Ê-xê-ki-ên 4:1-23:22
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version
Bản đồ thành Giê-ru-sa-lem
4 “Bây giờ, hỡi con người, hãy lấy một viên gạch đặt trước mặt ngươi và vẽ bản đồ Giê-ru-sa-lem lên đó. 2 Rồi dùng một đạo quân vây nó. Hãy xây hào lũy chống nó và đắp một con đường đất lên đến chóp vách thành. Hãy dựng trại quân quanh nó và đặt các khúc cây phá vách [a] để phá sập các vách nó. 3 Rồi ngươi hãy lấy một miếng sắt dựng đứng lên như một vách giữa ngươi và thành. Hãy quay mặt ngươi về hướng thành phố làm như thể sắp tấn công xong rồi tấn công thật. Đó sẽ là dấu hiệu cho dân Ít-ra-en.
4 Rồi hãy nằm nghiêng bên trái và chất tội lỗi Ít-ra-en trên mình. Ngươi nằm bao lâu thì sẽ mang tội của chúng trên mình ngươi bấy lâu. 5 Ta ban cho ngươi số ngày bằng với số năm phạm tội của dân chúng. Vậy ngươi sẽ mang tội lỗi của Ít-ra-en trong 390 ngày [b].
6 Mãn 390 ngày thì hãy nằm xuống nghiêng bên phải. Ngươi sẽ mang tội lỗi của Giu-đa. Ta sẽ cho ngươi 40 ngày, mỗi ngày bằng một năm cho tội lỗi chúng. 7 Rồi ngươi sẽ hướng về Giê-ru-sa-lem là thành đang bị tấn công. Ngươi sẽ để trần tay áo và nói tiên tri nghịch cùng Giê-ru-sa-lem. 8 Ta sẽ buộc dây thừng quanh ngươi để ngươi không quay sang phía kia được cho đến khi ngươi đã hoàn tất xong số ngày ngươi tấn công Giê-ru-sa-lem [c].
9 Hãy lấy lúa mì, lúa mạch, đậu trái, đậu hột, và lúa đại mạch bỏ trong cối giã thành bột làm bánh mì cho ngươi. Ngươi sẽ ăn như thế trong ba trăm chín mươi ngày tức là thời gian mà ngươi phải nằm nghiêng một bên. 10 Ngươi sẽ ăn nửa cân [d] thực phẩm mỗi ngày theo giờ định sẵn. 11 Ngươi sẽ uống khoảng nửa lít [e] nước mỗi ngày vào giờ định sẵn. 12 Ăn thức đó như ăn bánh lúa mạch, nướng trên phân người để cho dân chúng đều thấy.” 13 Rồi CHÚA bảo, “Cũng vậy, dân Ít-ra-en sẽ ăn thức ăn không tinh sạch [f] giữa các dân tức những nơi ta đày chúng đến.”
14 Nhưng tôi phản đối, “Không được, thưa CHÚA! Tôi chưa bao giờ tự làm cho mình ô dơ. Từ lúc tôi còn trẻ đến nay tôi chưa hề ăn món gì chết tự nhiên hay bị thú xé. Chưa hề có món ăn nào không sạch vào miệng tôi.”
15 CHÚA đáp, “Thôi được. Ta cho phép ngươi dùng phân bò thay vì phân người để làm lửa nướng bánh.”
16 Ngài cũng bảo tôi, “Hỡi con người, ta sẽ cắt đứt nguồn thực phẩm của Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ ăn bánh mì được người ta lường cho và sẽ vừa ăn vừa lo lắng. Chúng cũng sẽ lường nước mà uống và sẽ kinh hoàng khi uống. 17 Vì bánh và nước sẽ rất hiếm hoi. Dân chúng sẽ kinh hoàng khi nhìn nhau và sẽ trở nên yếu ớt vì tội lỗi mình.”
Ê-xê-chiên cạo đầu
5 “Bây giờ, hỡi con người, hãy lấy một lưỡi gươm bén và dùng nó như lưỡi dao cạo của thợ hớt tóc cạo đầu và râu ngươi. Rồi lấy cân mà cân chúng và chia tóc ra. 2 Hãy đốt một phần ba tóc ở giữa thành sau khi những ngày tấn công Giê-ru-sa-lem kết thúc [g]. Rồi lấy dao cắt một phần ba còn lại quanh thành. Và rải một phần ba theo gió. Ta sẽ dùng gươm đuổi theo chúng như thế. 3 Ngoài ra lấy một vài sợi tóc buộc trong chéo áo ngươi. 4 Lấy một vài sợi, ném vào lửa, đốt cháy. Từ đó lửa sẽ lan ra khắp nhà Ít-ra-en [h].”
5 CHÚA phán như sau: “Đây là Giê-ru-sa-lem. Ta đã đặt nó ở giữa các dân, xung quanh có các nước khác. 6 Nhưng nó đã không vâng giữ luật lệ ta và làm ác hơn các dân tộc khác. Nó không vâng theo các qui tắc ta, còn tệ hơn các dân tộc quanh nó. Dân cư Giê-ru-sa-lem đã gạt bỏ các luật lệ ta, không sống theo các qui tắc ta.
7 Vì thế CHÚA là Thượng Đế phán: Ta làm như thế nầy vì ngươi đã không vâng giữ qui tắc và luật lệ ta. Ngươi cũng không tuân theo luật lệ của các dân tộc quanh ngươi. 8 Vì thế CHÚA là Thượng Đế phán: Chính ta sẽ nghịch lại ngươi và sẽ trừng phạt ngươi trước mắt các dân tộc khác. 9 Ta sẽ làm cho các ngươi những điều mà ta chưa hề làm bao giờ và cũng sẽ không bao giờ làm nữa vì ngươi đã làm những điều ta ghét. 10 Cha mẹ sẽ ăn thịt con cái, và con cái sẽ ăn thịt cha mẹ. Ta sẽ trừng phạt ngươi và phân tán những kẻ còn sống sót khắp tứ phương. 11 CHÚA là Thượng Đế phán: Ngươi đã dùng những thần tượng gian ác và các hành vi gớm ghiếc làm ô dơ đền thờ ta. Cho nên ta nhân danh ta là Đấng hằng sống rằng ta sẽ tiêu diệt ngươi, không thương tiếc. 12 Một phần ba trong các ngươi sẽ chết vì dịch lệ hay chết đói bên trong vách thành ngươi. Một phần ba sẽ ngã chết vì gươm bên ngoài vách thành và một phần ba sẽ bị ta phân tán khắp tứ phương khi ta dùng gươm rượt đuổi. 13 Rồi ta sẽ nguôi giận. Ta sẽ trút đổ hết cơn giận ta, lúc đó ta mới mãn nguyện. Rồi chúng sẽ biết rằng ta, CHÚA, đã phán những điều đó. Sau khi ta trút cơn giận ta trên chúng thì chúng sẽ biết ta tức giận đến mức nào.
14 Ta sẽ khiến ngươi bị tàn hại và trở thành một điều sỉ nhục giữa các dân quanh ngươi để cho ai nấy qua lại đều thấy. 15 Các dân tộc quanh ngươi sẽ sỉ nhục và chế giễu ngươi. Ngươi sẽ là một lời cảnh cáo khiến chúng kinh hoàng. Việc đó sẽ xảy ra khi ta đổ cơn thịnh nộ và trừng phạt ngươi. Ta, CHÚA, đã phán. 16 Ta sẽ sai thời kỳ đói kém đến để tiêu diệt ngươi, rồi ta sẽ bắn mũi tên đói kém bằng cách cắt đứt nguồn thực phẩm của ngươi. 17 Ta sẽ sai thời kỳ đói kém và thú dữ đến cùng ngươi, chúng sẽ giết các con cái ngươi. Dịch lệ và chết chóc sẽ càn quét ngươi và ta sẽ mang gươm giáo đến giết ngươi. Ta, CHÚA đã phán như vậy.”
Lời tiên tri nghịch cùng Ít-ra-en
6 CHÚA lại phán cùng tôi rằng: 2 “Hỡi con người, hãy nhìn về các núi non Ít-ra-en và nói tiên tri nghịch cùng chúng. 3 Hãy nói, Hỡi các núi non Ít-ra-en, hãy nghe lời CHÚA phán. CHÚA là Thượng Đế phán cùng các núi, đồi, hố sâu, và thung lũng rằng: Ta sẽ sai gươm đến cùng ngươi, ta sẽ hủy phá những nơi thờ tà thần của ngươi. 4 Các bàn thờ ngươi sẽ bị tiêu diệt và các bàn thờ dâng hương của ngươi sẽ bị phá sập. Dân chúng ngươi sẽ bị giết trước mặt các hình tượng ngươi. 5 Ta sẽ phơi bày những xác chết của dân Ít-ra-en trước mặt các thần tượng chúng và sẽ rải xương cốt ngươi quanh các bàn thờ ngươi. 6 Trong tất cả những nơi ngươi ở, các thành phố sẽ bị bỏ hoang. Các nơi thờ thần tượng sẽ bị điêu tàn; các bàn thờ ngươi sẽ thành đống gạch vụn trơ trọi. Các thần tượng ngươi sẽ bị phá sập không còn gì. Các bàn thờ xông hương ngươi sẽ bị phá sập, và những gì ngươi làm sẽ bị tiêu hủy. 7 Dân chúng ngươi sẽ bị giết và ngã chết ở giữa ngươi. Rồi ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA.
8 Nhưng ta sẽ chừa lại một số người sống sót; một số sẽ không bị các dân khác giết khi ngươi bị phân tán giữa các xứ ngoại quốc. 9 Rồi những kẻ sống sót sẽ nhớ lại ta, khi chúng sống giữa các dân mà chúng bị làm tù binh. Chúng sẽ nhớ lại ta đau lòng ra sao khi chúng bất trung với ta và quay lưng khỏi ta mà chỉ muốn thờ lạy các thần tượng mình. Chúng sẽ tự ghét mình vì đã làm những điều ta ghét. 10 Rồi chúng sẽ biết rằng ta là CHÚA. Không phải ta chỉ dọa suông khi ta bảo rằng ta sẽ mang những thảm họa nầy đến trên chúng [i].
11 CHÚA phán như sau: ‘Hãy vỗ tay, dậm chân, và rên rỉ vì những điều gớm ghiếc và gian ác mà dân Ít-ra-en đã làm. Chúng sẽ chết vì chiến tranh, đói kém, và bệnh tật. 12 Người ở xa sẽ chết vì bệnh tật. Kẻ ở gần sẽ chết vì chiến tranh. Ai còn sống sót, thoát khỏi các điều đó sẽ chết vì đói kém. Ta sẽ trút cơn giận ta trên chúng như vậy. 13 Dân nó sẽ chết la liệt ở giữa các thần tượng và quanh các bàn thờ chúng, trên các đồi cao [j], các đỉnh núi, dưới mỗi cây xanh, và cây sồi rậm lá tất cả những nơi chúng đã dâng hương cho thần tượng mình. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA. 14 Ta sẽ dùng quyền năng ta mà nghịch lại chúng để biến xứ nầy ra hoang vu hơn sa mạc Đíp-la [k], hay bất cứ nơi nào chúng sống. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA.’”
Thảm hoạ sắp đến trên Giê-ru-sa-lem
7 CHÚA lại phán cùng tôi rằng: 2 “Hỡi con người, CHÚA là Thượng Đế phán như sau về xứ Ít-ra-en:
Xong rồi! Cuối cùng đã đến khắp bốn phía.
3 Bây giờ cuối cùng đã đến trên ngươi!
Ta sẽ tỏ ra cơn thịnh nộ ta.
Ta sẽ xử phạt ngươi vì điều ác ngươi làm,
và ta sẽ khiến ngươi trả giá
về những điều kinh khủng mà ngươi làm.
4 Ta sẽ không thương hại hoặc tội nghiệp ngươi;
Ta sẽ xử phạt ngươi vì điều ác ngươi làm.
