Add parallel Print Page Options

Lời cầu nguyện của Đa-niên

Sau đây là những biến chuyển xảy ra trong năm đầu tiên đời Đa-ri-út, con Xét-xe [a], vua Ba-by-lôn. Ông là dòng dõi người Mê-đi. Trong năm đầu tiên của triều đại Đa-ri-út, tôi, Đa-niên, đang đọc các sách thánh [b]. Tôi thấy rằng CHÚA cho Giê-rê-mi biết là thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị bỏ hoang trong bảy mươi năm.

Rồi tôi quay về cùng CHÚA là Thượng Đế và cầu nguyện xin Ngài giúp đỡ. Tôi cữ ăn, mặc áo vải sô và ngồi trong tro để tỏ lòng buồn thảm. Tôi cầu nguyện cùng CHÚA là Thượng Đế tôi, xưng tội của chúng tôi. Tôi thưa, “Lạy CHÚA, Ngài là Thượng Đế cao cả đáng sợ và lạ lùng. Ngài giữ giao ước yêu thương đối với người yêu mến Ngài và vâng giữ mệnh lệnh Ngài.

Nhưng chúng tôi đã phạm tội và làm quấy. Chúng tôi đã làm điều ác và chống nghịch Ngài, cùng mệnh lệnh và luật lệ Ngài. Chúng tôi không nghe tôi tớ Ngài, các nhà tiên tri là những người đại diện Ngài để khuyên bảo các vua, các lãnh tụ, các tổ tiên chúng tôi và toàn dân trong xứ.

Lạy CHÚA, Ngài nhân từ và công chính, nhưng ngày nay chúng tôi bị hổ nhục. Chúng tôi là dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, toàn dân Ít-ra-en, những kẻ ở gần và ở xa mà Ngài đã phân tán giữa các dân vì họ không trung tín với Ngài. Lạy CHÚA, chúng tôi đều chịu xấu hổ kể cả các vua, lãnh tụ và cha ông chúng tôi vì chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài.

Nhưng CHÚA là Thượng Đế chúng tôi ơi, Ngài đã tỏ lòng từ bi và tha thứ chúng tôi mặc dù chúng tôi chống nghịch Ngài. 10 Chúng tôi đã không vâng lời CHÚA là Thượng Đế chúng tôi và lời giáo huấn Ngài ban cho chúng tôi qua các tôi tớ Ngài là các nhà tiên tri. 11 Tất cả dân Ít-ra-en đã không vâng theo lời giáo huấn Ngài, quay lưng đi, không chịu vâng phục Ngài. Cho nên Ngài mang đến cho chúng tôi những sự nguyền rủa và lời hứa [c] ghi trong Sách Giáo Huấn của Mô-se, tôi tớ của Thượng Đế, vì chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài.

12 Ngài bảo trước là những điều đó sẽ xảy đến cho chúng tôi và cho các lãnh tụ, và Ngài đã thực hiện những điều ấy. Trên đất chưa hề có biến cố nào xảy ra như đã xảy ra cho Giê-ru-sa-lem. 13 Tất cả những thảm họa đó xảy đến cho chúng tôi y theo Sách Giáo Huấn của Mô-se đã ghi. Nhưng chúng tôi không mềm lòng trước mặt CHÚA là Thượng Đế chúng tôi. Chúng tôi cứ mãi phạm tội và không đếm xỉa đến chân lý Ngài. 14 CHÚA đã sẵn sàng giáng thảm họa trên chúng tôi, và Ngài đã làm điều đó vì CHÚA, Thượng Đế là Đấng công chính trong mọi điều Ngài làm. Vậy mà chúng tôi vẫn không vâng phục Ngài.

15 Lạy CHÚA là Thượng Đế, Ngài đã dùng quyền năng Ngài mang chúng tôi ra khỏi Ai-cập. Vì lẽ đó mà danh Ngài được biết đến hôm nay. Nhưng chúng tôi đã phạm tội và làm quấy. 16 Lạy CHÚA, vì Ngài luôn luôn làm điều phải, xin Ngài đừng nổi giận cùng Giê-ru-sa-lem nữa. Đó là thành phố nằm trên núi thánh Ngài. Vì tội lỗi chúng tôi và những điều ác tổ tiên chúng tôi làm, dân cư chung quanh sỉ nhục và chế giễu Giê-ru-sa-lem và dân của Ngài.

