-by-lôn cho dẫn ông qua Ba-by-lôn, giam ông trong ngục cho đến khi ông qua đời.
12 Vào ngày mười tháng năm, năm thứ mười chín của triều đại Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ của vua Ba-by-lôn tiến vào Giê-ru-sa-lem. 13 Ông đốt nhà Chúa, hoàng cung, và tất cả nhà cửa trong thành Giê-ru-sa-lem; hễ nhà nào to lớn ông đều thiêu rụi. 14 Toàn thể quân đội của người Canh-đê đi theo quan thị vệ đã đập phá tất cả các tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. 15 Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt đem lưu đày một số người nghèo nhất trong xứ, dân chúng còn sót lại trong thành, và những người đã đào ngũ qua quy hàng với vua Ba-by-lôn. Ông dẫn đi tất cả những người ấy và những thợ khéo tay còn lại. 16 Tuy nhiên Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ đã chừa lại một ít người nghèo khổ nhất trong xứ để trồng nho và làm ruộng.
17 Các trụ đồng trong Ðền Thờ Chúa, các giàn xe đồng, và chiếc bể đồng nơi Ðền Thờ Chúa đều bị quân Canh-đê cắt ra từng mảnh, rồi chở cả thảy số đồng đó về Ba-by-lôn. 18 Chúng cũng lấy đi những nồi đồng, vá đồng, dao kéo, bát hương, muỗng, và mọi vật dụng bằng đồng để dùng vào việc tế lễ trong đền thờ. 19 Quan chỉ huy quân thị vệ cũng lấy đi các chén, các khay đựng lửa than, các chậu, các ấm, các chân đèn, các muỗng, và các bát dùng cho lễ quán, tất cả các dụng cụ bằng vàng, lẫn các dụng cụ bằng bạc. 20 Về hai trụ đồng, cái bể đồng, mười hai con bò bằng đồng đội cái bể, và các giàn xe đồng mà Sa-lô-môn đã làm cho nhà Chúa, thì số đồng ấy quá nhiều, không thể cân được. 21 Về các trụ ấy, mỗi trụ cao chín mét,[a] bên trên đầu trụ có táng bằng đồng, chu vi sáu mét,[b] dày bốn ngón tay và rỗng trong ruột. 22 Trên mỗi trụ là một cái táng đồng, chiều cao mỗi táng là hai mét rưỡi,[c] đầu táng được bao bằng lưới và những trái thạch lựu, tất cả đều làm bằng đồng. Trụ đồng thứ nhì cũng thế, và cũng có những trái thạch lựu như vậy. 23 Có chín mươi sáu trái thạch lựu treo bên cạnh. Tổng số trái thạch lựu treo chung quanh lưới đồng là một trăm.
24 Quan chỉ huy quân thị vệ bắt được Thượng Tế Sê-ra-gia, Phó Thượng Tế Sô-phô-ni-a, và ba viên chức canh cửa đền thờ. 25 Ông cũng bắt được một vị chỉ huy quân đội, bảy cố vấn của nhà vua còn lại trong thành, quan bí thư là người đặc trách việc chiêu mộ quân binh trong nước, và sáu mươi người gan dạ trong xứ còn trốn trong thành. 26 Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt họ và dẫn họ đến nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la. 27 Vua Ba-by-lôn đánh gục họ và đem giết họ tại Ríp-la trong xứ Ha-mát. Thế là dân Giu-đa đã bị bắt đem đi lưu đày khỏi xứ sở của họ.
28 Ðây là số người bị Nê-bu-cát-nê-xa bắt đem đi lưu đày:
Năm thứ bảy, ba ngàn hai mươi ba người Giu-đa.
29 Năm thứ mười tám của triều đại Nê-bu-cát-nê-xa, ông bắt đem đi lưu đày khỏi Giê-ru-sa-lem tám trăm ba mươi hai người.
30 Năm thứ hai mươi ba của triều đại Nê-bu-cát-nê-xa, Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt đem đi lưu đày bảy trăm bốn mươi lăm người Giu-đa.
Tổng cộng số người bị bắt đem đi lưu đày là bốn ngàn sáu trăm người.