Ngươi đã làm những điều kinh khủng.
Rồi ngươi sẽ biết ta là CHÚA.”
5 CHÚA là Thượng Đế phán: “Thảm họa nầy chồng lên thảm họa khác. 6 Cuối cùng đã đến! Cuối cùng đã đến! Nó đã nổi lên nghịch ngươi! Kìa, nó đến rồi! 7 Thảm họa đến trên các ngươi là những kẻ sống trong xứ! Thời điểm đã đến; ngày hỗn loạn đã gần kề. Sẽ không còn có tiếng reo vui trên núi. 8 Ta sắp trút cơn thịnh nộ ta trên ngươi; ta sẽ trút cơn giận ta nghịch cùng ngươi. Ta sẽ xử phạt ngươi theo lối sống ngươi và khiến ngươi trả giá cho các việc ngươi làm mà ta ghét.
9 Ta sẽ không thương tiếc, không kiềm hãm sự trừng phạt ta. Ta sẽ trả cho ngươi theo lối sống ngươi và những hành động ngươi làm mà ta ghét. Rồi ngươi sẽ biết ta là CHÚA, Đấng trừng phạt.
10 Nầy, ngày đó đến rồi. Nó đến rồi. Thảm họa đã đến, sự bạo tàn đã nẩy nở, và sự kiêu căng nhiều hơn bao giờ hết. 11 Sự bạo tàn đã biến thành cái roi độc ác. Không ai trong dân chúng sống sót, sẽ không còn ai trong đám quần chúng đông đảo, không còn của cải, không còn vật có giá trị gì.
12 Thời giờ đã đến; ngày đã đến. Kẻ bán không nên vui, người mua cũng không nên tiếc vì cơn giận phừng của ta nghịch cùng toàn dân. 13 Những người đã bán tài sản [l] sẽ không trở về đất mà họ đã bán trong khi họ còn sống vì viễn tượng nghịch dân chúng sẽ không thay đổi. Vì tội lỗi chúng, sẽ không một ai có thể bảo toàn mạng sống mình được.
14 Chúng đã thổi kèn, mọi việc đều sẵn sàng nhưng không ai ra trận vì cơn giận ta nghịch cùng toàn dân. 15 Gươm giáo bên ngoài, bệnh tật và đói kém bên trong. Ai ở ngoài đồng sẽ bị gươm giết. Ai ở trong thành sẽ bị tiêu diệt vì đói kém và dịch lệ.
16 Ai còn sống sót hay thoát được lên núi sẽ rên rỉ về tội lỗi mình như cu đất trong thung lũng. 17 Mọi tay đều run rẩy, mọi đầu gối đều bủn rủn như nước. 18 Chúng sẽ mặc áo quần bằng vải sô để tỏ sự buồn rầu. Chúng sẽ run rẩy vì sợ. Nét mặt chúng sẽ tỏ ra sự nhục nhã, và mọi đầu đều cạo trọc. 19 Dân chúng sẽ ném bạc ngoài đường phố, và vàng của chúng sẽ như rơm rác. Bạc và vàng của chúng sẽ không thể cứu chúng khỏi cơn thịnh nộ của CHÚA. Nó sẽ không làm cho chúng khỏi đói hay làm cho no bụng, vì nó sẽ khiến chúng rơi vào tội lỗi.
20 Chúng hãnh diện về những đồ trang sức đẹp đẽ của mình, dùng nó để tạc các thần và các tượng chạm độc ác mà ta ghét cho nên ta sẽ biến của cải chúng nó ra rơm rác. 21 Ta sẽ ban nó cho những dân ngoại quốc làm chiến lợi phẩm và cho những kẻ độc ác nhất trên thế giới làm của báu và chúng sẽ xem thường nó. 22 Ta cũng sẽ quay mặt khỏi dân Ít-ra-en, và chúng sẽ làm dơ bẩn kho báu của ta. Rồi bọn trộm cướp sẽ xông vào đất ta và giày xéo nó.
23 Hãy chuẩn bị xiềng cho tù binh vì xứ đầy dẫy tội ác đổ máu và thành đầy những vụ bạo động. 24 Cho nên ta sẽ mang những kẻ xấu xa nhất của các quốc gia đến để chiếm đoạt nhà cửa của dân chúng. Ta cũng sẽ dẹp sự tự phụ của kẻ mạnh bạo, còn các nơi thánh của nó sẽ bị sỉ nhục.
25 Khi dân chúng đang lâm khốn khổ thì họ sẽ tìm hòa bình, nhưng chẳng thấy đâu. 26 Thảm họa chồng lên thảm họa, tiếng đồn nầy thêm vào tin đồn khác. Rồi họ sẽ tìm sự hiện thấy từ nhà tiên tri; còn những lời dạy dỗ của Thượng Đế qua thầy tế lễ và lời khuyên bảo của các bô lão cũng không thấy đâu. 27 Vua sẽ khóc lóc cay đắng, quan trưởng tuyệt vọng, và tay chân của thường dân sẽ run rẩy vì sợ. Ta sẽ trừng phạt chúng vì lối sống của chúng. Ta sẽ phân xử chúng giống như cách chúng phân xử người khác. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA.”
Tội lỗi diễn ra ở đền thờ
8 Ngày năm, tháng sáu, năm thứ sáu [m] của thời kỳ chúng tôi bị lưu đày, tôi đang ngồi trong nhà có các bô lão Giu-đa khác đang ngồi trước mặt tôi thì tôi cảm biết quyền năng của Chúa là Thượng Đế. 2 Tôi thấy có vật gì giống thân người. Từ hông trở xuống giống như lửa, từ hông trở lên sáng như sắt nung đỏ [n]. 3 Nó giơ ra vật gì giống như bàn tay và nắm lấy tóc tôi. Thần Linh [o] nhấc bổng tôi lên giữa trời và đất. Qua sự hiện thấy của Thượng Đế, người đưa tôi đến Giê-ru-sa-lem, vào cổng phía Bắc nơi sân trong của đền thờ. Trong sân đó có một hình tượng khiến Thượng Đế ganh tức. 4 Tôi thấy vinh quang của Thượng Đế của Ít-ra-en ở đó giống như tôi đã thấy trong đồng trống.
5 Rồi người bảo tôi, “Hỡi con người [p], bây giờ hãy nhìn về phía Bắc.” Cho nên tôi nhìn về phía Bắc và nơi cổng Bắc của bàn thờ có một pho tượng khiến Thượng Đế ganh tức.
6 Người hỏi tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy chúng đang làm gì không? Ngươi có thấy bao nhiêu điều gớm ghiếc mà dân Ít-ra-en đang làm ở đây để xua đuổi ta đi xa khỏi đền thờ ta không? Nhưng ngươi sẽ còn thấy nhiều điều gớm ghiếc hơn thế nầy nữa.”
7 Rồi người mang tôi vào nơi lối vào của sân. Tôi nhìn thì thấy một lỗ hổng nơi vách. 8 Người bảo tôi, “Nầy con người, hãy đào qua vách.” Vậy tôi đào qua vách thì thấy một lỗ trống.
9 Người tiếp, “Hãy đi vào xem những điều gớm ghiếc mà chúng đang làm ở đây.” 10 Vậy tôi đi vào và nhìn thì thấy đủ loài bò sát [q] và súc vật gớm ghiếc cùng mọi hình tượng của dân Ít-ra-en khắc tứ phía trên vách. 11 Đứng trước mặt các hình khắc và thần tượng đó là bảy mươi bô lão của Ít-ra-en cùng với Gia-a-xa-nia, con Sa-phan. Mỗi người cầm lư hương trong tay và khói thơm của trầm hương bay tỏa lên nghi ngút. 12 Rồi người bảo tôi, “Con người, ngươi thấy các bô lão Ít-ra-en đã làm gì trong bóng tối chưa? Ngươi có thấy mỗi người ở trong phòng riêng với thần tượng mình không? Chúng nói, ‘CHÚA không thấy chúng ta. CHÚA đã lìa bỏ xứ này rồi.’” 13 Người cũng bảo tôi, “Ngươi sẽ còn thấy nhiều điều gớm ghiếc hơn những điều chúng đang làm nữa.” 14 Rồi người mang tôi vào cổng Bắc của đền thờ CHÚA, ở đó tôi thấy các người đàn bà ngồi than khóc cho Tam-mu [r].
15 Người bảo tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy không? Ngươi sẽ còn thấy nhiều điều gớm ghiếc hơn thế nầy nữa.”
16 Rồi người mang tôi vào sân trong của đền thờ. Ở đó tôi thấy khoảng hai mươi lăm người đàn ông đang ngồi nơi cửa vào đền thờ CHÚA, ở giữa vòm cung và bàn thờ. Họ xây lưng vào đền thờ, mặt hướng về phía Đông và đang bái lạy mặt trời phía Đông.
17 Người hỏi tôi, “Hỡi con người, ngươi thấy chưa? Những điều gớm ghiếc mà dân Giu-đa đang làm so với điều chúng làm ở đây mà không quan trọng sao? Chúng làm cho xứ tràn ngập cảnh bạo động và cứ chọc giận ta. Xem đó, chúng tìm mọi cách để chọc giận ta [s]. 18 Cho nên ta sẽ ra tay trong cơn thịnh nộ ta. Ta sẽ không thương tiếc. Cho dù chúng la lớn trước mặt ta, ta cũng chẳng thèm để ý.”
Các sứ giả của Thượng Đế trừng phạt Giê-ru-sa-lem
9 Rồi người hét vào lỗ tai tôi, “Hỡi các ngươi là người đã được chọn để trừng phạt thành nầy, hãy mang vũ khí đến gần đây.” [t] 2 Liền có sáu người từ phía cổng trên, hướng về phía Bắc đi đến, tay mỗi người cầm vũ khí bén nhọn. Trong đám họ có một người mặc áo quần bằng vải gai mịn [u], bên hông đeo bộ bảng viết [v]. Các người đó vào và đứng bên cạnh bàn thờ bằng đồng.
3 Rồi vinh quang của Thượng Đế Ít-ra-en cất lên phía trên các con thú có cánh, đến chỗ trong đền thờ nơi cửa mở ra. Người gọi người mặc áo quần bằng vải gai mịn có bộ bảng viết bên hông. 4 Người bảo người đó, “Hãy đi qua Giê-ru-sa-lem và đánh dấu lên trán những người đã than khóc về những điều gớm ghiếc đang diễn ra giữa chúng.”
5 Khi tôi đang nghe thì người bảo các người kia, “Hãy đi qua khắp thành sau lưng người mặc áo quần bằng vải gai mịn và chém giết. Đừng tội nghiệp hay thương hại ai cả. 6 Hãy giết và tiêu diệt ông già, bà cả, thanh niên, thiếu nữ, trẻ con, nhưng đừng đụng đến ai có dấu trên trán. Hãy bắt đầu từ đền thờ ta.” Vậy họ bắt đầu từ các bô lão đang đứng trước mặt đền thờ.
7 Rồi người bảo các người đó, “Hãy làm ô uế đền thờ và chất các xác chết đầy sân. Hãy ra đi!” Vậy họ ra đi và sát hại dân chúng trong thành. 8 Trong khi họ đang chém giết dân chúng thì tôi còn lại một mình. Tôi cúi sấp mặt xuống đất và kêu lên, “Ôi, CHÚA là Thượng Đế ôi! Ngài sẽ tiêu diệt hết mọi người còn sống sót trong Ít-ra-en khi Ngài đổ cơn thịnh nộ mình trên Giê-ru-sa-lem sao?” 9 Rồi người bảo tôi, “Tội lỗi của dân Ít-ra-en và Giu-đa lớn lắm. Đất đầy dẫy bọn sát nhân, thành đầy dẫy việc bất công. Dân chúng nói, ‘CHÚA đã lìa khỏi xứ nầy rồi, Ngài không còn thấy gì nữa cả.’ 10 Nhưng ta sẽ không thương tiếc, không tỏ lòng tội nghiệp. Ta sẽ báo trả điều ác lên trên đầu chúng.”