17 Bây giờ, lạy Thượng Đế, xin hãy nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài. Xin hãy lắng nghe lời cầu nguyện của tôi và vì cớ Ngài, hãy tỏ lòng nhân từ cho nơi thánh Ngài [d] đang đổ nát. 18 Lạy Thượng Đế, xin hãy chú ý và nghe tiếng tôi. Xin mở mắt và nhìn những thảm cảnh xảy đến cho chúng tôi. Hãy xem đời sống chúng tôi bị tàn hại ra sao và những gì đã xảy ra cho thành phố mang danh Ngài. Chúng tôi cầu xin những điều nầy không phải vì chúng tôi nhân đức, nhưng chúng tôi kêu gọi lòng từ bi của Ngài. 19 Lạy CHÚA xin hãy lắng nghe! Lạy Chúa, xin hãy tha thứ! Lạy Chúa xin nghe chúng tôi và can thiệp! Vì danh Ngài xin đừng chậm trễ vì thành và vì dân được gọi bằng danh Ngài.”

Dị tượng về 70 tuần lễ

20 Trong khi tôi đang dâng những lời cầu xin trên đây lên cho CHÚA là Thượng Đế tôi, xưng tội mình và tội của dân Ít-ra-en đồng thời cầu nguyện cho núi thánh của Thượng Đế, 21 thì Gáp-ri-ên đến với tôi, người mà tôi đã gặp trong dị tượng trước. Người bay nhanh đến tôi vào giờ dâng của lễ buổi chiều, trong khi tôi vẫn đang cầu nguyện. 22 Người dạy tôi và bảo tôi, “Đa-niên ơi, ta đến để ban cho ngươi sự khôn ngoan và giúp ngươi hiểu. 23 Khi ngươi mới cầu nguyện lần đầu tiên thì lời đó đã được nghe. Ta đến để cho ngươi biết vì Thượng Đế rất yêu thương ngươi. Cho nên hãy suy nghĩ về lời nầy và cố gắng hiểu ý nghĩa của hiện tượng.

24 Thượng Đế đã định bốn trăm chín mươi năm [e] cho dân ngươi và thành thánh vì những lý do sau: để ngăn không cho người ta chống nghịch Ngài; để chấm dứt tội lỗi; để cất điều ác đi; để mang đến sự nhân từ sẽ còn đời đời; để thi hành dị tượng và lời tiên tri; và để xức dầu nơi chí thánh khiến nó hóa thánh trở lại.

25 Hãy học và hiểu những điều nầy. Sẽ có lệnh xây lại thành Giê-ru-sa-lem. Thời gian từ lúc ban hành lệnh nầy cho đến khi một lãnh tụ được chỉ định [f] là bốn mươi chín năm và bốn trăm ba mươi bốn năm. Giê-ru-sa-lem sẽ được xây lại có phố xá và mương rãnh đầy nước bao quanh, nhưng thành đó sẽ được xây trong thời kỳ khó khăn. 26 Sau bốn trăm ba mươi bốn năm thì vị lãnh tụ được chỉ định sẽ bị giết [g]; người sẽ không còn gì cả [h]. Dân cư của vị lãnh tụ mới sẽ đến tiêu hủy thành và nơi thánh. Đoạn kết của thành sẽ đến như trận lụt, và chiến tranh sẽ kéo dài cho đến cuối cùng. Thượng Đế đã định rằng nơi đó sẽ hoàn toàn bị tiêu hủy.

27 Vị lãnh tụ đó sẽ kết ước với nhiều người trong bảy năm. Người sẽ ngăn cản việc dâng của lễ và sinh tế sau ba năm rưỡi. Một kẻ hủy hoại sẽ làm những điều tàn ác [i] cho đến khi Thượng Đế khiến nó hoàn toàn bị tiêu diệt.”

Footnotes

  1. Ða-ni-ên 9:1 Xét-xe Hay “A-suê-ru.”
  2. Ða-ni-ên 9:2 sách thánh Hay “các cuộn sách.”
  3. Ða-ni-ên 9:11 những sự nguyền rủa và lời hứa Đây là một phần của giao ước mà Thượng Đế lập với dân Ít-ra-en của Ngài. Xem Phục 27-30.
  4. Ða-ni-ên 9:17 tỏ lòng nhân từ cho nơi thánh Ngài Nguyên văn, “xin hãy chiếu sáng mặt Ngài trên nơi thánh Ngài.”
  5. Ða-ni-ên 9:24 bốn trăm chín mươi năm Hay “70 tuần” (mỗi tuần là 7 đơn vị). Tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “tuần lễ” hay “thời gian 7 năm.” Xem các câu 25, 27.
  6. Ða-ni-ên 9:25 lãnh tụ được chỉ định Nguyên văn, “Người được xức dầu.”
  7. Ða-ni-ên 9:26 bị giết Nguyên văn, “bị trừ khử” hay “bị dẹp bỏ.”
  8. Ða-ni-ên 9:26 người sẽ không còn gì cả Hay “người sẽ biến mất.”
  9. Ða-ni-ên 9:27 Một kẻ hủy hoại sẽ làm những điều tàn ác Hay “Người sẽ đến trên cánh của sự tàn phá khủng khiếp.”

