Add parallel Print Page Options

Tìm Lại Được Chỉ Dụ Của Vua Si-ru

Bấy giờ, vua Đa-ri-út ra lệnh truy cứu trong văn khố, nơi lưu trữ các văn kiện quý,[a] tại Ba-by-lôn. Nhưng chính tại trong thành lũy Éc-ba-tan, thuộc tỉnh Mê-đi, người ta mới tìm thấy một cuốn da,[b] trong đó có ghi chép như sau: “Điều cần nhớ. Năm thứ nhất đời vua Si-ru, vua Si-ru ban sắc lệnh về đền Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Phải xây lại đền ngay tại[c] nơi người ta thường dâng lễ vật, và phải đắp cho vững chắc nền cũ của đền. Chiều cao đền là sáu mươi am-ma,[d] chiều rộng sáu mươi am-ma, với ba dãy đá đẽo và một dãy xà gỗ. Phí tổn do ngân khố triều đình đài thọ. Ngoài ra, phải trả lại các dụng cụ bằng vàng và bạc trong đền thờ Đức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem ra khỏi đền tại Giê-ru-sa-lem và mang về Ba-by-lôn. Phải đem các dụng cụ ấy về đền tại Giê-ru-sa-lem, đặt mỗi dụng cụ vào chỗ riêng của nó trong đền Đức Chúa Trời.”

Vua Đa-ri-út Ra Chỉ Thị Cho Tạc-tê-nai Về Việc Xây Đền Thờ

“Vậy, bây giờ, Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, Sê-ta-bô-xê-nai, và các thanh tra cộng sự viên của các người trong tỉnh phía tây sông, hãy tránh xa nơi đó. Hãy để yên công tác xây cất đền này của Đức Chúa Trời. Hãy để tổng trấn dân Do Thái và các trưởng lão dân Do Thái xây lại đền của Đức Chúa Trời tại vị trí cũ.

Ta cũng ban hành sắc lệnh về điều các ngươi cần phải làm cho các trưởng lão của dân Do Thái đối với công tác xây cất đền của Đức Chúa Trời: Phải dùng số thu nhập của triều đình từ các phần công thuế trong tỉnh phía tây sông mà trả đầy đủ mọi chi phí cho các người này, để công việc khỏi bị đình trệ.[e] Bất cứ điều chi họ cần, như là bò tơ đực, cừu đực, hoặc cừu con, dê dâng tế lễ thiêu cho Đức Chúa Trời trên trời, hoặc lúa mì, muối, rượu, và dầu, thể theo lời yêu cầu của các thầy tế lễ tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi phải cung cấp cho họ hằng ngày, không thiếu chi hết, 10 để họ dâng lễ vật vừa ý Đức Chúa Trời trên trời, và cầu nguyện cho vua và các hoàng tử được sống lâu.[f]

11 Ta cũng ban lệnh, nếu ai vi phạm[g] chiếu chỉ này, phải rút một cây đòn tay từ nhà hắn ra, đâm thẳng đứng vào người hắn, và nhà hắn sẽ bị tịch thu vì cớ tội ấy.[h] 12 Cầu xin Đức Chúa Trời, là Đấng khiến danh Ngài ngự tại đây, lật đổ vua nào hoặc dân tộc nào liều lĩnh[i] vi phạm sắc lệnh hoặc[j] phá hủy đền thờ này của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Ta, Đa-ri-út, ban hành sắc lệnh này. Mỗi người phải chấp hành triệt để.”

Lễ Cung Hiến Đền Thờ

13 Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, Sê-ta-bô-xê-nai, và các cộng sự viên triệt để thi hành sắc lệnh vua Đa-ri-út ban xuống. 14 Vậy các trưởng lão dân Do Thái tiếp tục xây cất. Công việc tiến triển tốt đẹp nhờ sự rao truyền lời Chúa của tiên tri Ha-gai và tiên tri Xa-cha-ri, con trai Y-đô. Họ hoàn tất công việc xây cất theo mệnh lệnh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và theo chiếu chỉ của Si-ru, Đa-ri-út, và Át-ta-xét-xe, vua Ba-tư. 15 Đền thờ cất xong vào ngày 23[k] tháng A-đa, trong năm thứ sáu đời vua Đa-ri-út.

16 Dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, những người Lê-vi, và hết thảy những người lưu đày khác hồi hương vui mừng tổ chức lễ khánh thành đền thờ Đức Chúa Trời. 17 Trong dịp lễ khánh thành đền thờ của Đức Chúa Trời, họ dâng 100 bò đực, 200 cừu đực, 400 cừu con, và, tùy theo số các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, mười hai dê đực làm tế lễ chuộc tội cho toàn dân Y-sơ-ra-ên. 18 Họ lập các thầy tế lễ theo từng ban, và những người Lê-vi theo từng ngành để phục vụ đền thờ[l] Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, y như có chép trong Kinh Luật Môi-se.