11 Rồi người mặc quần áo bằng vải gai mịn có đeo bộ bảng viết bên hông báo cáo, “Tôi đã thi hành xong mệnh lệnh của ông.”
Than lửa đỏ
10 Rồi tôi nhìn thì thấy có một cái vòm [w] trên đầu các con thú giống như bích ngọc tựa như một cái ngai. 2 CHÚA phán cùng người đang mặc áo vải gai mịn [x] rằng, “Hãy đi đến khu giữa các bánh xe [y] dưới các con thú, bụm tay đầy than lửa giữa các con thú và rải than lên khắp thành.”
Trong khi tôi nhìn thì người mặc áo vải gai mịn đi vào. 3 Bấy giờ các con thú đang đứng ở phía Nam [z] của thành khi người đó bước vào. Có một đám mây bao phủ sân trong của đền thờ. 4 Rồi vinh quang của CHÚA cất lên từ các con thú và dừng trên cửa đền thờ. Đền thờ đầy mây, còn sân cũng sáng rực vinh quang của CHÚA. 5 Tiếng đập cánh của các con thú vang xa tận bên sân ngoài. Âm thanh ấy giống như tiếng phán của Thượng Đế Toàn Năng.
6 Rồi CHÚA truyền cho người mặc áo gai mịn như sau, “Hãy lấy lửa từ giữa các bánh xe, giữa các con thú,” thì người đó đi vào đứng bên một trong các bánh xe. 7 Một con thú thò tay ra trên lửa ở giữa các con thú, lấy một ít và trao cho người mặc áo vải gai mịn. Người đó lấy lửa xong rồi đi ra.
Các bánh xe và các con thú
8 Bên dưới cánh của các con thú có vật gì giống cánh tay người thò ra. 9 Tôi thấy bốn bánh xe bên cạnh các con thú, mỗi bánh bên cạnh mỗi con thú. Bánh xe sáng chói như hoàng ngọc. 10 Bốn bánh xe đều giống nhau: Mỗi bánh giống như bánh lồng vào trong bánh khác. 11 Khi các bánh xe di chuyển thì chúng đi theo hướng mà bốn con thú quay mặt. Các bánh xe không quay qua quay lại, và bốn con thú khi di chuyển cũng không quay mình. 12 Toàn thân, lưng, tay, cánh và các bánh xe đều đầy con mắt. Mỗi con thú có một bánh xe. 13 Tôi nghe các bánh xe đó gọi là “bánh xe quay tít.”
14 Mỗi con thú có bốn mặt. Mặt đầu tiên là mặt con thú có cánh [aa]. Mặt thứ nhì là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử, và mặt thứ tư là mặt chim ưng. 15 Rồi các con thú bay lên. Đó chính là các con thú mà tôi thấy bên bờ sông Kê-ba [ab].
16 Khi các con thú di chuyển thì các bánh xe cũng lăn kề bên. Khi các con thú cất cánh để bay lên khỏi đất thì các bánh xe cũng đi kề bên. 17 Khi các con thú dừng lại thì các bánh xe cũng dừng. Khi các con thú bay lên, thì các bánh xe cũng cất lên vì thần linh [ac] của các con thú ở trong các bánh xe.
18 Rồi vinh quang của CHÚA rời khỏi cửa đền thờ và dừng lại trên các con thú. 19 Trong khi tôi nhìn thì các con thú giương cánh bay lên khỏi đất, có các bánh xe kề bên. Chúng dừng nơi cổng Đông của đền thờ mở ra, và vinh hiển của Thượng Đế của Ít-ra-en ngự trên chúng.
20 Đó là các con thú mà tôi nhìn thấy bên dưới Thượng Đế của Ít-ra-en nơi bờ sông Kê-ba. Tôi biết các con thú đó gọi là chê-ru-bim. 21 Mỗi con có bốn mặt và bốn cánh, và dưới cánh của chúng có vật gì giống các bàn tay người thò ra. 22 Mặt của chúng giống như mặt tôi đã thấy bên bờ sông Kê-ba. Mỗi con thú đi thẳng trước mặt.
Lời tiên tri nghịch cùng các lãnh tụ gian ác
11 Thần Linh [ad] nhấc tôi lên và mang tôi đến cổng trước của đền thờ CHÚA, quay về hướng Đông. Tôi thấy hai mươi lăm người đứng nơi cổng vào, trong số đó có Gia-a-xa-nia, con A-xua, và Bê-la-tia, con Bê-nai-gia, là các lãnh tụ của dân chúng. 2 Rồi CHÚA phán cùng tôi, “Hỡi con người [ae], đây là những người manh tâm chuyện ác và đưa ra những ý kiến gian ác trong thành Giê-ru-sa-lem nầy. 3 Chúng nói, ‘Chưa đến lúc chúng ta cất nhà. Thành nầy giống như nồi nấu, còn chúng ta như thịt ngon nhất.’ 4 Cho nên hãy nói tiên tri nghịch cùng chúng, hỡi con người, hãy nói tiên tri.”
5 Rồi Thần linh của CHÚA nhập vào tôi và bảo tôi nói như sau: “CHÚA phán: Hỡi dân Ít-ra-en, các ngươi đã nói những điều đó nên ta biết ý nghĩ các ngươi. 6 Các ngươi đã giết nhiều người trong thành nầy, quăng xác chết la liệt trên đường phố.”
7 Cho nên CHÚA là Thượng Đế phán như sau: “Những người mà các ngươi đã giết và bỏ giữa thành phố như thịt ngon nhất, còn thành nầy như nồi nấu. Nhưng ta sẽ đuổi các ngươi ra khỏi thành nầy. 8 Các ngươi đã sợ gươm nhưng ta sẽ mang gươm đến cùng ngươi, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. 9 Ta sẽ đuổi các ngươi ra khỏi thành và trao các ngươi vào tay kẻ lạ và trừng phạt các ngươi. 10 Các ngươi sẽ chết vì gươm. Ta sẽ trừng phạt các ngươi nơi biên giới Ít-ra-en để các ngươi biết ta là CHÚA. 11 Thành nầy sẽ không phải là nồi nấu của ngươi, và các ngươi sẽ không phải là miếng thịt ngon nhất nằm trong đó. Ta sẽ trừng phạt các ngươi nơi biên giới Ít-ra-en. 12 Rồi các ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA. Các ngươi không sống theo qui tắc hay tuân theo luật lệ ta. Ngược lại, các ngươi làm y như các dân tộc xung quanh ngươi.”
13 Trong khi tôi đang nói tiên tri thì Bê-la-tia, con Bê-nai-gia chết. Tôi liền cúi sấp mặt xuống đất và kêu lớn, “Ôi, lạy CHÚA là Thượng Đế! Ngài sẽ hoàn toàn tiêu diệt những người Ít-ra-en còn sống sót sao?”
Lời hứa cho những kẻ còn lại
14 CHÚA phán cùng tôi, 15 “Hỡi con người, dân cư còn ở Giê-ru-sa-lem đã nói về thân nhân ngươi và những tù binh Ít-ra-en đang ở với ngươi như sau, ‘Chúng hiện quá xa CHÚA. Xứ nầy bây giờ đã được trao cho chúng ta làm tài sản.’
16 Cho nên hãy bảo, ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Ta đã đày dân chúng đến các dân ở thật xa và phân tán chúng giữa các nước. Nhưng lâu nay ta là đền thờ cho chúng nó trong thời gian chúng bị đày ra các nước khác.’
17 Cho nên hãy nói: ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Ta sẽ gom các ngươi lại từ các dân và mang ngươi về từ các nước mà các ngươi bị phân tán. Rồi ta sẽ trả lại đất Ít-ra-en cho các ngươi.’
18 Khi chúng đến xứ nầy, chúng sẽ tháo bỏ các tượng chạm gian ác và các hình ảnh gớm ghiếc. 19 Ta sẽ ban cho chúng tấm lòng tôn kính ta hoàn toàn, và ta sẽ đặt vào lòng chúng tinh thần mới. Ta sẽ lấy lòng ương ngạnh bằng đá ra khỏi chúng mà ban cho chúng tấm lòng biết vâng phục bằng thịt. 20 Rồi chúng sẽ sống theo qui tắc và vâng giữ luật lệ ta. Chúng sẽ làm dân ta, ta sẽ làm Thượng Đế chúng.
21 Nhưng những ai muốn phục vụ các hình tượng gian ác và các tượng chạm đáng ghê tởm thì ta sẽ báo trả chúng xứng với lối ác của chúng, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Vinh quang của Thượng Đế rời bỏ Giê-ru-sa-lem
22 Rồi các con thú nhấc cánh cùng với các bánh xe bên cạnh chúng. Vinh quang của Thượng Đế của Ít-ra-en ngự trên chúng. 23 Vinh quang của CHÚA cất lên từ bên trong Giê-ru-sa-lem và dừng lại trên ngọn đồi nằm về phía Đông của thành [af]. 24 Thần linh nhấc tôi lên và mang tôi đến cùng các tù binh đã bị đày từ Giu-đa sang Ba-by-lôn. Việc đó xảy ra trong sự hiện thấy do Thần Linh [ag] của Thượng Đế, rồi sự hiện thấy mà tôi mục kích chấm dứt. 25 Tôi thuật lại cho các tù binh Giu-đa mọi điều CHÚA cho tôi thấy.
Ê-xê-chiên dọn ra ngoài
12 CHÚA lại phán cùng tôi rằng: 2 “Hỡi con người, ngươi đang sống giữa một dân bất vâng phục. Chúng có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe vì chúng là dân bất vâng phục. 3 Cho nên, hỡi con người, hãy gói ghém hành trang như thể ngươi sắp bị lưu đày, và ra đi giữa thanh thiên bạch nhật như người bị lưu đày để cho mọi người đều thấy. Hãy dọn từ chỗ ngươi ở đến một nơi khác trước sự chứng kiến của mọi người. Rất có thể chúng sẽ hiểu, dù rằng chúng là dân bất vâng phục.
4 Ban ngày trong khi mọi người đang nhìn thì hãy mang hành lý ra như thể bị đi đày. Đến chiều, khi mọi người đang nhìn thì rời khỏi chỗ ngươi ở như thể đang bị lưu đày khỏi xứ mình. 5 Trong khi chúng đang nhìn thì đào một cái lỗ qua vách rồi mang các hành trang ngươi qua đó. 6 Vác chúng lên vai trong khi dân chúng đang nhìn và mang chúng vào bóng tối. Hãy che mặt để ngươi không nhìn thấy đất vì ta đã dùng ngươi làm một dấu hiệu cho dân Ít-ra-en.”
7 Tôi làm y theo điều tôi được dặn bảo. Ban ngày tôi mang các thứ tôi đã gói ghém như thể sắp bị lưu đày. Rồi đến chiều tôi lấy tay khoét một lỗ qua vách. Tôi mang các món đồ đó trong bóng tối và vác lên vai trong khi dân chúng đang nhìn.
8 Đến buổi sáng CHÚA bảo tôi rằng: 9 “Hỡi con người, nếu dân Ít-ra-en, vốn bất vâng phục, hỏi ngươi, ‘Ông làm gì vậy?’
10 Thì hãy bảo chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán như sau: Lời tiên tri nầy là về vua ở Giê-ru-sa-lem và toàn dân Ít-ra-en đang sống ở đó.’ 11 Bảo chúng, Ta là dấu hiệu cho các ngươi. Những điều ta đã làm sẽ được làm cho dân chúng ở Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ bị bắt làm tù binh bị lưu đày khỏi xứ mình. 12 Vua của họ sẽ phải vác hành trang trên lưng mình trong bóng tối và lên đường ra đi. Dân chúng sẽ đào một cái lỗ để mang vua ra. Người sẽ che mặt mình để không nhìn thấy đất. 13 Nhưng ta sẽ bủa lưới ra trên người và bắt người trong bẫy ta. Rồi ta sẽ mang người đến Ba-by-lôn, trong xứ người Canh-đê. Người sẽ không nhìn thấy xứ đó nhưng sẽ qua đời tại đó [ah]. 14 Ta sẽ phân tán dân chúng của vua ra khắp các nước lân cận quanh Ít-ra-en. Ta sẽ phân tán quân đội người khắp các hướng gió. Quân thù sẽ đuổi theo họ.