La prophétie des 70 septaines

Seigneur, pardonne

Darius, fils de Xerxès, de la race des Mèdes, fut établi sur le trône du royaume des Chaldéens. La première année de son règne, moi, Daniel, je considérais dans les livres le nombre des années que l’Eternel avait indiqué au prophète Jérémie, et pendant lesquelles Jérusalem devait rester en ruine, c’est-à-dire soixante-dix ans[a].

Alors je me tournai vers le Seigneur Dieu pour le prier et lui adresser des supplications, en jeûnant et en portant un habit de toile de sac et en me couvrant de cendre[b]. J’adressai ma requête à l’Eternel mon Dieu et je lui fis une confession en ces termes : Ah ! Seigneur, Dieu grand et redoutable, toi qui demeures fidèle à ton alliance et qui conserves ton amour envers ceux qui t’aiment et qui obéissent à tes commandements, nous avons péché, nous avons mal agi, nous nous sommes rendus coupables et nous nous sommes révoltés contre toi en nous détournant de tes commandements et de tes lois. Nous n’avons pas écouté tes serviteurs les prophètes, qui ont parlé en ton nom à nos rois, à nos chefs, à nos ancêtres et à tout le peuple du pays. Toi, Seigneur, tu es juste, et nous, nous rougissons de honte. C’est bien le cas aujourd’hui des Judéens, des habitants de Jérusalem et de tout Israël, de ceux qui sont près et de ceux qui sont loin, dispersés dans tous les pays où tu les as chassés à cause de leurs infidélités à ton égard. Seigneur, la honte est sur nous, sur nos rois, sur nos chefs et sur nos ancêtres, parce que nous avons péché contre toi.

Mais toi, Seigneur notre Dieu, tu as de la compassion et tu pardonnes, alors que nous nous sommes révoltés contre toi. 10 Nous ne t’avons pas obéi, Eternel notre Dieu, nous n’avons pas vécu selon les lois que tu nous as données par tes serviteurs les prophètes. 11 Tout le peuple d’Israël a transgressé ta Loi et s’est détourné pour ne pas entendre ta voix. Alors la malédiction et toutes les imprécations inscrites dans la Loi de Moïse[c], ton serviteur, se sont déversées sur nous, parce que nous avons péché contre Dieu.

12 Tu as accompli les menaces que tu avais prononcées contre nous et contre les chefs qui nous gouvernaient : tu as fait fondre sur nous un malheur si grand que, dans ce monde, il n’y en a jamais eu de pareil à celui qui a frappé Jérusalem. 13 Tout ce malheur nous a frappés conformément à ce qui était écrit dans la Loi de Moïse, et nous ne t’avons pas imploré, Eternel notre Dieu, nous ne nous sommes pas détournés de nos fautes et nous n’avons pas été attentifs à ta vérité. 14 C’est pourquoi, Eternel notre Dieu, tu as veillé à ce que ce malheur fonde sur nous[d] car tu es juste dans tout ce que tu fais, tandis que nous, nous ne t’avons pas obéi.

15 Et maintenant, Seigneur notre Dieu, tu as fait sortir ton peuple d’Egypte par ton intervention puissante, et tu t’es fait une renommée qui subsiste jusqu’à ce jour. Mais nous, nous avons péché, nous avons fait le mal.

16 Seigneur, puisque tu agis en toute justice, veuille détourner ta colère et ton indignation de Jérusalem, ta ville, ta sainte montagne, car à cause de nos péchés et des fautes de nos ancêtres, Jérusalem et ton peuple sont en butte au mépris de tous ceux qui nous entourent.