Giê-hô-gia-kin Ðược Ơn Huệ Trong Khi Bị Lưu Ðày
31 Năm thứ ba mươi bảy kể từ khi Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa bị lưu đày, vào ngày hai mươi lăm, tháng mười hai, tức vào năm thứ nhất của triều đại Ê-vin Mê-rô-đác vua Ba-by-lôn, vào năm ông bắt đầu trị vì, ông ra lịnh ân xá cho Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa và đem ông ấy ra khỏi ngục. 32 Ông dùng lời tử tế nói với ông ấy và ban cho ông ấy một địa vị cao hơn các vua cùng bị quản thúc với ông ấy tại Ba-by-lôn. 33 Ông cũng cho Giê-hô-gia-kin được cởi bỏ áo tù và hằng ngày được ngồi ăn đồng bàn với ông trọn đời còn lại của ông ấy. 34 Về việc cấp dưỡng cho ông ấy, hễ ngày nào ông ấy còn sống, vua Ba-by-lôn cấp dưỡng cho ông ấy đều đặn mỗi ngày cho đến ngày ông ấy qua đời.
Footnotes
- Giê-rê-mi 52:21 nt: 18 cubits
- Giê-rê-mi 52:21 nt: 12 cubits
- Giê-rê-mi 52:22 nt: 5 cubits
Giê-rê-mi-a 52
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version
Thành Giê-ru-sa-lem thất thủ
52 Xê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi vua và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông tên Ha-mu-tan, con gái Giê-rê-mi [a], quê quán ở Líp-na. 2 Xê-đê-kia làm điều ác trước mặt CHÚA, như Giê-hô-gia-kim đã làm. 3 Những điều đó diễn ra ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đa vì CHÚA nổi thịnh nộ cùng họ. Cuối cùng Ngài ném họ ra khỏi mặt Ngài.
Xê-đê-kia phản nghịch cùng vua Ba-by-lôn. 4 Sau đó Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn kéo toàn quân đến Giê-ru-sa-lem. Chúng đóng quân và xây chiến lũy quanh thành để tấn công nó. Đó là ngày mười, tháng mười, năm thứ chín đời vua Xê-đê-kia [b]. 5 Thành bị vây hãm cho đến năm thứ mười một đời vua Xê-đê-kia [c].
6 Đến ngày chín tháng tư, trong thành bị nạn đói khủng khiếp; không còn thực phẩm nữa. 7 Rồi vách thành bị chọc thủng, toàn đạo quân Giu-đa thừa bóng đêm chạy trốn. Họ rời thành qua cổng nằm giữa hai vách gần vườn vua. Dù quân Ba-by-lôn đang vây thành, Xê-đê-kia và thuộc hạ chạy trốn về hướng thung lũng sông Giô-đanh.
8 Nhưng đạo quân Ba-by-lôn đuổi theo vua Xê-đê-kia và bắt được ông ở đồng bằng Giê-ri-cô. Tất cả quân sĩ đều bỏ ông chạy tán loạn. 9 Quân Ba-by-lôn bắt Xê-đê-kia giải đến vua Ba-by-lôn ở thành Ríp-ba trong xứ Ha-mát. Rồi vua tuyên án Xê-đê-kia tại đó. 10 Tại Ríp-la, Vua Ba-by-lôn giết các con trai vua Xê-đê-kia ngay trước mắt ông. Vua cũng giết tất cả các viên chức của Giu-đa. 11 Rồi vua móc mắt Xê-đê-kia, lấy xiềng sắt xích ông lại và giải qua Ba-by-lôn. Vua nhốt Xê-đê-kia trong tù cho đến ngày ông qua đời.
12 Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy toán cận vệ và là tôi tớ của vua Ba-by-lôn kéo đến Giê-ru-sa-lem vào ngày mười tháng năm. Đó là vào năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-xa [d], vua Ba-by-lôn. 13 Nê-bu-xa-ra-đan phóng hỏa đền thờ CHÚA, đốt cung vua và tất cả mọi nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; các dinh thự quan trọng đều bị thiêu đốt. 14 Toàn đạo quân Ba-by-lôn dưới quyền chỉ huy của viên tư lệnh toán cận vệ đặc biệt của vua phá sập tất cả mọi thành lũy quanh Giê-ru-sa-lem. 15 Nê-bu-xa-ra-đan, viên tư lệnh của toán cận vệ đặc biệt của vua bắt làm tù binh một số người nghèo khổ nhất, những người còn sót lại Giê-ru-sa-lem [e], những kẻ đã ra đầu hàng vua Ba-by-lôn, và các thợ khéo còn lại tại Giê-ru-sa-lem. 16 Nhưng ông chừa lại một số người nghèo khổ nhất trong xứ để chăm sóc vườn nho và đồng ruộng.