15 Chúng sẽ biết ta là CHÚA khi ta phân tán chúng giữa các dân và trải chúng ra giữa các nước. 16 Nhưng ta sẽ cứu một số người trong vòng chúng khỏi lưỡi gươm, đói kém và dịch lệ. Rồi chúng sẽ kể lại những hành động đáng gớm ghiếc của mình nơi chúng đến. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA.”
Bài học về việc Ê-xê-chiên run rẩy
17 CHÚA phán cùng tôi rằng: 18 “Hỡi con người, hãy run rẩy khi ăn và run sợ khi ngươi uống nước. 19 Rồi hãy bảo dân chúng trong xứ rằng: ‘CHÚA phán như sau về dân cư Giê-ru-sa-lem trong xứ Ít-ra-en: Chúng nó sẽ ăn trong run sợ và uống trong kinh khiếp vì xứ chúng sẽ bị cướp lột trần trụi do sự hung bạo của dân sống trong xứ. 20 Các thành phố có dân cư sống sẽ trở thành hoang tàn, xứ sẽ hoang vu. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA.’”
Những sự hiện thấy sẽ thành sự thật
21 CHÚA phán cùng tôi rằng, 22 “Hỡi con người, câu ngạn ngữ sau đây mà các ngươi hay nói trong xứ Ít-ra-en có nghĩa gì: ‘Ngày qua tháng lại mà các sự hiện thấy chẳng có gì linh ứng’?
23 Cho nên hãy bảo chúng, ‘Chúa là Thượng Đế phán như sau: Ta sẽ khiến chúng thôi không nói câu ấy nữa, không ai trong Ít-ra-en sẽ dùng câu ngạn ngữ nầy nữa.’ Nhưng hãy bảo chúng, ‘Gần đến lúc mà tất cả những sự hiện thấy sẽ thành sự thật. 24 Sẽ không có sự hiện thấy giả hay những lời tiên tri êm tai trong nhà Ít-ra-en, 25 nhưng ta, CHÚA, sẽ phán. Điều ta phán sẽ thành, không trì hoãn nữa. Các ngươi muốn bất vâng phục thì cứ việc nhưng trong thời các ngươi, ta sẽ phán và thực hiện điều đó, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.’”
26 CHÚA phán cùng tôi rằng: 27 “Hỡi con người, dân Ít-ra-en nói, ‘Sự hiện thấy mà Ê-xê-chiên đã chứng kiến về một thời kỳ còn lâu lắm mới xảy ra. Ông ta tiên tri về một thời kỳ xa xăm trong tương lai.’
28 Cho nên hãy bảo chúng: ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Sẽ không có lời nào của ta bị trì hoãn nữa. Điều ta nói sẽ thành sự thật, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.’”
Ê-xê-chiên nói tiên tri chống các nhà tiên tri giả
13 CHÚA phán cùng tôi rằng: 2 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng các nhà tiên tri trong Ít-ra-en. Hãy bảo những kẻ bịa đặt lời tiên tri mình như sau: Hãy nghe lời CHÚA phán. 3 CHÚA là Thượng Đế phán: Khốn cho các nhà tiên tri ngu dại đi theo ý tưởng mình, không hề nhận được sự hiện thấy nào từ ta! 4 Hỡi dân Ít-ra-en, những nhà tiên tri của các ngươi như chó rừng đi săn mồi và ăn giữa các nơi hoang tàn. 5 Ít-ra-en như một căn nhà hoang phế, nhưng các ngươi không lên những nơi đổ nát hay sửa chữa vách lại. Thế thì làm sao Ít-ra-en chống lại được quân thù trong chiến trận vào ngày xét xử của Chúa? 6 Các nhà tiên tri của các ngươi chứng kiến những sự hiện thấy giả và nói tiên tri dối. Chúng nói, ‘CHÚA phán như sau,’ mà thật ra CHÚA không có sai chúng nó. Dù vậy chúng vẫn mong lời nói mình thành sự thật. 7 Chúng bảo ‘Đây là lời CHÚA phán,’ nhưng đó là sự hiện thấy giả. Những lời nhà tiên tri của các ngươi là điều bịa đặt, vì ta không hề phán.”
8 Vì thế CHÚA là Thượng Đế phán như sau: “Vì các ngươi nói những điều dối trá và thấy những việc bịa đặt cho nên ta nghịch lại các ngươi,” CHÚA phán vậy. 9 Ta sẽ trừng phạt các nhà tiên tri thấy các sự hiện thấy giả và nói tiên tri dối. Chúng không có chỗ đứng nào trong dân ta. Tên tuổi của chúng sẽ không được ghi vào danh sách của dân Ít-ra-en, chúng cũng sẽ không được vào trong xứ Ít-ra-en nữa. Rồi các ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA, là Thượng Đế.
10 Vì các ngươi đã dẫn dân ta đi lầm lạc bằng cách tuyên bố, “Hoà bình!” mà thật ra chẳng có hoà bình gì cả. Khi dân chúng xây một bức tường yếu ớt thì các nhà tiên tri quét vôi trắng lên để nó trông có vẻ vững chắc. 11 Vì thế hãy bảo những kẻ quét vôi trắng để che đậy bức tường yếu ớt rằng nó sẽ sụp đổ. Mưa trút xuống, mưa đá rơi, và gió bão sẽ xô nó sập xuống. 12 Khi vách đã sập thì dân chúng sẽ hỏi các ngươi, “Chớ lớp vôi trắng mà các ông quét lên tường đâu rồi?”
13 Cho nên CHÚA phán như sau: “Ta sẽ dùng gió bão phá vách đó. Trong cơn thịnh nộ mưa sẽ đổ xuống và mưa đá sẽ phá sập vách đó. 14 Ta sẽ phá sập vách mà ngươi đã quét vôi trắng phủ lên. Ta sẽ san bằng vách đó để cho dân chúng nhìn thấy nền của nó. Khi vách sập xuống thì các ngươi sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA. 15 Ta sẽ đổ cơn giận ta trên vách và trên những kẻ quét vôi trắng cho nó. Rồi ta sẽ bảo các ngươi, ‘Vách đã sập rồi, những kẻ quét vôi trắng cho nó cũng không còn. 16 Các nhà tiên tri trong Ít-ra-en nói tiên tri về Giê-ru-sa-lem và thấy sự hiện thấy về hoà bình cho thành, trong khi chẳng có hoà bình, cũng sẽ không còn, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.’”
Các nữ tiên tri giả
17 “Bây giờ, hỡi con người, hãy nhìn hướng về những người đàn bà trong dân chúng ngươi là kẻ bịa đặt lời tiên tri mình. Hãy nói tiên tri nghịch chúng. 18 Hãy nói, CHÚA là Thượng Đế phán: Khốn cho bọn đàn bà may bùa trên cổ tay mình và làm các bức màn che đủ loại để lường gạt người khác! Các ngươi tưởng rằng có thể đánh bẫy dân ta bằng sự dối gạt mà đời mình được an toàn sao? 19 Các ngươi đã làm nhục ta giữa vòng dân ta để đổi lấy một nhúm lúa mạch và mấy miếng bánh mì. Khi nói dối cùng dân ta là những kẻ chịu nghe điều dối trá, các ngươi đã giết những kẻ không đáng chết, và để cho sống những kẻ không đáng sống.”
20 Cho nên CHÚA là Thượng Đế phán: “Ta nghịch lại các bùa chú của các ngươi mà các ngươi dùng để đánh bẫy người ta như chim. Ta sẽ giật các bùa chú đó khỏi tay các ngươi và giải thoát những kẻ sập bẫy của các ngươi. 21 Ta cũng sẽ xé màn che mặt các ngươi để giải thoát dân ta khỏi tay các ngươi. Họ sẽ không bị quyền lực của các ngươi bắt lấy nữa. Rồi các ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA. 22 Các ngươi đã nói dối, khiến cho những kẻ làm điều thiện phải buồn rầu trong khi chính ta không làm cho họ buồn rầu. Ngươi đã xúc giục kẻ ác cứ tiếp tục làm ác vì nếu không thì chúng đã có thể cứu được mạng mình rồi. 23 Cho nên các ngươi sẽ không còn thấy sự hiện thấy giả và nói tiên tri nữa. Ta sẽ giải cứu dân ta khỏi quyền lực các ngươi để các ngươi biết rằng ta là CHÚA.”
Lời khuyên chớ nên thờ thần tượng
14 Một số các bô lão trong Ít-ra-en đến gặp tôi và ngồi trước mặt tôi. 2 Rồi CHÚA phán cùng tôi rằng: 3 “Hỡi con người, những người nầy muốn thờ thần tượng. Họ dựng lên những vật ác để xui giục dân chúng phạm tội. Ta có nên để chúng xin ta giúp đỡ không? 4 Cho nên hãy bảo chúng, ‘CHÚA phán như sau: Khi người nào trong Ít-ra-en muốn thờ thần tượng và dựng lên những vật ác để xui dân chúng phạm tội rồi đến gặp nhà tiên tri thì chính ta, CHÚA, sẽ đích thân trả lời cho nó về việc thờ thần tượng. 5 Ta làm như thế để mang dân Ít-ra-en ta, dân đã bỏ ta theo các thần tượng của chúng, trở về.’”
6 Cho nên hãy bảo dân Ít-ra-en, “CHÚA là Thượng Đế phán: Hãy thay đổi lòng và nếp sống, đừng thờ thần tượng nữa. Hãy thôi làm điều ta gớm ghiếc. 7 Người Ít-ra-en hay người ngoại quốc nào trong Ít-ra-en cũng có thể tách xa khỏi ta bằng cách thờ thần tượng hay dựng nên những điều khiến người khác phạm tội. Nếu chúng đến cùng nhà tiên tri để hỏi ý ta thì chính ta sẽ trả lời cho chúng. 8 Ta sẽ gạt bỏ chúng. Ta sẽ khiến chúng thành một dấu hiệu và một câu ngạn ngữ, và ta sẽ phân chia chúng ra khỏi dân ta. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA.
9 Nhưng nếu nhà tiên tri bị gạt để nói tiên tri là vì ta, CHÚA, đã gạt tiên tri đó để nói. Rồi ta sẽ dùng quyền năng ta nghịch lại nó và tiêu diệt nó khỏi dân Ít-ra-en ta. 10 Nhà tiên tri cũng có tội như kẻ đến xin tiên tri cứu giúp; cả hai đều mang lấy tội mình. 11 Rồi dân Ít-ra-en sẽ không rời bỏ ta nữa hay tự làm cho mình ra ô dơ do tội lỗi mình. Chúng sẽ làm dân ta, và ta sẽ là Thượng Đế chúng. CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Giê-ru-sa-lem sẽ không được dung tha
12 CHÚA phán cùng tôi rằng: 13 “Hỡi con người, nếu dân chúng trong một nước phạm tội bất trung cùng ta thì ta sẽ dùng quyền năng ta nghịch lại chúng. Ta sẽ cắt đứt nguồn thực phẩm của chúng, sai cơn đói kém đến để tiêu diệt người và thú vật. 14 Lúc đó dù trong xứ có ba vĩ nhân như Nô-ê, Đa-niên, và Gióp [ai] đi nữa thì sự công chính của họ cũng chỉ cứu được chính mạng mình mà thôi, CHÚA phán vậy.