17 Maintenant, ô notre Dieu, écoute la prière et les supplications de ton serviteur et, par égard pour toi-même, considère avec faveur ton sanctuaire dévasté ! 18 O mon Dieu, prête l’oreille et écoute, ouvre tes yeux et considère nos ruines, regarde la ville qui t’appartient[e]. Certes, ce n’est pas à cause de nos actions justes que nous t’adressons nos supplications, mais à cause de ton immense compassion ! 19 Seigneur, écoute-nous ! Seigneur, pardonne ! Seigneur, prête-nous attention et interviens sans tarder, par égard pour toi-même, ô mon Dieu ! Car il s’agit de la ville et du peuple qui t’appartiennent[f].

La vision de Daniel

20 Je continuais à parler dans ma prière, en confessant mes péchés et les péchés de mon peuple Israël, et en suppliant l’Eternel mon Dieu en faveur de sa sainte montagne. 21 J’étais encore en train de prononcer ma prière, quand Gabriel, ce personnage que j’avais vu dans une vision précédente, s’approcha de moi d’un vol rapide au moment de l’offrande du soir. 22 Il s’entretint avec moi et me donna des explications en me disant : Daniel, je suis venu maintenant pour t’éclairer. 23 Dès que tu as commencé ta supplique, un message a été émis, et je suis venu pour te le communiquer, car tu es bien-aimé de Dieu. Sois donc attentif à ce message et comprends cette vision.

24 Une période de soixante-dix septaines[g] a été fixée pour ton peuple et pour ta ville sainte, pour mettre un terme à la révolte contre Dieu, pour en finir avec les péchés, et pour expier, les fautes ainsi que pour instaurer une justice éternelle, pour accomplir vision et prophétie, et pour conférer l’onction à un sanctuaire très saint.

25 Voici donc ce que tu dois savoir et comprendre : Depuis le moment où le décret ordonnant de restaurer et de rebâtir Jérusalem[h] a été promulgué jusqu’à l’avènement d’un chef ayant reçu l’onction, il s’écoulera sept septaines et soixante-deux septaines. La ville sera rebâtie et rétablie avec ses places et ses fossés, en des temps de détresse.

26 A la fin des soixante-deux septaines, un homme ayant reçu l’onction sera mis à mort, bien qu’on ne puisse rien lui reprocher[i]. Quant à la ville et au sanctuaire, ils seront détruits par le peuple d’un chef qui viendra[j], mais sa fin arrivera, provoquée comme par une inondation, et jusqu’à la fin, séviront la guerre et les dévastations qui ont été décrétées. 27 L’oint[k] conclura une alliance ferme avec un grand nombre[l] au cours d’une septaine et, à la moitié de la septaine, il fera cesser le sacrifice et l’offrande. Dans le Temple sera établie l’abominable profanation[m], et cela durera jusqu’à ce que l’entière destruction qui a été décrétée s’abatte sur le dévastateur.

Footnotes

  1. 9.2 Voir Jr 25.11-12 ; 29.10.
  2. 9.3 Marques de deuil.
  3. 9.11 Voir Lv 26.14-39 ; Dt 28.15-68.
  4. 9.14 Réminiscence de Jr 1.12, 14.
  5. 9.18 Autre traduction : la ville en faveur de laquelle on te prie.
  6. 9.19 Autre traduction : en faveur desquels on te prie.
  7. 9.24 Il s’agit de septaines de sept ans.
  8. 9.25 Voir 2 Ch 36.22-23 ; Esd 1.1-3.
  9. 9.26 bien qu’on ne puisse… reprocher: traduction incertaine. Autre traduction : et il n’aura personne pour venir à son secours (voir 11.45).
  10. 9.26 par le peuple d’un chef qui viendra: en adoptant une légère modification de la vocalisation du texte hébreu traditionnel, on peut comprendre : avec le chef qui doit venir [le chef du v. 25].
  11. 9.27 D’autres comprennent qu’il s’agit, non de l’oint des v. 25 et 26 mais du chef dont il vient d’être question dans la seconde partie du v. 26. La structure doit ici orienter l’interprétation : chacun des v. 25, 26 et 27 se compose de deux parties : dans la première, il est question de l’oint et de septaines ; la seconde partie concerne la ville ou le sanctuaire, il y est question d’une épreuve pour le peuple de Dieu.
  12. 9.27 un grand nombre: réminiscence d’Es 53.12.
  13. 9.27 Dans le Temple… profanation: traduction incertaine. Autres traductions : le dévastateur s’en prendra au Temple abominable ou le dévastateur ira jusqu’au bout des abominations. C’est à cette abominable profanation que Jésus fait allusion en Mt 24.15.