Lễ Vượt Qua Trọng Thể

19 Ngày 14 tháng giêng, những người lưu đày hồi hương giữ lễ Vượt Qua, 20 vì các thầy tế lễ đã dọn mình thánh sạch, và toàn thể những người Lê-vi cũng đồng lòng dọn mình thánh sạch. Họ giết cừu con lễ Vượt Qua cho tất cả những người lưu đày hồi hương, cho anh em họ là thầy tế lễ, và cho chính họ. 21 Những người ăn lễ Vượt Qua là dân Y-sơ-ra-ên lưu đày hồi hương cùng với hết thảy những người nào đã biệt mình riêng ra khỏi sự ô uế của dân địa phương để tìm cầu CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 22 Họ cũng vui mừng giữ lễ bánh không men trong bảy ngày, vì Đức Chúa Trời ban niềm vui cho họ, Ngài đổi lòng vua A-si-ri đối với họ, khiến vua giúp đỡ họ trong công tác xây cất đền thờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.

Footnotes

  1. 6:1 Nt: của quý/báu vật
  2. 6:2 Lúc ấy, văn kiện bằng tiếng A-ram viết trên cuốn da
  3. 6:3 Ctd: đền là nơi…
  4. 6:3 Khoảng 27m. Một am-ma tương đương với 46cm
  5. 6:8 MT: nói về công việc xây cất chứ không phải việc trả tiền
  6. 6:10 Nt: cầu nguyện cho sự sống của vua và…
  7. 6:11 Ctd: thay đổi
  8. 6:11 MT: không rõ nghĩa
  9. 6:12 Nt: giơ tay lên
  10. 6:12 Ctd: bằng cách
  11. 6:15 Tháng A-đa là tháng thứ 12 theo lịch Ba-by-lôn, khoảng 15 tháng 2 đến 15 tháng 3 tây lịch
  12. 6:18 MT: để phục vụ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem

Sắc lệnh của vua Đa-ri-út

Vậy vua Đa-ri-út ra lệnh sưu tầm sử liệu lưu trữ trong ngân khố ở Ba-by-lôn. Người ta tìm được một cuộn giấy ở Éc-ba-ta-na, thủ đô Ba-tư. Sau đây là những bút lục ghi trên đó.

Lưu ý: Vua Xi-ru ra sắc lệnh về đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem vào năm đầu tiên sau khi lên ngôi. Chỉ thị đó như sau:

“Đền thờ được phép xây lại để làm nơi dâng của lễ. Cho phép đặt nền; chiều cao đền thờ là ba mươi mốt thước [a], rộng ba mươi mốt thước. Có ba lớp đá lớn [b] rồi một lớp gỗ. Phí tổn do ngân khố nhà vua đài thọ. Những vật dụng bằng vàng và bạc từ đền thờ Thượng Đế phải được trả lại và đặt vào vị trí cũ. Nê-bu-cát-nết-xa đã lấy những món đó từ đền thờ ở Giê-ru-sa-lem, mang qua Ba-by-lôn nhưng những món đó phải được đặt lại trong đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem.”

“Bây giờ, Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-tha-Bô-xê-nai, và các viên chức vùng đó hãy giang ra. Không được phá khuấy công tác của đền thờ Thượng Đế. Hãy để thống đốc của người Do-thái và các bô lão Do-thái xây lại đền thờ nầy trên nền cũ.

Ngoài ra ta ra lệnh cho ngươi làm như sau cho các bô lão Do-thái đang xây lại đền thờ: Phí tổn xây cất phải hoàn toàn do ngân khố hoàng gia đài thọ, lấy từ thuế thu được ở vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Ngươi hãy thi hành lệnh nầy để công tác không bị ngưng trệ. Hãy cung cấp cho những người đó bất cứ thứ gì họ cần: bò tơ đực, chiên đực hay chiên con để làm của lễ thiêu cho Thượng Đế trên trời, lúa mì, muối, rượu, hay dầu ô-liu. Hãy cung cấp cho các thầy tế lễ ở Giê-ru-sa-lem bất cứ thứ gì họ yêu cầu mỗi ngày không được chậm trễ. 10 Như thế để họ dâng của lễ làm vui lòng Thượng Đế trên trời và cũng để họ cầu nguyện cho mạng sống của vua và các hoàng tử.