15 Nếu ta sai thú dữ đến trong xứ khiến nó hoang vu, không ai ở, chẳng ai dám qua đó vì thú dữ. 16 Thật như ta hằng sống, CHÚA là Thượng Đế phán, dù trong xứ có Nô-ê, Đa-niên, và Gióp đi nữa thì họ cũng sẽ không cứu nổi con trai con gái mình. Họ chỉ có thể cứu chính mạng mình được thôi, còn xứ sẽ bị hoang vu.
17 Nếu ta mang giặc giã đến xứ đó. Nếu ta bảo, ‘Giặc giã hãy xảy đến trong xứ đi,’ để tiêu diệt người và súc vật. 18 CHÚA là Thượng Đế phán, thật như ta hằng sống, thì dù trong xứ có ba người đó thì họ cũng chẳng có thể cứu được con trai con gái mình. Họ chỉ có thể cứu được chính mình mà thôi.
19 Nếu ta sai dịch lệ đến trong xứ. Nếu ta đổ cơn thịnh nộ ta trên nó, tiêu diệt người và súc vật. 20 CHÚA là Thượng Đế phán, thật như ta hằng sống, thì dù cho trong xứ có Nô-ê, Đa-ni-ên và Gióp đi nữa, họ cũng không thể cứu con trai con gái mình. Họ chỉ có thể cứu được chính mạng mình mà thôi vì họ đã làm điều phải.”
21 CHÚA phán như sau: “Chương trình ta định cho Giê-ru-sa-lem còn tệ hơn vậy nữa! Ta sẽ sai bốn sự trừng phạt kinh khiếp của ta đến với nó: chiến tranh, đói kém, thú dữ, và dịch lệ để tiêu diệt dân cư nó và súc vật. 22 Nhưng một số người sẽ thoát được; một số con trai và con gái sẽ được dẫn ra. Chúng sẽ đi ra cùng ngươi và ngươi sẽ thấy số phận của những người sống theo lối đó. Rồi các ngươi sẽ được an ủi sau những thảm họa ta sai đến trên Giê-ru-sa-lem, sau những điều ta làm nghịch nó. 23 Ngươi sẽ được an ủi khi nhìn thấy số phận của chúng do lối sống của họ rồi vì ngươi sẽ hiểu lý do tại sao ta ra tay với Giê-ru-sa-lem, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Câu chuyện cây nho
15 CHÚA phán cùng tôi rằng: 2 “Hỡi con người, gỗ của cây nho [aj] có tốt hơn gỗ của các cây khác trong rừng không? 3 Người ta có thể nào lấy gỗ cây nho dùng vào việc gì không? Ngươi có thể nào dùng gỗ đó để đóng cọc máng vật gì không? 4 Nếu cây nho bị ném vào lửa để chụm, và nếu lửa đốt cháy hai đầu của nó rồi sắp sửa đốt cháy khúc giữa thì nó có còn dùng vào việc gì không? 5 Khi thân cây nho còn nguyên thì nó đã không thể dùng được vào việc gì rồi huống hồ lúc nó đã bị cháy thì còn dùng vào việc gì nữa?” 6 Cho nên CHÚA là Thượng Đế phán như sau: “Trong số các cây cối trong rừng ta đã lấy gỗ cây nho dùng chụm lửa. Cũng vậy ta đã từ bỏ dân cư Giê-ru-sa-lem 7 và sẽ nghịch chúng. Dù chúng thoát khỏi một trận hỏa hoạn, lửa vẫn tiêu diệt chúng. Khi ta nghịch lại chúng thì các ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA. 8 Cho nên ta sẽ khiến đất hoang vu vì dân nầy đã tỏ ra bất trung, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Sự nhân từ của Chúa đối với Giê-ru-sa-lem
16 CHÚA phán cùng tôi rằng: 2 “Hỡi con người, hãy cho Giê-ru-sa-lem biết những điều gớm ghiếc nó làm. 3 Hãy bảo, CHÚA là Thượng Đế phán cùng Giê-ru-sa-lem: Ban đầu tổ tiên các ngươi ở trong xứ Ca-na-an. Cha ngươi là người A-mô-rít, mẹ ngươi là người Hê-tít. 4 Ngày ngươi ra chào đời, rún ngươi chưa cắt. Người ta chưa tắm ngươi cho sạch. Ngươi chưa được xát muối hay quấn trong khăn. 5 Chẳng có ai tội nghiệp ngươi để làm những điều đó cho ngươi. Không, ngươi bị ném vào đồng trống vì từ khi ngươi sinh ra đã bị ghét bỏ rồi.
6 Khi ta đi ngang qua nhìn thấy ngươi quằn quại trong vũng máu ngươi thì ta bảo, ‘Hãy sống!’ 7 Rồi ta khiến ngươi mọc lên như cây trong đồng. Ngươi lớn lên và trở nên như viên ngọc xinh đẹp. Vú ngươi dậy lên, tóc ngươi mọc ra, nhưng ngươi vẫn trần truồng không quần áo mặc.
8 Sau đó ta đi qua lại và nhìn ngươi thì thấy ngươi đã lớn và biết yêu đương. Cho nên ta phủ áo ta trên ngươi [ak] để che đậy sự trần truồng ngươi. Ta cũng hứa cùng ngươi và lập giao ước [al] với ngươi để ngươi thuộc về ta, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.
9 Rồi ta tắm ngươi, lau sạch máu khỏi ngươi và xức dầu cho ngươi. 10 [am] Ta mặc cho ngươi áo quần thêu may thật đẹp, cho ngươi mang dép da thật tốt vào chân ngươi. Ta lấy vải gai mịn để quấn ngươi và dùng tơ lụa choàng lên ngươi. 11 Rồi ta đeo nữ trang vào cho ngươi: nào vòng tay, kiềng đeo cổ, 12 khoen đeo mũi, bông tai, nào mão triều đội trên đầu ngươi. 13 Vậy ngươi được trang sức bằng vàng và bạc. Áo quần ngươi may bằng vải gai mịn, tơ lụa và thêu đan thật đẹp. Ngươi ăn loại bột mịn, mật ong và dầu ô liu. Ngươi trở nên xinh đẹp và thành hoàng hậu. 14 Rồi ngươi nổi danh giữa các dân vì ngươi trở nên quá xinh đẹp. Vẻ đẹp của ngươi thật toàn hảo vì vinh hiển mà ta ban cho ngươi, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Giê-ru-sa-lem, nàng dâu bất chính
15 “Nhưng ngươi ỷ lại vào nhan sắc mình. Ngươi trở thành gái điếm vì ngươi quá nổi tiếng. Ngươi ăn nằm với tất cả những ai qua lại. 16 Ngươi dùng một số quần áo để biến những nơi thờ phụng [an] ngươi thêm màu mè rực rỡ. Rồi ngươi hành nghề mãi dâm ở những nơi ấy. Những việc như thế không nên làm, không nên diễn ra. 17 Ngươi cũng dùng những đồ trang sức xinh đẹp bằng vàng và bạc mà ta cho ngươi để làm tượng chạm hình đàn ông để làm điều dâm ô [ao] cùng nó. 18 Rồi ngươi dùng quần áo được thêu may thật đẹp phủ trên các thần tượng đó. Ngươi dùng dầu và trầm hương của ta làm của lễ cúng cho chúng. 19 Ngoài ra ngươi cũng dùng bánh mà ta cho ngươi, bột mịn, dầu, và mật ong ta cho ngươi ăn để dâng lên cho các tà thần ngươi làm của lễ có mùi thơm cho chúng nó. Chuyện xảy ra như vậy đó, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.
20 Nhưng tội nhục dục của ngươi còn chưa đủ cho ngươi. Ngươi bắt con trai con gái mình là con cái của ta dâng làm của lễ thiêu để cúng tế các thần tượng ngươi. 21 Ngươi giết [ap] các con cái ta dâng lên làm của lễ thiêu để cúng cho các thần tượng. 22 Trong khi ngươi có những hành vi gớm ghiếc và phạm tội nhục dục thì ngươi không nhớ lại lúc ngươi còn trẻ khi ngươi còn trần truồng không quần áo mặc và bị bỏ bê trong vũng máu ngươi.
23 Khốn thay! Khốn thay cho ngươi, CHÚA là Thượng Đế phán. Sau khi ngươi làm tất cả những điều ác đó, 24 thì ngươi xây cho mình một nơi thờ phụng tà thần. Ngươi xây nó ở mỗi góc đường. 25 Ngươi xây một nơi thờ phụng ở mỗi đầu phố. Ngươi biến nhan sắc mình ra điều gớm ghiếc, hiến thân mình để thỏa mãn nhục dục cho bất cứ ai qua lại cho nên tội dâm dục của ngươi càng ngày càng tệ hại. 26 Ngươi ăn nằm với người Ai-cập là láng giềng và bạn dâm đãng của ngươi. Tội dâm dục của ngươi càng ngày càng tệ hại khiến ta nổi thịnh nộ. 27 Vì thế ta dùng quyền lực ta nghịch lại ngươi và cướp đi một số đất đai ngươi. Ta để cho những kẻ ghét ngươi đánh bại ngươi, đó là các đàn bà Phi-li-tin là những kẻ cảm thấy xấu hổ về những hành động ác độc của ngươi. 28 Ngoài ra ngươi cũng ăn nằm với người A-xy-ri vì ngươi hoang dâm vô độ. Dù ngươi ăn nằm với chúng ngươi cũng chưa thỏa mãn. 29 Ngươi phạm tội nhục dục nhiều hơn nữa ở Ba-by-lôn, xứ của con buôn, dù vậy ngươi cũng chưa thoả mãn.
30 CHÚA là Thượng Đế phán, ý chí ngươi quả thật yếu ớt. Ngươi làm mọi điều y như một gái điếm ngoan cố. 31 Ngươi xây nơi thờ phụng tà thần ở mỗi đầu phố và dựng các nơi thờ phụng ở mỗi công viên. Nhưng ngươi không giống gái điếm vì ngươi không nhận thù lao.
32 Ngươi là người vợ ngoại tình. Ngươi thích người lạ thay vì chồng mình. 33 Đàn ông trả tiền thù lao cho gái điếm nhưng ngươi trả tiền cho các tình nhân để chúng đến với ngươi. Và chúng từ khắp nơi đến để hành lạc cùng ngươi. 34 Cho nên ngươi không giống các gái điếm khác. Không có đàn ông nào yêu cầu ngươi làm gái điếm. Ngươi trả tiền thay vì nhận thù lao. Ngươi quả không giống những gái điếm khác.
Gái điếm bị trừng phạt
35 Cho nên, hỡi gái điếm, hãy nghe lời của CHÚA. 36 CHÚA là Thượng Đế phán như sau: Ngươi phơi bày sự trần truồng của mình ra cho các nước khác. Ngươi phơi bày thân thể mình trong khi phạm tội nhục dục cùng các tình nhân và các hình tượng gớm ghiếc của mình. Ngươi giết con cái mình và dâng huyết chúng nó cho các thần tượng ngươi. 37 Cho nên ta sẽ gom tất cả các tình nhân mà ngươi ưa thích. Thật vậy, ta sẽ gom lại những kẻ ngươi yêu cũng như những người ngươi ghét. Ta sẽ gom chúng lại từ khắp các nơi để nghịch ngươi và ta sẽ lột truồng ngươi trước mặt chúng để chúng nhìn thấy sự trần truồng ngươi [aq]. 38 Ta sẽ trừng phạt ngươi như người đàn bà ngoại tình hay kẻ sát nhân bị trừng phạt. Ta sẽ giết ngươi vì ta nổi giận và ghen tương. 39 Ta cũng sẽ trao các ngươi cho các tình nhân ngươi. Chúng sẽ phá sập các nơi thờ phụng ngươi và tiêu hủy những nơi ngươi thờ phụng tà thần. Chúng sẽ lột quần áo ngươi, cướp đồ trang sức ngươi, để ngươi trần truồng trơ trọi. 40 Chúng sẽ đưa dân chúng lại chống nghịch ngươi, ném đá ngươi và dùng gươm chặt ngươi ra từng mảnh. 41 Chúng sẽ thiêu rụi nhà cửa ngươi và trừng phạt ngươi trước mặt các đàn bà khác. Ta sẽ chấm dứt tội nhục dục ngươi và ngươi sẽ không trả tiền cho tình nhân mình nữa. 42 Rồi ta sẽ thôi không còn nổi giận cùng ngươi, không ghen tương nữa. Ta sẽ im lặng và không còn nổi thịnh nộ nữa.