Lời cầu nguyện của Đa-niên

Sau đây là những biến chuyển xảy ra trong năm đầu tiên đời Đa-ri-út, con Xét-xe [a], vua Ba-by-lôn. Ông là dòng dõi người Mê-đi. Trong năm đầu tiên của triều đại Đa-ri-út, tôi, Đa-niên, đang đọc các sách thánh [b]. Tôi thấy rằng CHÚA cho Giê-rê-mi biết là thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị bỏ hoang trong bảy mươi năm.

Rồi tôi quay về cùng CHÚA là Thượng Đế và cầu nguyện xin Ngài giúp đỡ. Tôi cữ ăn, mặc áo vải sô và ngồi trong tro để tỏ lòng buồn thảm. Tôi cầu nguyện cùng CHÚA là Thượng Đế tôi, xưng tội của chúng tôi. Tôi thưa, “Lạy CHÚA, Ngài là Thượng Đế cao cả đáng sợ và lạ lùng. Ngài giữ giao ước yêu thương đối với người yêu mến Ngài và vâng giữ mệnh lệnh Ngài.

Nhưng chúng tôi đã phạm tội và làm quấy. Chúng tôi đã làm điều ác và chống nghịch Ngài, cùng mệnh lệnh và luật lệ Ngài. Chúng tôi không nghe tôi tớ Ngài, các nhà tiên tri là những người đại diện Ngài để khuyên bảo các vua, các lãnh tụ, các tổ tiên chúng tôi và toàn dân trong xứ.

Lạy CHÚA, Ngài nhân từ và công chính, nhưng ngày nay chúng tôi bị hổ nhục. Chúng tôi là dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, toàn dân Ít-ra-en, những kẻ ở gần và ở xa mà Ngài đã phân tán giữa các dân vì họ không trung tín với Ngài. Lạy CHÚA, chúng tôi đều chịu xấu hổ kể cả các vua, lãnh tụ và cha ông chúng tôi vì chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài.

Nhưng CHÚA là Thượng Đế chúng tôi ơi, Ngài đã tỏ lòng từ bi và tha thứ chúng tôi mặc dù chúng tôi chống nghịch Ngài. 10 Chúng tôi đã không vâng lời CHÚA là Thượng Đế chúng tôi và lời giáo huấn Ngài ban cho chúng tôi qua các tôi tớ Ngài là các nhà tiên tri. 11 Tất cả dân Ít-ra-en đã không vâng theo lời giáo huấn Ngài, quay lưng đi, không chịu vâng phục Ngài. Cho nên Ngài mang đến cho chúng tôi những sự nguyền rủa và lời hứa [c] ghi trong Sách Giáo Huấn của Mô-se, tôi tớ của Thượng Đế, vì chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài.

12 Ngài bảo trước là những điều đó sẽ xảy đến cho chúng tôi và cho các lãnh tụ, và Ngài đã thực hiện những điều ấy. Trên đất chưa hề có biến cố nào xảy ra như đã xảy ra cho Giê-ru-sa-lem. 13 Tất cả những thảm họa đó xảy đến cho chúng tôi y theo Sách Giáo Huấn của Mô-se đã ghi. Nhưng chúng tôi không mềm lòng trước mặt CHÚA là Thượng Đế chúng tôi. Chúng tôi cứ mãi phạm tội và không đếm xỉa đến chân lý Ngài. 14 CHÚA đã sẵn sàng giáng thảm họa trên chúng tôi, và Ngài đã làm điều đó vì CHÚA, Thượng Đế là Đấng công chính trong mọi điều Ngài làm. Vậy mà chúng tôi vẫn không vâng phục Ngài.

15 Lạy CHÚA là Thượng Đế, Ngài đã dùng quyền năng Ngài mang chúng tôi ra khỏi Ai-cập. Vì lẽ đó mà danh Ngài được biết đến hôm nay. Nhưng chúng tôi đã phạm tội và làm quấy. 16 Lạy CHÚA, vì Ngài luôn luôn làm điều phải, xin Ngài đừng nổi giận cùng Giê-ru-sa-lem nữa. Đó là thành phố nằm trên núi thánh Ngài. Vì tội lỗi chúng tôi và những điều ác tổ tiên chúng tôi làm, dân cư chung quanh sỉ nhục và chế giễu Giê-ru-sa-lem và dân của Ngài.