17 Quân Ba-by-lôn đập nát các trụ đồng, đế đồng, và chậu đồng lớn còn gọi là cái Biển trong đền thờ CHÚA. Rồi họ mang các miếng đồng đó về Ba-by-lôn. 18 Họ cũng mang các nồi, xẻng xúc, đồ hớt tim đèn, chén bát, dĩa, và các vật dụng bằng đồng dùng trong đền thờ. 19 Viên tư lệnh của toán cận vệ đặc biệt của vua cũng mang đi các chén bát, chảo đựng than nóng, chậu lớn, nồi, chân đèn, chảo và các chén bát dùng trong của lễ uống. Ông cũng mang đi tất cả những gì làm bằng vàng hay bạc.
20 Số lượng đồng quá nhiều đến nỗi không thể cân được: hai cây trụ, một chậu lớn bằng đồng gọi là cái Biển cùng với mười hai con bò đực đỡ bên dưới, các giá di động mà vua Sô-lô-môn đã làm cho đền thờ CHÚA.
21 Mỗi một cây trụ cao chín thước [f], chu vi sáu thước, bên trong rỗng ruột. Bề dầy của mỗi trụ khoảng bảy phân [g]. 22 Chóp trụ của mỗi trụ cao khoảng một thước sáu. Phần nầy được trang trí bằng một màng lưới có các trái lựu đồng bao quanh. Trụ kia cũng có trái lựu và giống y như trụ thứ nhất. 23 Có tất cả chín mươi sáu trái lựu bao quanh các trụ. Phía trên màng lưới có tất cả một trăm trái lựu.
24 Viên chỉ huy của toán cận vệ đặc biệt của vua bắt Sê-rai-gia, thầy tế lễ cả, Xô-phô-ni, thầy tế lễ phụ tá và ba người giữ cửa. 25 Ông cũng bắt mang đi khỏi thành phố viên sĩ quan lo về quân sĩ, bảy viên cố vấn vua, thư ký hoàng gia lo việc tuyển binh cho quân đội, và sáu mươi người nữa thuộc Giu-đa có mặt ở đó khi thành phố thất thủ. 26 Nê-bu-xa-ra-đan, viên chỉ huy bắt họ và giải đến trước vua Ba-by-lôn ở thành Ríp-la. 27 Vua Ba-by-lôn giết họ và họ chết ở Ríp-la trong xứ Ha-mát.
Vậy dân Giu-đa bị bắt làm tù binh và đày ra khỏi xứ mình. 28 Sau đây là số tù binh Nê-bu-cát-nết-xa bắt mang đi:
trong năm thứ bảy [h] 3.023 người từ xứ Giu-đa.
29 Năm thứ mười tám đời vua Nê-bu-cát-nết-xa [i]: 832 người từ Giê-ru-sa-lem;
30 trong năm thứ hai mươi ba đời Nê-bu-cát-nết-xa [j], Nê-bu-xa-ra-đan, viên chỉ huy toán cận vệ đặc biệt của vua bắt đi 745 người Do thái làm tù binh.
Tổng cộng 4.600 người bị bắt làm tù binh.
Giê-hô-gia-kin được trả tự do
31 Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa bị giam trong ngục ở Ba-by-lôn suốt ba mươi bảy năm. Vào năm Ê-vinh Mê-rô-đác lên ngôi vua Ba-by-lôn thì ông thả Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa ra khỏi ngục. Ông trả tự do cho Giê-hô-gia-kin vào ngày hai mươi lăm tháng mười hai. 32 Ê-vinh Mê-rô-đác lấy lời tử tế nói cùng Giê-hô-gia-kin và cho ông một chỗ danh dự cao hơn các vua khác có mặt tại đó với ông ở Ba-by-lôn. 33 Nên Giê-hô-gia-kin cởi quần áo tù của mình ra và được ăn chung bàn vua suốt đời ông. 34 Mỗi ngày vua Ba-by-lôn ban cho Giê-hô-gia-kin một phần lương thực. Giê-hô-gia-kin được hưởng trợ cấp như vậy cho đến ngày ông qua đời.