43 Vì ngươi không nhớ lúc mình còn trẻ, ngươi đã chọc giận ta bằng những hành động đó cho nên ta sẽ báo trả những điều ngươi làm, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. Có phải ngươi đã thêm tội nhục dục vào những hành động khác mà ta gớm ghét không?
44 Ai dùng ngạn ngữ cũng sẽ nói như sau về ngươi: ‘Mẹ nào con nấy.’ 45 Ngươi giống y như mẹ ngươi, ghét chồng và con mình. Ngươi cũng giống như chị em ngươi, ghét chồng và con mình. Mẹ ngươi là ngươi Hi-tít, cha ngươi là người A-mô-rít. 46 Chị ngươi là Xa-ma-ri, sống ở miền Bắc với các con gái nó; em gái ngươi là Xô-đôm [ar], sống ở miền Nam với các con gái nó. 47 Không những ngươi đi theo đường lối chúng và làm y những điều gớm ghiếc chúng làm mà còn tệ hơn chúng nữa bằng các hành động ngươi. 48 CHÚA là Thượng Đế phán, thật như ta hằng sống, quả đúng như vậy. Em gái ngươi là Xô-đôm và các con gái nó chưa hề làm như ngươi và các con gái ngươi.
49 Tội của Xô-đôm, em gái ngươi như sau: Nó và các con gái nó kiêu căng, ăn uống no say dư dật, sống sung sướng mà không ra tay giúp đỡ kẻ bần cùng. 50 Xô-đôm và các con gái nó kiêu căng làm những điều ta ghét trước mắt ta. Cho nên ta diệt chúng nó khi ta nhìn thấy điều chúng làm. 51 Ngoài ra, Xa-ma-ri không phạm được phân nửa tội lỗi của ngươi. Ngươi phạm nhiều tội đáng gớm ghiếc hơn chúng nữa. Cho nên nếu đem so sánh những điều gớm ghiếc ngươi làm thì chị ngươi còn khá hơn. 52 Ngươi sẽ phải chịu sỉ nhục vì ngươi đã tạo ra cớ bào chữa cho chị ngươi. Chúng khá hơn ngươi. Tội lỗi ngươi còn ghê gớm hơn của chúng nó nữa. Hãy cảm thấy xấu hổ và nhục nhã đi, vì ngươi đã làm cho chị mình trông đỡ hơn.
53 Nhưng ta sẽ trả lại cho Xô-đôm và các con gái nó những vật tốt mà chúng có trước kia. Ta sẽ trả lại cho Xa-ma-ri và các con gái nó những vật tốt mà chúng có trước kia. Ngoài ra ta cũng sẽ trả lại cho ngươi những vật tốt mà ngươi có trước kia 54 để ngươi cảm thấy nhục nhã và xấu hổ về những điều ngươi làm. Ngươi có thể an ủi chị em mình về tội lỗi của chúng. 55 Hai chị em ngươi là Xô-đôm cùng các con gái nó, Xa-ma-ri và các con gái nó sẽ trở lại tình trạng như trước. Ngươi và các con gái ngươi cũng sẽ trở lại tình trạng như trước.
56 Ngươi đã sỉ nhục em gái mình là Xô-đôm khi ngươi tỏ ra hợm hĩnh, 57 trước khi sự gian ác ngươi bị lộ ra. Bây giờ các người đàn bà Ê-đôm và láng giềng sỉ nhục ngươi. Thậm chí đến các đàn bà Phi-li-tin cũng sỉ nhục ngươi. Những người sống quanh ngươi ghét bỏ ngươi. 58 Đó là hậu quả về những tội lỗi ghê gớm của ngươi và về những hành vi mà ta ghét, CHÚA phán vậy.”
Thượng Đế giữ lời hứa Ngài
59 “‘CHÚA là Thượng Đế phán như sau: Ta sẽ báo trả những điều ngươi đã làm. Ngươi ghét và phá giao ước mà ngươi hứa tôn trọng. 60 Nhưng ta sẽ nhớ lại giao ước ta lập cùng ngươi khi ngươi còn trẻ và ta sẽ lập giao ước còn lại đời đời cùng ngươi. 61 Rồi ngươi sẽ nhớ lại điều ngươi đã làm và cảm thấy xấu hổ khi ngươi tiếp nhận các chị em ngươi. Ta sẽ trao chúng nó cho ngươi như con gái nhưng không phải vì chúng dự phần vào giao ước giữa ta với ngươi. 62 Ta sẽ lập giao ước ta với ngươi, và rồi ngươi sẽ biết ta là CHÚA. 63 Ngươi sẽ nhớ lại điều mình đã làm và cảm thấy xấu hổ. Ngươi sẽ không còn mở miệng ra nữa vì xấu hổ, khi ta tha thứ ngươi tất cả mọi điều ngươi đã làm, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.’”
Chim ưng và cây nho
17 CHÚA phán cùng tôi rằng: 2 “Hỡi con người, hãy ra câu đố và kể ngụ ngôn cho dân Ít-ra-en nghe. 3 Hãy nói, CHÚA là Thượng Đế phán như sau:
‘Có một con chim ưng khổng lồ cánh rộng
và lông dài nhiều màu sắc sặc sỡ bay đến Li-băng
đậu trên chóp một cây hương nam.
4 Nó bẻ nhánh trên cùng và mang đến xứ của các con buôn
và trồng trong thành của các con buôn đó.
5 Con chim ưng lấy một ít hột giống trong xứ
và trồng trong một ruộng tốt gần nước.
Nó trồng để cây ấy lớn lên như cây liễu.
6 Cây đó nẩy mầm và trở thành một cây nho thấp phủ trên mặt đất.
Nhánh nó hướng về phía con chim ưng nhưng rễ nó nằm dưới con chim ưng.
Vậy hột giống trở thành cây nho,
nhánh nó mọc ra lá sum suê.
7 Nhưng có một con chim ưng khổng lồ khác có cánh rộng và nhiều lông.
Cây nho hướng các rễ nó về phía con chim ưng đó.
Nó đâm nhánh ra từ chỗ nó được trồng, hướng về phía con chim ưng để con chim có thể tưới nó.
8 Nó được trồng trong một ruộng tốt gần nước để nó đâm chồi và ra trái.
Đáng lẽ nó trở thành một cây nho tốt.’
9 CHÚA là Thượng Đế phán: ‘Cây nho đó không thể tiếp tục lớn lên nữa.
Con chim ưng đầu tiên sẽ nhổ gốc cây nho và tuốt trái của nó.
Rồi cây nho đó và các lá tươi của nó sẽ khô héo và chết đi.
Không cần phải mạnh tay hay đông người mới nhổ bật gốc cây nho đó lên được.
10 Dù cho được trồng trở lại, nó cũng sẽ không thể nào lớn lên được.
Nó sẽ hoàn toàn bị khô héo khi gió Đông thổi đến nơi nó mọc.’”
Xê-đê-kia phản nghịch và bị trừng phạt
11 Rồi CHÚA bảo tôi rằng: 12 “Bây giờ hãy nói cùng dân bất vâng phục như sau: ‘Các ngươi có hiểu ý nghĩa những điều đó không?’ Hãy nói: ‘Vua Ba-by-lôn đến Giê-ru-sa-lem bắt vua và các quan quyền ở Giê-ru-sa-lem đày sang Ba-by-lôn. 13 Rồi người bắt một người thuộc hoàng tộc Giu-đa và lập ước với người, buộc người phải tuyên thệ. Vua cũng bắt các lãnh tụ của Giu-đa đi đày 14 để khiến cho nước trở thành yếu ớt, không vươn lên được. Rồi nước Giu-đa chỉ còn tồn tại bằng cách tôn trọng giao ước với vua Ba-by-lôn mà thôi. 15 Nhưng vua Giu-đa phản nghịch lại vua Ba-by-lôn bằng cách sai sứ sang Ai-cập để xin cung cấp ngựa và quân lính. Vua Giu-đa có thành công không? Người làm như vậy liệu có thoát được không? Người không thể phá giao ước mà bình yên vô sự được.’”
16 CHÚA phán, “Thật như ta hằng sống, người sẽ chết ở Ba-by-lôn, trong xứ của vua đã cử người làm vua Giu-đa. Vua Giu-đa ghét lời cam kết cùng vua Ba-by-lôn và phá giao ước đó. 17 Dù cho vua Ai-cập với đạo quân đông đảo hùng mạnh sẽ chẳng giúp được gì cho vua Giu-đa trong chiến tranh. Người Ba-by-lôn sẽ chế tạo máy móc để tấn công các thành phố và giết nhiều người. 18 Vua Giu-đa khinh thường lời cam kết ấy bằng cách phá giao ước. Người cam kết sẽ ủng hộ Ba-by-lôn nhưng lại làm những việc như vậy, cho nên người sẽ không thể nào thoát được.”
19 Vì vậy CHÚA là Thượng Đế phán như sau: “Thật như ta hằng sống, việc nầy sẽ xảy ra: Ta sẽ báo trả vua Giu-đa về tội khinh thường lời cam kết và phá giao ước ta. 20 Ta sẽ bủa lưới ra trên người, rồi người sẽ bị vướng vào bẫy ta. Sau đó ta sẽ mang người về Ba-by-lôn nơi ta sẽ trừng phạt người về những hành động bất trung chống nghịch ta. 21 Binh sĩ thiện chiến nào của người thoát được sẽ bị chết vì gươm, còn những kẻ sống sót sẽ bị phân tán ra bốn phương. Rồi các ngươi sẽ biết rằng ta, CHÚA, đã phán.”
22 CHÚA là Thượng Đế phán:
“Chính ta sẽ lấy một cành non từ cây hương nam và trồng nó.
Ta sẽ chặt một nhánh nhỏ khỏi ngọn của các nhánh non nơi cây đó
và sẽ trồng nó trên một ngọn núi cao.
23 Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en.
Rồi nó sẽ đâm nhánh, ra trái và trở thành một cây hương nam thật lớn.
Chim trời đủ loại sẽ xây tổ trên nó và trú trong các cành nó.
24 Rồi cây cối trong đồng sẽ biết ta là CHÚA. Ta đốn hạ cây cao xuống và khiến cho cây thấp mọc cao lên.
Ta làm cho cây xanh khô héo và làm cho cây khô mọc lại.
Ta là CHÚA. Ta đã phán điều gì thì sẽ thực hiện điều đó.”
Thượng Đế rất công bình
18 CHÚA phán cùng tôi như sau: 2 “Câu ngạn ngữ sau đây có ý nghĩa gì trong Ít-ra-en:
‘Cha mẹ ăn trái nho chua,
mà con bị buốt răng’ [as]?
3 Thật như ta hằng sống, CHÚA phán, điều nầy sẽ xảy ra: Các ngươi sẽ không dùng câu ngạn ngữ đó trong Ít-ra-en nữa. 4 Mọi sinh linh đều thuộc về ta. Sự sống của cha mẹ thuộc về ta, và sự sống của con cái cũng vậy. Ai phạm tội thì người đó phải chết.
5 Giả sử có người nhân đức làm điều phải và đúng. 6 Người không ăn uống ở những nơi cao dùng để thờ phụng. Người không nhờ cậy các hình tượng của Ít-ra-en để xin cứu giúp. Người không ăn nằm với vợ của láng giềng mình hay với đàn bà đang có kinh nguyệt. 7 Người không ức hiếp ai nhưng trả lại của cầm thế cho người đi vay. Người không bóc lột kẻ khác. Người cho kẻ đói bánh ăn, áo quần cho người thiếu đồ che thân. 8 Người không cho vay ăn lời cắt cổ và giữ tay mình không làm quấy. Người phân xử công bình giữa người nầy với kẻ kia. 9 Người sống theo qui tắc ta và trung tín vâng giữ luật lệ ta. Ai làm những điều đó là người nhân đức và chắc chắn sẽ sống, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.