17 Bây giờ, lạy Thượng Đế, xin hãy nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài. Xin hãy lắng nghe lời cầu nguyện của tôi và vì cớ Ngài, hãy tỏ lòng nhân từ cho nơi thánh Ngài [d] đang đổ nát. 18 Lạy Thượng Đế, xin hãy chú ý và nghe tiếng tôi. Xin mở mắt và nhìn những thảm cảnh xảy đến cho chúng tôi. Hãy xem đời sống chúng tôi bị tàn hại ra sao và những gì đã xảy ra cho thành phố mang danh Ngài. Chúng tôi cầu xin những điều nầy không phải vì chúng tôi nhân đức, nhưng chúng tôi kêu gọi lòng từ bi của Ngài. 19 Lạy CHÚA xin hãy lắng nghe! Lạy Chúa, xin hãy tha thứ! Lạy Chúa xin nghe chúng tôi và can thiệp! Vì danh Ngài xin đừng chậm trễ vì thành và vì dân được gọi bằng danh Ngài.”

Dị tượng về 70 tuần lễ

20 Trong khi tôi đang dâng những lời cầu xin trên đây lên cho CHÚA là Thượng Đế tôi, xưng tội mình và tội của dân Ít-ra-en đồng thời cầu nguyện cho núi thánh của Thượng Đế, 21 thì Gáp-ri-ên đến với tôi, người mà tôi đã gặp trong dị tượng trước. Người bay nhanh đến tôi vào giờ dâng của lễ buổi chiều, trong khi tôi vẫn đang cầu nguyện. 22 Người dạy tôi và bảo tôi, “Đa-niên ơi, ta đến để ban cho ngươi sự khôn ngoan và giúp ngươi hiểu. 23 Khi ngươi mới cầu nguyện lần đầu tiên thì lời đó đã được nghe. Ta đến để cho ngươi biết vì Thượng Đế rất yêu thương ngươi. Cho nên hãy suy nghĩ về lời nầy và cố gắng hiểu ý nghĩa của hiện tượng.

24 Thượng Đế đã định bốn trăm chín mươi năm [e] cho dân ngươi và thành thánh vì những lý do sau: để ngăn không cho người ta chống nghịch Ngài; để chấm dứt tội lỗi; để cất điều ác đi; để mang đến sự nhân từ sẽ còn đời đời; để thi hành dị tượng và lời tiên tri; và để xức dầu nơi chí thánh khiến nó hóa thánh trở lại.

25 Hãy học và hiểu những điều nầy. Sẽ có lệnh xây lại thành Giê-ru-sa-lem. Thời gian từ lúc ban hành lệnh nầy cho đến khi một lãnh tụ được chỉ định [f] là bốn mươi chín năm và bốn trăm ba mươi bốn năm. Giê-ru-sa-lem sẽ được xây lại có phố xá và mương rãnh đầy nước bao quanh, nhưng thành đó sẽ được xây trong thời kỳ khó khăn. 26 Sau bốn trăm ba mươi bốn năm thì vị lãnh tụ được chỉ định sẽ bị giết [g]; người sẽ không còn gì cả [h]. Dân cư của vị lãnh tụ mới sẽ đến tiêu hủy thành và nơi thánh. Đoạn kết của thành sẽ đến như trận lụt, và chiến tranh sẽ kéo dài cho đến cuối cùng. Thượng Đế đã định rằng nơi đó sẽ hoàn toàn bị tiêu hủy.

27 Vị lãnh tụ đó sẽ kết ước với nhiều người trong bảy năm. Người sẽ ngăn cản việc dâng của lễ và sinh tế sau ba năm rưỡi. Một kẻ hủy hoại sẽ làm những điều tàn ác [i] cho đến khi Thượng Đế khiến nó hoàn toàn bị tiêu diệt.”

Footnotes

  1. Ða-ni-ên 9:1 Xét-xe Hay “A-suê-ru.”
  2. Ða-ni-ên 9:2 sách thánh Hay “các cuộn sách.”
  3. Ða-ni-ên 9:11 những sự nguyền rủa và lời hứa Đây là một phần của giao ước mà Thượng Đế lập với dân Ít-ra-en của Ngài. Xem Phục 27-30.
  4. Ða-ni-ên 9:17 tỏ lòng nhân từ cho nơi thánh Ngài Nguyên văn, “xin hãy chiếu sáng mặt Ngài trên nơi thánh Ngài.”
  5. Ða-ni-ên 9:24 bốn trăm chín mươi năm Hay “70 tuần” (mỗi tuần là 7 đơn vị). Tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “tuần lễ” hay “thời gian 7 năm.” Xem các câu 25, 27.
  6. Ða-ni-ên 9:25 lãnh tụ được chỉ định Nguyên văn, “Người được xức dầu.”
  7. Ða-ni-ên 9:26 bị giết Nguyên văn, “bị trừ khử” hay “bị dẹp bỏ.”
  8. Ða-ni-ên 9:26 người sẽ không còn gì cả Hay “người sẽ biến mất.”
  9. Ða-ni-ên 9:27 Một kẻ hủy hoại sẽ làm những điều tàn ác Hay “Người sẽ đến trên cánh của sự tàn phá khủng khiếp.”