Footnotes
- Giê-rê-mi-a 52:1 Giê-rê-mi Đây không phải là nhà tiên tri Giê-rê-mi mà là một người khác trùng tên.
- Giê-rê-mi-a 52:4 tháng mười … vua Xê-đê-kia Tức khoảng tháng giêng dương lịch năm 588 trước Công nguyên.
- Giê-rê-mi-a 52:5 năm thứ mười một đời vua Xê-đê-kia Tức năm 587 trước Công nguyên.
- Giê-rê-mi-a 52:12 năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-xa Tức năm 587 trước Công nguyên.
- Giê-rê-mi-a 52:15 một số người … Giê-ru-sa-lem Bản Hi-lạp chỉ ghi “những người còn ở lại Giê-ru-sa-lem.” Câu “một số người nghèo khổ nhất” trong bản tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ hình như vô tình được chép thêm từ câu kế tiếp.
- Giê-rê-mi-a 52:21 chín thước Nguyên văn, “18 cu-bít” (khoảng 9,33 thước tây).
- Giê-rê-mi-a 52:21 bảy phân Nguyên văn, “4 ngón tay” (khoảng 7,4 phân).
- Giê-rê-mi-a 52:28 năm thứ bảy Tức khoảng giữa năm 598 đến giữa năm 597 trước Công nguyên.
- Giê-rê-mi-a 52:29 Năm thứ mười tám đời vua Nê-bu-cát-nết-xa Tức khoảng giữa năm 588 đến giữa năm 587 trước Công nguyên.
- Giê-rê-mi-a 52:30 năm thứ hai mươi ba đời Nê-bu-cát-nết-xa Tức năm 561 trước Công nguyên.
Йеремия 52
1940 Bulgarian Bible
52 Седекия бе двадесет и една година на възраст, когато се възцари, и царува единадесет години в Ерусалим; а името на майка му бе Амитала, дъщеря на Еремия от Ливна.
2 Той върши зло пред Господа, съвсем както беше направил Иоаким.
3 Защото, от гнева на Господа, който <пламна> против Ерусалим и Юда, докато ги отхвърли от лицето Си, <стана че> Седекия въстана против вавилонския цар.
4 И тъй, в деветата година на< Седекиевото> царуване, в десетия месец, на десетия ден от месеца, вавилонският цар Навуходоносор дойде, той и цялата му войска, против Ерусалим, и като разположи стана си против него, издигнаха укрепления наоколо против него;
5 и градът се обсаждаше до единадесетата година на цар Седекия.
6 А в четвъртия месец, на деветия ден от месеца, <когато> гладът се усили в града, тъй щото нямаше хляб за людете на мястото,
7 отвори се пролом в градската <стена>, поради което всичките военни мъже побягнаха, като излязоха из града през нощта през пътя на портата, която е между двете стени, при царската градина, (а халдейците бяха близо около града), и отидоха по пътя за полето,
8 А халдейската войска преследва царя та стигна Седекия в ерихонските полета. И цялата му войска се разбяга от него.
9 И хванаха царя та го заведоха при вавилонския цар в Ривла, в земята Емат; и той издаде присъда за него, <сиреч>,
10 вавилонският цар закла синовете на Седекия пред очите му; закла в Ривла и всичките Юдови началници;
11 и избоде очите на Седекия, и като го върза в окови вавилонският цар го заведе във Вавилон и го тури в тъмница, <гдето остана> до деня на смъртта си.
12 А в петия месец, на деветия ден от месеца, в деветнадесетата година на вавилонския цар Навуходоносор, дойде в Ерусалим началникът на телохранителите Навузардан, служител на вавилонския цар,
13 та изгори Господния дом и царския дворец; дори всичките къщи в Ерусалим, <сиреч>, всяка голяма къща, изгори с огън.