10 Nhưng giả sử người đó có một đứa con hoang đàng, giết người và làm những điều sai quấy kia. 11 Nhưng cha nó không hề làm những điều ấy. Đứa con ăn ở những nơi cao dùng để thờ phụng. Nó ăn nằm với vợ người láng giềng mình. 12 Nó ức hiếp kẻ nghèo khó và khốn cùng. Nó ăn cắp và không trả lại vật cầm thế mặc dù nợ đã trả xong [at]. Nó nhờ cậy các thần tượng và làm những điều ta ghét. 13 Nó cho vay ăn lời cắt cổ. Đứa con đó liệu có sống được không? Không, nó không thể sống được! Nó đã làm những điều đáng gớm ghiếc đó cho nên nó phải chết. Chính nó chịu trách nhiệm cho cái chết mình.
14 Bây giờ giả sử nó có một đứa con nhìn thấy các tội lỗi của cha nó. Sau đó nó không làm những việc như vậy. 15 Nó không ăn uống ở những nơi thờ phượng trên núi cao. Nó không trông cậy các thần tượng Ít-ra-en. Nó không ăn nằm với vợ của người láng giềng mình. 16 Nó không ức hiếp ai hay giữ luôn của cầm, cũng không ăn cắp. Nó biếu thức ăn cho kẻ đói và áo quần cho người rách rưới. 17 Nó giữ tay mình không làm điều sái bậy. Nó không cho vay ăn lời cắt cổ. Nó vâng giữ luật lệ ta và sống theo các qui tắc ta. Nó sẽ không chết vì tội lỗi của cha mình nhưng chắc chắn sẽ sống. 18 Nhưng cha nó lấy tiền của người khác một cách bất công, cướp giựt anh em mình và làm điều sái bậy giữa dân tộc mình cho nên nó sẽ chết vì tội mình.
19 Nhưng ngươi hỏi, ‘Tại sao đứa con không bị trừng phạt vì cha mình?’ Vì đứa con đã làm điều phải và công bình. Nó vâng giữ các qui tắc và luật lệ ta cho nên nó sẽ sống. 20 Ai phạm tội thì sẽ chết. Con không thể bị phạt vì tội của cha mẹ, cha mẹ cũng không thể bị phạt vì tội của con. Ai làm điều phải sẽ vui hưởng kết quả của điều lành mình làm; kẻ ác phải lãnh hậu quả của điều ác mình.
21 Nhưng nếu kẻ ác thôi phạm tội và trở lại vâng giữ tất cả các qui tắc ta và làm điều công bình và phải lẽ thì nó sẽ sống, không chết. 22 Mọi tội lỗi nó sẽ được tha. Vì nó đã làm điều phải cho nên nó sẽ sống. 23 Ta thật không muốn thấy kẻ ác chết, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. Ta muốn nó bỏ lối ác và sống.
24 Nhưng nếu người công bình không làm điều công bình nữa mà lại làm những điều gớm ghiếc giống như kẻ ác làm thì liệu nó có sống không? Tất cả những điều lành nó làm đều sẽ bị quên lãng vì nó đã tỏ ra bất trung. Nó đã phạm tội cho nên nó sẽ chết vì tội lỗi mình.
25 Nhưng ngươi bảo, ‘Chúa không công bình.’ Hỡi dân Ít-ra-en, hãy nghe đây. Ta công bình. Chính các ngươi mới không công bình! 26 Khi người lành thôi không làm điều lành nữa mà làm điều quấy thì phải chết vì tội lỗi mình. Nó sẽ chết vì làm quấy. 27 Khi kẻ ác thôi làm ác và làm điều công bình và phải lẽ thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. 28 Vì nó đã suy nghĩ lại và thôi phản loạn cho nên chắc chắn nó sẽ được sống, không chết.
29 Nhưng dân Ít-ra-en vẫn cứ nói, ‘Điều CHÚA làm không công bằng tí nào.’ Hỡi dân Ít-ra-en, ta rất công bằng. Chính việc các ngươi làm mới không công bằng.
30 Cho nên hỡi dân Ít-ra-en, ta sẽ xét xử các ngươi: Ta sẽ xét xử mỗi người các ngươi theo việc làm của từng người. Hãy ăn năn, thôi phản loạn, đừng phạm tội nữa để các ngươi không bị tổn hại. 31 Hãy từ bỏ tất cả hành vi phản loạn của các ngươi, hãy nhận một tấm lòng mới và một lối suy nghĩ mới. Hỡi dân Ít-ra-en, tại sao các ngươi muốn chết? 32 CHÚA là Thượng Đế phán, ta không muốn ai chết cả cho nên hãy ăn năn để các ngươi được sống.”
Bài ai ca cho Ít-ra-en
19 “Hãy hát bài ai ca cho các lãnh tụ của Ít-ra-en như sau:
2 ‘Mẹ các ngươi như sư tử cái
ở giữa các sư tử.
Nó nằm giữa các sư tử tơ và nuôi con nó.
3 Nó nuôi một trong các sư tử con,
con đó trở thành một sư tử mạnh dạn.
Nó tập xé con mồi khi đi săn,
nó ăn thịt người ta.
4 Các dân nghe về nó.
Nó bị rơi vào bẫy của họ,
Rồi người ta lấy móc kéo nó xuống xứ Ai-cập.
5 Mẹ nó chờ và thấy
không còn hi vọng gì cho con mình,
nên bắt một trong các sư tử con khác
và nuôi cho nó lớn mạnh.
6 Con sư tử nầy đi ngao du giữa các sư tử khác.
Bây giờ nó đã trở nên
một con sư tử mạnh dạn.
Nó cũng tập xé mồi khi đi săn thịt,
nó cũng ăn người ta.
7 Nó phá sập những nơi kiên cố
và tiêu diệt các thành của họ.
Đất cùng mọi thứ trong đó đều kinh hoảng
khi nghe tiếng gầm thét của nó.
8 Rồi dân từ các nơi xung quanh
đến chống nghịch nó,
bủa lưới ra trên nó.
Nó bị rơi vào bẫy của họ.
9 Rồi họ móc hàm nó lại,
bỏ vào chuồng và giải nó đến vua Ba-by-lôn.
Họ nhốt nó vào ngục
để không còn ai nghe tiếng gầm thét của nó
trên các núi Ít-ra-en nữa.
10 Mẹ ngươi giống như cây nho
trong vườn nho ngươi,
trồng bên dòng nước.
Cây nho ra nhiều nhánh và sai trái,
vì gần nước.
11 Cây nho ra nhiều nhánh lớn mạnh,
đủ để làm một cây trượng cho vua.
Nó trở nên cao lớn
giữa các nhánh rậm rạp.
Ai cũng nhìn thấy vì nó cao lớn rậm rạp.
12 Nhưng trong cơn giận, nó bị nhổ bật gốc
và bị ném xuống đất.
Gió Đông khiến nó khô héo.
Trái nó rơi rụng hết.
Các nhánh nó bị bẻ gãy và đốt cháy.
13 Bây giờ nó bị trồng trong sa mạc,
nơi khô khan không nước.
14 Lửa phát ra từ nhánh chính của nó
đốt cháy hết các trái.
Không còn nhánh nào của nó đủ lớn
để làm cây trượng cả.’”
Đó là lời than vãn đã trở thành bài ai ca.
Ít-ra-en quay mặt khỏi Thượng Đế
20 Vào ngày mười, tháng năm, năm lưu đày thứ bảy [au], thì một số bô lão của Ít-ra-en đến ngồi trước mặt tôi để hỏi thăm về CHÚA.
2 CHÚA phán cùng tôi như sau: 3 “Hỡi con người, hãy nói cùng các bô lão Ít-ra-en rằng: ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Có phải các ngươi đến cầu hỏi ta không? Thật như ta hằng sống, ta chẳng để các ngươi hỏi đâu.’
4 Ngươi sẽ xét xử chúng không? Hỡi con người, ngươi sẽ xét xử chúng không? Hãy cho chúng biết những điều gớm ghiếc tổ tiên chúng nó làm. 5 Hãy bảo chúng: Chúa là Thượng Đế phán: Khi ta chọn Ít-ra-en, ta hứa cùng con cháu Gia-cốp. Ta tỏ mình ta ra cho chúng ở Ai-cập và hứa cùng chúng, ‘Ta là CHÚA và là Thượng Đế các ngươi.’ 6 Lúc đó ta hứa sẽ mang chúng ra khỏi Ai-cập vào một xứ ta đã tìm được cho chúng, một xứ phì nhiêu [av], xứ tốt nhất trên thế giới. 7 Ta bảo chúng, ‘Mỗi người trong các ngươi phải ném bỏ các tượng chạm gớm ghiếc mà các ngươi đã thấy và thích. Đừng làm ô dơ mình bằng các thần giả của Ai-cập. Ta là CHÚA và là Thượng Đế các ngươi.’
8 Nhưng chúng phản nghịch ta, không thèm nghe ta. Chúng không chịu ném bỏ các tượng chạm gớm ghiếc mà chúng đã thấy và thích; chúng không từ bỏ các thần tượng của Ai-cập. Vì thế ta quyết định đổ cơn thịnh nộ ta trên chúng trong khi chúng còn ở Ai-cập. 9 Ta đã hành động bảo vệ danh ta để danh ta không bị nhục mạ trước các dân tộc mà Ít-ra-en sinh sống. Ta tỏ mình ta ra cho Ít-ra-en và hứa mang chúng ra khỏi xứ Ai-cập trước sự chứng kiến của các dân tộc khác. 10 Cho nên ta mang chúng ra khỏi Ai-cập và đưa chúng vào trong sa mạc. 11 Ta cho chúng các qui tắc và dạy chúng các luật lệ để ai vâng giữ thì được sống. 12 Ta cũng ban cho chúng ngày Sa-bát để làm dấu hiệu giữa chúng ta để chúng biết ta là CHÚA, Đấng khiến chúng ra thánh.
13 Nhưng trong sa mạc chúng phản nghịch ta, không vâng giữ các qui tắc, gạt bỏ các luật lệ ta là luật lệ mà ai vâng giữ thì sẽ sống. Chúng khinh thường ngày Sa-bát ta. Vì thế ta định đổ cơn giận ta trên chúng và tiêu diệt chúng trong sa mạc. 14 Nhưng ta đã hành động để bảo vệ danh ta để danh đó không bị xem thường giữa các dân đang chứng kiến khi ta mang Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. 15 Trong sa mạc ta thề cùng dân Ít-ra-en rằng ta sẽ không mang chúng vào trong xứ mà ta đã ban cho chúng, một xứ phì nhiêu, tốt nhất trên thế giới 16 vì chúng đã gạt bỏ các luật lệ và không vâng giữ các qui tắc ta. Chúng khinh thường ngày Sa-bát ta và chỉ muốn thờ các hình tượng mình. 17 Nhưng ta thương hại chúng. Ta không tiêu diệt và thanh toán chúng trong sa mạc. 18 Ta nói cùng con cái chúng trong sa mạc, ‘Đừng sống theo các qui tắc của cha mẹ các ngươi hay vâng theo các luật lệ chúng. Đừng làm cho chính mình ô dơ vì các thần tượng của chúng. 19 Ta là CHÚA và Thượng Đế các ngươi. Hãy sống theo các qui tắc ta, vâng giữ các luật lệ ta, noi theo các luật lệ và qui tắc đó. 20 Hãy giữ ngày Sa-bát ta ra thánh thì chúng sẽ làm dấu hiệu giữa ta với các ngươi. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA và Thượng Đế ngươi.’