La prophétie des 70 septaines

Seigneur, pardonne

Darius, fils de Xerxès, de la race des Mèdes, fut établi sur le trône du royaume des Chaldéens. La première année de son règne, moi, Daniel, je considérais dans les livres le nombre des années que l’Eternel avait indiqué au prophète Jérémie, et pendant lesquelles Jérusalem devait rester en ruine, c’est-à-dire soixante-dix ans[a].

Alors je me tournai vers le Seigneur Dieu pour le prier et lui adresser des supplications, en jeûnant et en portant un habit de toile de sac et en me couvrant de cendre[b]. J’adressai ma requête à l’Eternel mon Dieu et je lui fis une confession en ces termes : Ah ! Seigneur, Dieu grand et redoutable, toi qui demeures fidèle à ton alliance et qui conserves ton amour envers ceux qui t’aiment et qui obéissent à tes commandements, nous avons péché, nous avons mal agi, nous nous sommes rendus coupables et nous nous sommes révoltés contre toi en nous détournant de tes commandements et de tes lois. Nous n’avons pas écouté tes serviteurs les prophètes, qui ont parlé en ton nom à nos rois, à nos chefs, à nos ancêtres et à tout le peuple du pays. Toi, Seigneur, tu es juste, et nous, nous rougissons de honte. C’est bien le cas aujourd’hui des Judéens, des habitants de Jérusalem et de tout Israël, de ceux qui sont près et de ceux qui sont loin, dispersés dans tous les pays où tu les as chassés à cause de leurs infidélités à ton égard. Seigneur, la honte est sur nous, sur nos rois, sur nos chefs et sur nos ancêtres, parce que nous avons péché contre toi.

Mais toi, Seigneur notre Dieu, tu as de la compassion et tu pardonnes, alors que nous nous sommes révoltés contre toi. 10 Nous ne t’avons pas obéi, Eternel notre Dieu, nous n’avons pas vécu selon les lois que tu nous as données par tes serviteurs les prophètes. 11 Tout le peuple d’Israël a transgressé ta Loi et s’est détourné pour ne pas entendre ta voix. Alors la malédiction et toutes les imprécations inscrites dans la Loi de Moïse[c], ton serviteur, se sont déversées sur nous, parce que nous avons péché contre Dieu.

12 Tu as accompli les menaces que tu avais prononcées contre nous et contre les chefs qui nous gouvernaient : tu as fait fondre sur nous un malheur si grand que, dans ce monde, il n’y en a jamais eu de pareil à celui qui a frappé Jérusalem. 13 Tout ce malheur nous a frappés conformément à ce qui était écrit dans la Loi de Moïse, et nous ne t’avons pas imploré, Eternel notre Dieu, nous ne nous sommes pas détournés de nos fautes et nous n’avons pas été attentifs à ta vérité. 14 C’est pourquoi, Eternel notre Dieu, tu as veillé à ce que ce malheur fonde sur nous[d] car tu es juste dans tout ce que tu fais, tandis que nous, nous ne t’avons pas obéi.

15 Et maintenant, Seigneur notre Dieu, tu as fait sortir ton peuple d’Egypte par ton intervention puissante, et tu t’es fait une renommée qui subsiste jusqu’à ce jour. Mais nous, nous avons péché, nous avons fait le mal.

16 Seigneur, puisque tu agis en toute justice, veuille détourner ta colère et ton indignation de Jérusalem, ta ville, ta sainte montagne, car à cause de nos péchés et des fautes de nos ancêtres, Jérusalem et ton peuple sont en butte au mépris de tous ceux qui nous entourent.