14 И цялата халдейска войска, която бе с началника на телохранителите, събори всичките стени около Ерусалим.
15 Тогава началникът на телохранителите Навузардан заведе в плен някои от по-сиромасите на людете, и останалите от людете, които бяха оцелели в града, и бежанците, които прибягнаха при вавилонския цар, както и останалото множество.
16 Обаче началникът на телохранителите Навузардан остави някои от най-бедните в земята за лозари и земеделци.
17 А медните стълбове, които бяха в Господния дом, и подножията и медното море, които бяха в Господния дом, халдейците сломиха и принесоха всичката им мед във Вавилон;
18 отнесоха и котлите, лопатите, щипците, легените, темянниците и всичките медни прибори, с които се извършваше службата.
19 Началникът на телохранителите отнесе и блюдата, кадилниците, и тасовете, котлите и светилниците, лъжиците и чашите, - каквото беше златно <като> злато, и каквото сребърно <като> сребро.
20 <Колкото за> двата стълба, едното море, и дванадесетте медни юнци, които бяха вместо подножия, които цар Соломон беше направил за Господния дом, медта на всички тия вещи превишаваше всяко тегло {Еврейски: Беше без теглилка.};
21 а за тия стълбове, височината на единия стълб беше осемнадесет лакти, и окръжността му се измерваше с връв от дванадесет лакти; и дебелината му бе четири пръсти; той бе кух;
22 и меден капител беше върху него; а височината на единия капител бе пет лакти; и върху капитела наоколо имаше мрежа и нарове, всичките медни. Подобни на тия <бяха мерките> и на втория стълб с наровете.
23 Имаше двадесет и шест нарове на четирите страни; всичките нарове, които бяха върху мрежата наоколо бяха сто.
24 Началникът на телохранителите взе и първосвещеника Сараия, и втория свещеник Софония, и тримата вратари;
25 и от града взе един скопец, който беше надзирател на военните мъже, и седем мъжа от имащите достъп при царя {Еврейски: От ония, които виждаха лицето на царя.}, които се намериха в града, и на военачалника секретаря, който събираше войски от людете на земята, и шестдесет мъже от людете на земята, които се намираха всред града;
26 и като ги взе, началникът на телохранителите Навузардан ги заведе при вавилонския цар в Ривла.
27 И вавилонският цар ги порази, и уби ги в Ривла, в земята Емат. Така Юда биде закаран в плен от земята си.
28 А ето людете, които Навуходоносор плени: в седмата година, три хиляди двадесет и три юдеи;
29 в осемнадесетата година на Навуходоносора той плени от Ерусалим осемстотин тридесет и двама души;
30 а в двадесет и третата година на Навуходоносора, началникът на телохранителите Навузардан, плени от юдеите седемстотин четиридесет и пет души; всичките бяха четири хиляди и шестстотин души.
31 А в тридесет и седмата година от пленяването на Юдовия цар Иоахин, в дванадесетия месец, на двадесет и петия ден от месеца, вавилонският цар Евал-меродах, в годината на възцаряването си, възвиси главата на Юдовия цар Иоахин, и го извади из тъмницата;
32 и говори любезно с него, постави неговия престол по-горе от престола на царете, които бяха с него във Вавилон,
33 и промени тъмничните му дрехи; и <Иоахин> се хранеше всякога пред него през всичките дни на живота си.
34 А колкото за храната му, даваше му се от вавилонския цар постоянна храна, ежедневен дял през всичките дни на живота му, дори до деня на смъртта му. Плачът на Еремия
Giê-rê-mi 52
New Vietnamese Bible
Giê-ru-sa-lem Thất Thủ
52 Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi, và trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Ha-mu-ta, con gái của Giê-rê-mi, người Líp-na. 2 Vua làm điều ác trước mặt CHÚA, theo như mọi điều vua Giê-hô-gia-kim đã làm. 3 Những việc này xảy ra tại thành Giê-ru-sa-lem và trong nước Giu-đa đã gây cho CHÚA nổi giận đến nỗi Ngài quay lưng khỏi chúng.
Vua Sê-đê-kia nổi loạn chống lại vua Ba-by-lôn.