11 Ngoài ra, ta cũng ra lệnh nầy: Nếu ai thay đổi lệnh nầy thì phải rút một cây đà ra khỏi nhà nó và đâm xuyên qua người nó. Vì tội ác nó, nhà nó phải biến thành đống cây vụn. 12 Thượng Đế đã chọn Giê-ru-sa-lem làm nơi người ta thờ phụng Ngài. Nguyện Ngài trừng phạt vua nào hay người nào tìm cách thay đổi lệnh nầy hay hủy phá đền thờ nầy.

Ta, Đa-ri-út, ra lệnh nầy. Phải thi hành lệnh nầy mau chóng và cẩn thận.”

Hoàn tất công tác xây cất và lễ khánh thành đền thờ

13 Vì thế, Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-thê-Bô-xê-nai, và các đồng nghiệp họ vội vàng thi hành lệnh vua Đa-ri-út một cách cẩn thận. 14 Các bô lão Do-thái tiếp tục công tác xây cất và thành công vì lời giảng dạy của nhà tiên tri A-gai, và Xa-cha-ri, một con cháu của Y-đô. Họ hoàn tất công tác xây đền thờ theo như Thượng Đế của Ít-ra-en truyền dặn và theo sắc lệnh của các vua Xi-ru, Đa-ri-út, và Ạc-ta-xét-xe của Ba-tư. 15 Đền thờ được hoàn tất vào ngày ba tháng A-đa [c], năm thứ sáu đời vua Đa-ri-út. [d]

16 Rồi dân Ít-ra-en hân hoan kỷ niệm và dâng hiến đền thờ cho Thượng Đế để tôn kính Ngài. Mọi người đều vui vẻ: các thầy tế lễ, người Lê-vi, và toàn thể dân Giu-đa trở về từ cuộc lưu đày. 17 Họ dâng đền thờ cho Thượng Đế bằng một trăm con bò đực, hai trăm con chiên đực, bốn trăm con chiên con làm của lễ. Và để làm của lễ chuộc tội cho toàn dân Ít-ra-en, họ dâng mười hai con chiên đực, mỗi con đại diện cho một chi tộc trong Ít-ra-en. 18 Sau đó họ chia các thầy tế lễ và người Lê-vi ra hai nhóm riêng biệt. Mỗi nhóm phục vụ Thượng Đế ở đền thờ ở Giê-ru-sa-lem theo thời gian ấn định như sách Mô-se đã ghi.

Kỷ niệm Lễ Vượt Qua

19 [e] Những người Do-thái hồi hương từ cuộc lưu đày cử hành Lễ Vượt Qua vào ngày mười bốn tháng giêng [f]. 20 Các thầy tế lễ và người Lê-vi đã dọn mình thanh sạch. Sau đó người Lê-vi giết các con chiên con dùng cho Lễ Vượt Qua cho toàn thể dân chúng đã trở về từ cuộc lưu đày, cho thân nhân của họ là các thầy tế lễ, và cho chính mình. 21 Vậy toàn dân Ít-ra-en đã trở về từ cuộc lưu đày ăn con chiên của Lễ Vượt Qua. Dân chúng đã từ bỏ những lối sống không tinh sạch của các lân bang ngoại quốc để thờ phụng CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en. 22 Trong bảy ngày họ vui mừng kỷ niệm Lễ Bánh Không Men. CHÚA đã khiến họ vui mừng bằng cách thay đổi lòng của vua A-xy-ri [g] để vua giúp họ trong công tác xây cất đền thờ Thượng Đế của Ít-ra-en.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 6:3 ba mươi mốt thước Thước Nguyên văn, “60 cu-bít.”
  2. Ê-xơ-ra 6:4 đá lớn Hay “đá cẩm thạch.”
  3. Ê-xơ-ra 6:15 ngày ba tháng A-đa Theo lịch Do-thái tức khoảng tháng 2-3 dương lịch. Vài bản cổ ghi “ngày 23 tháng A-đa.”
  4. Ê-xơ-ra 6:15 năm thứ sáu đời vua Đa-ri-út Tức khoảng 515 trước Công nguyên.
  5. Ê-xơ-ra 6:19 Những người … Ở đây ngôn ngữ nguyên thủy A-ram được chuyển sang tiếng Hê-bơ-rơ.
  6. Ê-xơ-ra 6:19 tháng giêng Theo lịch Do-thái tức khoảng tháng 3-4 dương lịch, năm 515 trước Công nguyên.
  7. Ê-xơ-ra 6:22 vua A-xy-ri Đây có lẽ là vua Đa-ri-út của Ba-tư.