17 Maintenant, ô notre Dieu, écoute la prière et les supplications de ton serviteur et, par égard pour toi-même, considère avec faveur ton sanctuaire dévasté ! 18 O mon Dieu, prête l’oreille et écoute, ouvre tes yeux et considère nos ruines, regarde la ville qui t’appartient[e]. Certes, ce n’est pas à cause de nos actions justes que nous t’adressons nos supplications, mais à cause de ton immense compassion ! 19 Seigneur, écoute-nous ! Seigneur, pardonne ! Seigneur, prête-nous attention et interviens sans tarder, par égard pour toi-même, ô mon Dieu ! Car il s’agit de la ville et du peuple qui t’appartiennent[f].

La vision de Daniel

20 Je continuais à parler dans ma prière, en confessant mes péchés et les péchés de mon peuple Israël, et en suppliant l’Eternel mon Dieu en faveur de sa sainte montagne. 21 J’étais encore en train de prononcer ma prière, quand Gabriel, ce personnage que j’avais vu dans une vision précédente, s’approcha de moi d’un vol rapide au moment de l’offrande du soir. 22 Il s’entretint avec moi et me donna des explications en me disant : Daniel, je suis venu maintenant pour t’éclairer. 23 Dès que tu as commencé ta supplique, un message a été émis, et je suis venu pour te le communiquer, car tu es bien-aimé de Dieu. Sois donc attentif à ce message et comprends cette vision.

24 Une période de soixante-dix septaines[g] a été fixée pour ton peuple et pour ta ville sainte, pour mettre un terme à la révolte contre Dieu, pour en finir avec les péchés, et pour expier, les fautes ainsi que pour instaurer une justice éternelle, pour accomplir vision et prophétie, et pour conférer l’onction à un sanctuaire très saint.

25 Voici donc ce que tu dois savoir et comprendre : Depuis le moment où le décret ordonnant de restaurer et de rebâtir Jérusalem[h] a été promulgué jusqu’à l’avènement d’un chef ayant reçu l’onction, il s’écoulera sept septaines et soixante-deux septaines. La ville sera rebâtie et rétablie avec ses places et ses fossés, en des temps de détresse.

26 A la fin des soixante-deux septaines, un homme ayant reçu l’onction sera mis à mort, bien qu’on ne puisse rien lui reprocher[i]. Quant à la ville et au sanctuaire, ils seront détruits par le peuple d’un chef qui viendra[j], mais sa fin arrivera, provoquée comme par une inondation, et jusqu’à la fin, séviront la guerre et les dévastations qui ont été décrétées. 27 L’oint[k] conclura une alliance ferme avec un grand nombre[l] au cours d’une septaine et, à la moitié de la septaine, il fera cesser le sacrifice et l’offrande. Dans le Temple sera établie l’abominable profanation[m], et cela durera jusqu’à ce que l’entière destruction qui a été décrétée s’abatte sur le dévastateur.

Footnotes

  1. 9.2 Voir Jr 25.11-12 ; 29.10.
  2. 9.3 Marques de deuil.
  3. 9.11 Voir Lv 26.14-39 ; Dt 28.15-68.
  4. 9.14 Réminiscence de Jr 1.12, 14.
  5. 9.18 Autre traduction : la ville en faveur de laquelle on te prie.
  6. 9.19 Autre traduction : en faveur desquels on te prie.
  7. 9.24 Il s’agit de septaines de sept ans.
  8. 9.25 Voir 2 Ch 36.22-23 ; Esd 1.1-3.
  9. 9.26 bien qu’on ne puisse… reprocher: traduction incertaine. Autre traduction : et il n’aura personne pour venir à son secours (voir 11.45).
  10. 9.26 par le peuple d’un chef qui viendra: en adoptant une légère modification de la vocalisation du texte hébreu traditionnel, on peut comprendre : avec le chef qui doit venir [le chef du v. 25].
  11. 9.27 D’autres comprennent qu’il s’agit, non de l’oint des v. 25 et 26 mais du chef dont il vient d’être question dans la seconde partie du v. 26. La structure doit ici orienter l’interprétation : chacun des v. 25, 26 et 27 se compose de deux parties : dans la première, il est question de l’oint et de septaines ; la seconde partie concerne la ville ou le sanctuaire, il y est question d’une épreuve pour le peuple de Dieu.
  12. 9.27 un grand nombre: réminiscence d’Es 53.12.
  13. 9.27 Dans le Temple… profanation: traduction incertaine. Autres traductions : le dévastateur s’en prendra au Temple abominable ou le dévastateur ira jusqu’au bout des abominations. C’est à cette abominable profanation que Jésus fait allusion en Mt 24.15.