4 Ngày mồng mười tháng mười, năm thứ chín đời vua Sê-đê-kia, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, kéo toàn quân xuống đánh Giê-ru-sa-lem. Chúng xây đồn đắp lũy bao vây thành. 5 Thành bị vây mãi đến năm thứ mười một đời vua Sê-đê-kia.
6 Ngày mồng chín tháng tư năm ấy, nạn đói trong thành trầm trọng đến nỗi dân chúng không còn thức ăn; 7 tường thành bị chọc thủng. Ban đêm, trong khi quân Canh-đê vẫn còn bao vây thành, toàn quân trốn ra khỏi thành, xuyên qua cổng giữa hai bức tường, gần vườn ngự uyển, hướng về trũng A-ra-ba. 8 Nhưng quân Canh-đê đuổi theo vua Sê-đê-kia, và đuổi kịp vua nơi vùng đồng bằng, chỗ khô cạn gần thành Giê-ri-cô, trong khi quân lính bỏ vua chạy tán loạn.
9 Quân Canh-đê bắt vua Sê-đê-kia, giải về Ríp-lát thuộc lãnh thổ Ha-mát, cho vua Ba-by-lôn xét xử. 10 Vua Sê-đê-kia, nhìn thấy tận mắt các con trai mình bị hành quyết cùng với tất cả các vương hầu quan chức Giu-đa tại Ríp-lát, theo lệnh vua Ba-by-lôn. 11 Kế đến, vua Ba-by-lôn sai móc cả hai mắt vua Sê-đê-kia, rồi xiềng vua lại bằng xích đồng, giải về Ba-by-lôn, giam trong ngục cho đến chết.
12 Ngày mồng mười tháng năm, nhằm năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, đại diện vua Ba-by-lôn, đến Giê-ru-sa-lem. 13 Ông ra lệnh thiêu hủy đền thờ, cung điện, và mọi nhà cửa trong thành Giê-ru-sa-lem. Bất kỳ dinh thự nào cũng bị lửa thiêu rụi. 14 Hết thảy quân Canh-đê đi cùng với tướng chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ phá sập tất cả các bức tường bao bọc thành Giê-ru-sa-lem. 15 Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, ra lệnh lưu đày những người dân nào còn lại trong thành, cùng với bọn đào ngũ đầu hàng vua Ba-by-lôn, và những thợ thủ công còn sót lại. 16 Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, chừa lại thành phần nghèo nhất trong dân, những người nghèo nhất trong nước, để trồng nho và làm ruộng.
Cướp Phá Đền Thờ
17 Quân Canh-đê đập bể các trụ đồng của đền thờ, đế, và biển đồng trong đền thờ, rồi chở hết đồng về Ba-by-lôn. 18 Chúng cũng khuân đi nào là nồi, xẻng, kéo, chậu, đĩa, và tất cả những dụng cụ khác bằng đồng dùng trong việc thờ phượng. 19 Chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ cũng đem đi các dụng cụ bằng vàng và bằng bạc, tùy theo loại: chén, nồi đựng than, chậu, nồi, chân đèn, đĩa, chén dâng rượu.
20 Không thể nào cân nổi khối lượng đồng của hai cột trụ, một cái bể, mười hai con bò đực bên dưới cái bể, và các đế khác do vua Sa-lô-môn cung cấp tại đền thờ. 21 Mỗi cột trụ cao khoảng mười tám am-ma,[a] chu vi mười hai am-ma,[b] rỗng ruột, dầy độ bốn ngón tay.[c] 22 Trên đầu cột có chóp đồng, cao khoảng năm am-ma,[d] chạm trổ đường viền tinh vi hình mạng lưới và trái lựu toàn bằng đồng chung quanh chóp. Cột thứ nhì cũng y như vậy, chạm trổ hình trái lựu, mỗi một am-ma chạm tám trái lựu, cứ thế suốt mười hai am-ma.[e] 23 Thế là có chín mươi sáu trái lựu, thêm vào bốn trái lựu cho bốn hướng,[f] tất cả là một trăm trái lựu trên đường viền mạng lưới chung quanh chóp.
