
Ê-xơ-ra 2 Bản Dịch 2011 (BD2011)Danh Sách Những Người Hồi Hương2 Sau đây là những người đã từ các tỉnh ở nơi lưu đày trở về. Họ là những người đã bị bắt đem đi lưu đày, tức bị Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn bắt đem sang Ba-by-lôn để lưu đày,[a] và được trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. 2 Cùng trở về với Xê-ru-ba-bên có Giê-sua, Nê-hê-mi-a, Sê-ra-gia, Rê-ê-lai-a, Mạc-đô-chê, Bin-san, Mít-pa, Bích-vai, Rê-hum, và Ba-a-nát. Ðây là số những người hồi hương trong dân I-sơ-ra-ên: 3 Con cháu của Pa-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người. 36 Về các tư tế: con cháu của Giê-đa-gia, gia tộc của Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người. 42 Con cháu của những người canh cửa: con cháu của Sanh-lum, con cháu của A-te, con cháu của Tanh-môn, con cháu của Ạc-cúp, con cháu của Ha-ti-ta, con cháu của Sô-bai, một trăm ba mươi chín người.[o] 43 Những người phục vụ tại Ðền Thờ: con cháu của Xi-ha, con cháu của Ha-su-pha, con cháu của Ta-ba-ốt, 44 con cháu của Kê-rô, con cháu của Si-a-ha,[p] con cháu của Pa-đôn, 45 con cháu của Lê-ba-na, con cháu của Ha-ga-ba, con cháu của Ạc-cúp, 46 con cháu của Ha-gáp, con cháu của Sam-lai, con cháu của Ha-nan, 47 con cháu của Ghít-đên, con cháu của Ga-ha, con cháu của Rê-a-gia, 48 con cháu của Rê-xin, con cháu của Nê-cô-đa, con cháu của Ga-xam, 49 con cháu của U-xa, con cháu của Pa-sê-a, con cháu của Bê-sai, 50 con cháu của Át-na, con cháu của Mê-u-nim, con cháu của Nê-phi-sim, 51 con cháu của Bác-búc, con cháu của Ha-cu-pha, con cháu của Hạc-hưa, 52 con cháu của Ba-xơ-lút, con cháu của Mê-hi-đa, con cháu của Hạc-sa, 53 con cháu của Ba-cốt, con cháu của Si-sê-ra, con cháu của Tê-ma, 54 con cháu của Nê-xi-a, con cháu của Ha-ti-pha. 55 Con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn: con cháu của Sô-tai, con cháu của Hạc-sô-phê-rết, con cháu của Pê-ru-đa,[q] 56 con cháu của Gia-a-la, con cháu của Ðạc-côn, con cháu của Ghít-đên, 57 con cháu của Sê-pha-ti-a, con cháu của Hát-tin, con cháu của Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-mi.[r] 58 Tất cả những người phục vụ ở Ðền Thờ và con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người. 59 Có những người từ Tên Mê-la, Tên Hạc-sa, Kê-rúp, Át-đôn, và Im-me cùng đi lên, nhưng vì họ không thể chứng minh được tổ tiên của họ hoặc liên hệ huyết thống trong gia tộc của họ, nên người ta không thể xác định họ có phải là người I-sơ-ra-ên chính thống hay không. 60 Con cháu của Ðê-la-gia, con cháu của Tô-bi-a, con cháu của Nê-cô-đa, sáu trăm năm mươi hai người.[s] 61 Con cháu của các tư tế: con cháu của Hô-ba-gia, con cháu của Hắc-cô, con cháu của Ba-xi-lai. (Ông nầy là người đã cưới một trong các con gái của Ba-xi-lai người Ghi-lê-át làm vợ, và ông đã đổi họ để theo họ vợ.) 62 Những người ấy đã truy lục gia phả của họ, nhưng họ không tìm thấy gia tộc của họ được liệt kê trong đó, nên họ bị loại ra khỏi hàng tư tế và bị xem là không được tinh ròng để thi hành chức vụ thánh. 63 Do đó quan tổng trấn truyền cho họ không được ăn các món ăn cực thánh cho đến khi được một tư tế đứng ra dùng u-rim và thu-mim để xác quyết. 64 Tổng cộng cả hội chúng được bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 65 không kể bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy tôi trai và tớ gái. Trong vòng họ cũng có hai trăm người,[t] cả nam lẫn nữ, là thành viên của ca đoàn thờ phượng. 66 Họ có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 67 bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa. 68 Khi về đến Ðền Thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem, một số vị trưởng gia tộc đã tự động quyên góp một số tiền và lập quỹ tái thiết Ðền Thờ Ðức Chúa Trời ở vị trí cũ. 69 Tùy theo khả năng của mỗi người, họ đã dâng vào quỹ tái thiết sáu mươi mốt ngàn miếng[u] vàng, năm ngàn thỏi[v] bạc, và một trăm bộ lễ phục cho các tư tế. 70 Vậy các tư tế, những người Lê-vi, những người ca hát, những người canh cửa, và những người phục vụ ở Ðền Thờ đều định cư trong các thị trấn của họ quanh thủ đô, còn tất cả những người I-sơ-ra-ên còn lại đều trở về định cư trong các thành của họ khắp nơi trong xứ. Footnotes:
Bản Dịch 2011 (BD2011) Copyright © 2011 by Bau Dang |