Đánh Giết Các Nhà Lãnh Đạo
24 Chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ bắt Sê-ra-gia, thầy trưởng tế, Sô-phô-ni, phó trưởng tế, và ba thầy tế lễ gác cổng đền thờ. 25 Trong thành Giê-ru-sa-lem, ông cũng bắt thêm một viên thái giám chỉ huy quân đội, bảy cận thần của nhà vua có mặt trong thành, viên bí thư của tổng chỉ huy quân đội lo việc động viên quân ngũ, và sáu mươi người vùng ngoại ô đang có mặt trong thành. 26 Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, bắt những người này, giải về cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-lát. 27 Vua Ba-by-lôn ra lệnh đánh và xử tử họ tại Ríp-lát, thuộc lãnh thổ Ha-mát.
Dân Giu-đa Bị Lưu Đày
Thế là dân Giu-đa bị lưu đày xa quê hương. 28 Đây là số người bị Nê-bu-cát-nết-sa lưu đày:
Năm thứ bảy, 3,023 người Giu-đa;
29 Năm thứ mười tám đời Nê-bu-cát-nết-sa,
832 Người từ Giê-ru-sa-lem;
30 Năm thứ hai mươi ba đời Nê-bu-cát-nết-sa,
Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ,
Lưu đày 745 người Giu-đa.
Tổng cộng là 4,600 người.
Vua Giê-hô-gia-kin Được Ân Xá
31 Sau khi Giê-hô-gia-kin, cựu hoàng Giu-đa, bị lưu đày ba mươi bảy năm, Ê-vin Mê-rô-đác, vua Ba-by-lôn, lên ngôi. Ngày hai mươi lăm tháng chạp, năm vua lên ngôi, vua ra lệnh ân xá và thả Giê-hô-gia-kin, cựu hoàng Giu-đa, ra khỏi ngục. 32 Vua nói năng từ tốn với Giê-hô-gia-kin, và đặt ông ngồi cao hơn ngôi các cựu hoàng khác cũng đang bị lưu đày tại Ba-by-lôn. 33 Giê-hô-gia-kin thay bỏ áo tù và thường xuyên ngồi ăn đồng bàn với vua trong suốt những ngày còn lại trong đời mình. 34 Vua Ba-by-lôn ra lệnh cung cấp lương thực đều đặn cho Giê-hô-gia-kin, theo nhu cầu từng ngày, suốt những ngày còn lại của đời ông, cho đến khi ông qua đời.
Jeremiah 52
New International Version
The Fall of Jerusalem(A)(B)(C)
52 Zedekiah(D) was twenty-one years old when he became king, and he reigned in Jerusalem eleven years. His mother’s name was Hamutal daughter of Jeremiah; she was from Libnah.(E) 2 He did evil in the eyes of the Lord, just as Jehoiakim(F) had done. 3 It was because of the Lord’s anger that all this happened to Jerusalem and Judah,(G) and in the end he thrust them from his presence.(H)
Now Zedekiah rebelled(I) against the king of Babylon.
4 So in the ninth year of Zedekiah’s reign, on the tenth(J) day of the tenth month, Nebuchadnezzar king of Babylon marched against Jerusalem(K) with his whole army. They encamped outside the city and built siege works(L) all around it.(M) 5 The city was kept under siege until the eleventh year of King Zedekiah.
6 By the ninth day of the fourth month the famine in the city had become so severe that there was no food for the people to eat.(N) 7 Then the city wall was broken through, and the whole army fled.(O) They left the city at night through the gate between the two walls near the king’s garden, though the Babylonians[a] were surrounding the city. They fled toward the Arabah,[b] 8 but the Babylonian[c] army pursued King Zedekiah and overtook him in the plains of Jericho. All his soldiers were separated from him and scattered, 9 and he was captured.(P)
He was taken to the king of Babylon at Riblah(Q) in the land of Hamath,(R) where he pronounced sentence on him. 10 There at Riblah the king of Babylon killed the sons(S) of Zedekiah before his eyes; he also killed all the officials of Judah. 11 Then he put out Zedekiah’s eyes, bound him with bronze shackles and took him to Babylon, where he put him in prison till the day of his death.(T)
12 On the tenth day of the fifth(U) month, in the nineteenth year of Nebuchadnezzar king of Babylon, Nebuzaradan(V) commander of the imperial guard, who served the king of Babylon, came to Jerusalem. 13 He set fire(W) to the temple(X) of the Lord, the royal palace and all the houses(Y) of Jerusalem. Every important building he burned down. 14 The whole Babylonian army, under the commander of the imperial guard, broke down all the walls(Z) around Jerusalem. 15 Nebuzaradan the commander of the guard carried into exile(AA) some of the poorest people and those who remained in the city, along with the rest of the craftsmen[d] and those who had deserted(AB) to the king of Babylon. 16 But Nebuzaradan left behind(AC) the rest of the poorest people of the land to work the vineyards and fields.
17 The Babylonians broke up the bronze pillars,(AD) the movable stands(AE) and the bronze Sea(AF) that were at the temple of the Lord and they carried all the bronze to Babylon.(AG) 18 They also took away the pots, shovels, wick trimmers, sprinkling bowls,(AH) dishes and all the bronze articles used in the temple service.(AI) 19 The commander of the imperial guard took away the basins, censers,(AJ) sprinkling bowls, pots, lampstands,(AK) dishes(AL) and bowls used for drink offerings(AM)—all that were made of pure gold or silver.(AN)
20 The bronze from the two pillars, the Sea and the twelve bronze bulls(AO) under it, and the movable stands, which King Solomon had made for the temple of the Lord, was more than could be weighed.(AP) 21 Each pillar was eighteen cubits high and twelve cubits in circumference[e]; each was four fingers thick, and hollow.(AQ) 22 The bronze capital(AR) on top of one pillar was five cubits[f] high and was decorated with a network and pomegranates(AS) of bronze all around. The other pillar, with its pomegranates, was similar. 23 There were ninety-six pomegranates on the sides; the total number of pomegranates(AT) above the surrounding network was a hundred.(AU)
24 The commander of the guard took as prisoners Seraiah(AV) the chief priest, Zephaniah(AW) the priest next in rank and the three doorkeepers.(AX) 25 Of those still in the city, he took the officer in charge of the fighting men, and seven royal advisers. He also took the secretary(AY) who was chief officer in charge of conscripting the people of the land, sixty of whom were found in the city. 26 Nebuzaradan(AZ) the commander took them all and brought them to the king of Babylon at Riblah. 27 There at Riblah,(BA) in the land of Hamath, the king had them executed.
So Judah went into captivity, away(BB) from her land. 28 This is the number of the people Nebuchadnezzar carried into exile:(BC)
in the seventh year, 3,023 Jews;
29 in Nebuchadnezzar’s eighteenth year,
832 people from Jerusalem;
30 in his twenty-third year,
745 Jews taken into exile(BD) by Nebuzaradan the commander of the imperial guard.
There were 4,600 people in all.(BE)
Jehoiachin Released(BF)
31 In the thirty-seventh year of the exile of Jehoiachin(BG) king of Judah, in the year Awel-Marduk became king of Babylon, on the twenty-fifth day of the twelfth month, he released Jehoiachin king of Judah and freed him from prison. 32 He spoke kindly to him and gave him a seat of honor higher than those of the other kings who were with him in Babylon. 33 So Jehoiachin put aside his prison clothes and for the rest of his life ate regularly at the king’s table.(BH) 34 Day by day the king of Babylon gave Jehoiachin a regular allowance(BI) as long as he lived, till the day of his death.
Footnotes
- Jeremiah 52:7 Or Chaldeans; also in verse 17
- Jeremiah 52:7 Or the Jordan Valley
- Jeremiah 52:8 Or Chaldean; also in verse 14
- Jeremiah 52:15 Or the populace
- Jeremiah 52:21 That is, about 27 feet high and 18 feet in circumference or about 8.1 meters high and 5.4 meters in circumference
- Jeremiah 52:22 That is, about 7 1/2 feet or about 2.3 meters
Copyright © 2011 by Bau Dang
© 2010 Bible League International
© 1995-2005 by Bibliata.com
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)
Holy Bible, New International Version®, NIV® Copyright ©1973, 1978, 1984, 2011 by Biblica, Inc.® Used by permission. All rights reserved worldwide.
NIV Reverse Interlinear Bible: English to Hebrew and English to Greek. Copyright © 2019 by Zondervan.