21 Nhưng con cháu chúng phản nghịch ta. Chúng không sống theo các qui tắc ta, không cẩn thận vâng giữ các luật lệ ta là luật lệ mà ai vâng giữ thì sẽ sống. Chúng khinh thường ngày Sa-bát cho nên ta định đổ cơn giận ta trên chúng trong sa mạc. 22 Nhưng ta nén giận. Ta hành động như vậy vì danh ta để danh đó không bị xem thường giữa các dân đang chứng kiến khi ta mang dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. 23 Trong sa mạc ta đã thề cùng dân Ít-ra-en rằng ta sẽ phân tán chúng ra khắp các dân và trải chúng ra khắp các nước, 24 vì chúng không vâng theo luật lệ ta. Chúng đã gạt bỏ các qui tắc và khinh thường các ngày Sa-bát ta và thờ phụng các thần tượng của cha mẹ chúng. 25 Ta cũng đã để chúng đi theo các qui tắc không tốt và các luật lệ mà chúng không thể nhờ đó mà sống. 26 Ta để cho dân Ít-ra-en tự làm ô dơ mình bằng những của lễ mà chúng dâng cho tà thần của chúng khi chúng thiêu các con đầu lòng mình trong lửa. Ta muốn làm cho chúng kinh hoảng để chúng biết rằng ta là CHÚA.
27 Vì vậy hỡi con người, hãy nói cùng dân Ít-ra-en rằng, CHÚA là Thượng Đế phán: Tổ tiên các ngươi đã nói phạm đến ta khi tỏ ra bất trung theo kiểu khác. 28 Lúc ta mang chúng vào trong xứ ta hứa thì chúng nhìn hết các ngọn đồi và các cây xanh rậm lá. Chúng dâng các của lễ cho những tà thần mình trên các nơi đó. Chúng mang của lễ để chọc giận ta [aw], rồi đốt hương và đổ của lễ uống ra. 29 Ta hỏi chúng: ‘Đồi cao nầy mà các ngươi đến thờ phụng là gì?’ Ngày nay chỗ đó vẫn gọi là Đồi Cao.
30 Cho nên hãy bảo dân Ít-ra-en: CHÚA là Thượng Đế phán: Các ngươi sẽ tự làm ô uế bản thân như tổ tiên mình sao? Các ngươi sẽ bất trung và muốn thờ phụng các thần tượng đáng gớm ghiếc sao? 31 Khi các ngươi dâng con cái mình lên và thiêu chúng trong lửa, các ngươi tự làm ô uế bản thân cùng với các thần tượng mình, cho đến ngày nay cũng y như vậy. Cho nên hỡi dân Ít-ra-en, ta có nên cho phép các ngươi hỏi không? CHÚA là Thượng Đế phán, thật như ta hằng sống, ta sẽ không nhận bất cứ câu hỏi nào từ các ngươi đâu.
32 Những điều các ngươi muốn sẽ không thành sự thật. Các ngươi nói, ‘Chúng tôi muốn như các dân khác, như dân tộc của các xứ khác. Chúng tôi muốn thờ các tượng chạm bằng gỗ và bằng đá. 33 Thật như ta hằng sống, CHÚA là Thượng Đế phán, ta sẽ dùng quyền năng lớn lao, sức mạnh của cơn thịnh nộ ta để cai trị các ngươi. 34 Ta sẽ mang các ngươi ra khỏi các nước ngoại quốc. Ta sẽ dùng quyền năng lớn lao, sức mạnh và cơn thịnh nộ ta để gom các ngươi lại từ các nước mà các ngươi đã bị phân tán. 35 Ta sẽ mang các ngươi ra nơi sa mạc không dân ở. Nơi đó ta sẽ phân xử các ngươi mặt đối mặt. 36 Ta sẽ trừng phạt các ngươi như ta đã trừng phạt tổ tiên các ngươi trong sa mạc của xứ Ai-cập, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. 37 Ta sẽ đếm các ngươi như chiên và sẽ mang các ngươi vào trong giao ước ta. 38 Ta sẽ diệt hết những kẻ không vâng lời ta hay chống nghịch ta. Ta sẽ mang chúng ra khỏi xứ hiện đang sống nhưng chúng sẽ không bao giờ được vào xứ Ít-ra-en. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA.’”
39 CHÚA là Thượng Đế phán: “Hỡi dân Ít-ra-en, hãy đi thờ thần tượng của các ngươi đi. Nhưng sau nầy các ngươi sẽ nghe ta; các ngươi sẽ không còn khinh thường danh thánh của ta bằng các của lễ và tà thần của mình nữa. 40 Trên núi thánh ta, núi cao của Ít-ra-en, toàn dân Ít-ra-en sẽ phục vụ ta trong xứ, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. Ta sẽ chấp nhận các ngươi ở đó. Ta sẽ chờ đợi các của lễ của các ngươi, của lễ đầu mùa gặt và của lễ thánh của các ngươi. 41 Ta sẽ chấp nhận các ngươi như mùi thơm của lễ khi ta mang các ngươi ra khỏi các xứ ngoại quốc và thu các ngươi về từ các xứ mà ngươi đã bị tản lạc. Rồi qua các ngươi ta sẽ tỏ ra cho mọi dân tộc khác thấy ta thánh khiết ra sao. 42 Khi ta mang các ngươi vào xứ Ít-ra-en, xứ mà ta đã hứa cùng tổ tiên các ngươi thì các ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA. 43 Tại đó các ngươi sẽ nhớ lại mọi điều mình làm đã khiến mình ô dơ, và các ngươi sẽ tự ghét mình vì những điều ác mình đã làm. 44 Ta sẽ đối xử với các ngươi vì danh thánh ta, chẳng phải vì những hành vi ác độc hay việc làm dơ bẩn của các ngươi. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA, hỡi dân Ít-ra-en. CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Ba-by-lôn là gươm của Chúa
45 CHÚA phán cùng tôi rằng: 46 “Hỡi con người, hãy nhìn về phía Nam. Hãy nói tiên tri nghịch cùng phương Nam và khu rừng Nê-ghép [ax]. 47 Hãy nói cùng rừng rằng: ‘Hãy nghe lời CHÚA. CHÚA là Thượng Đế phán: Ta sẵn sàng châm lửa đốt ngươi và tiêu diệt mọi cây xanh và cây khô của ngươi. Sẽ không thể nào dập tắt đám lửa đó được. Mọi phía từ Nam đến Bắc sẽ cảm biết sức nóng của nó. 48 Rồi mọi người sẽ thấy rằng ta, CHÚA, đã châm lửa đó. Không ai dập tắt được.’”
49 Rồi tôi thưa, “Ôi, CHÚA là Thượng Đế! Dân chúng nói về tôi rằng, ‘Ông ta chỉ kể chuyện bịa đặt đó thôi.’”
Ba-by-lôn, lưỡi gươm của Chúa
21 Rồi CHÚA phán cùng tôi rằng: 2 “Hỡi con người, hãy nhìn về hướng Giê-ru-sa-lem và nói tiên tri nghịch cùng nơi thánh. Hãy nói tiên tri nghịch cùng xứ Ít-ra-en. 3 Hãy nói cùng Ít-ra-en rằng: ‘CHÚA phán: Ta chống nghịch ngươi. Ta sẽ rút gươm ta ra khỏi vỏ và sẽ chém giết toàn thể các ngươi, người ác và người thiện. 4 Vì ta sẽ tiêu diệt kẻ ác lẫn người thiện, gươm ta sẽ rút ra khỏi vỏ và đánh giết mọi người từ Nam tới Bắc. 5 Rồi mọi người sẽ biết rằng ta, CHÚA, đã rút gươm ra khỏi vỏ. Gươm ta sẽ không xỏ vào vỏ trở lại.’
6 Cho nên, hỡi con người, hãy than vãn với tấm lòng tan vỡ, hãy than khóc đắng cay. Hãy than khóc trước mắt dân chúng. 7 Khi chúng hỏi ngươi, ‘Tại sao ông than khóc?’ thì hãy trả lời, ‘Vì tôi đã nghe biết những điều sẽ xảy ra. Khi nó xảy ra thì lòng nào cũng sẽ tan chảy vì lo sợ, tay nào cũng bủn rủn. Ai cũng sợ hãi; đầu gối nào cũng yếu mềm như nước. Kìa, việc ấy đang đến, sẽ đến, CHÚA phán vậy.’”
Lưỡi gươm đã sẵn sàng
8 CHÚA phán cùng tôi rằng: 9 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri rằng, CHÚA phán:
Một lưỡi gươm, một lưỡi gươm,
mài bén và đánh bóng.
10 Nó được mài bén để chém giết.
Nó được đánh bóng để sáng loáng như chớp.
Các ngươi không vui vì sự trừng phạt khủng khiếp bằng gươm như thế nầy sao?
Nhưng Giu-đa, con trai ta,
ngươi sẽ không thay đổi nếu chỉ bị đòn.
11 Phải đánh bóng lưỡi gươm.
Gươm đó phải cầm trong tay.
Nó được mài bén và đánh bóng,
sẵn sàng trong tay của kẻ chém giết.
12 Hỡi con người, hãy kêu la lớn lên, vì gươm đó đã dành cho dân ta, cho những quan quyền của Ít-ra-en. Chúng sẽ bị gươm giết chung với dân ta. Cho nên hãy đấm ngực khóc than. 13 Cuộc trắc nghiệm sẽ đến. Còn Giu-đa vốn bị quân đội Ba-by-lôn ghét, sẽ không tồn tại lâu, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.
14 Cho nên hỡi con người, hãy nói tiên tri và vỗ tay.
Hãy đập gươm hai ba lần.
Gươm đó dành để chém giết,
để tàn sát thật nhiều.
Lưỡi gươm nầy sẽ bao vây những kẻ sẽ bị giết.
15 Lòng chúng nó sẽ tan chảy vì sợ hãi,
nhiều người sẽ chết.
Ta đã đặt gươm chém giết nơi mỗi cửa thành.
Ôi! Lưỡi gươm đã được đánh bóng
sáng loáng như chớp.
Nó được nắm trong tay, sẵn sàng chém giết.
16 Hỡi gươm, hãy chém bên phải;
rồi chém bên trái.
Lưỡi nó chém bên nào thì quay bên đó.
17 Ta cũng sẽ vỗ tay và trút hết cơn giận ta.
Ta, CHÚA đã phán.”
Giê-ru-sa-lem sẽ bị tiêu hủy
18 CHÚA phán cùng tôi rằng: 19 “Hỡi con người, hãy đánh dấu hai con đường cho vua Ba-by-lôn và gươm người đi theo. Cả hai con đường đều khởi hành từ một xứ. Và hãy đánh dấu chỗ đường phân nhánh ra, một đường đi vào thành phố. 20 Hãy đánh dấu con đường để người có thể cầm gươm đi đến Ráp-ba trong xứ dân Am-môn. Hãy đánh dấu con đường kia dẫn đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, là thành có vách kiên cố bảo vệ. 21 Vua Ba-by-lôn đã đến nơi chỗ rẽ của hai con đường và người dùng ma thuật. Người dùng các mũi tên để bắt thăm và cầu vấn các thần tượng của gia đình mình. Người nhìn lá gan [ay] của con sinh tế để biết xem nên đi chỗ nào. 22 Thăm bên phải bảo người đi về Giê-ru-sa-lem. Nó bảo người phải dùng các khúc cây để phá các cửa thành [az], hò hét xung trận, ra lệnh chém giết, đắp đường lên đến vách và dùng ná lớn tấn công thành. 23 Dân Giê-ru-sa-lem đã lập ước với các dân khác để xin chúng yểm trợ đánh Ba-by-lôn. Cho nên chúng tin rằng lời tiên tri nầy sai lầm nhưng thật ra đó là bằng chứng của tội lỗi chúng nó. Chúng sẽ bị bắt.”
24 Cho nên CHÚA là Thượng Đế phán: Các ngươi chứng tỏ mình tội lỗi ra sao bằng cách nghịch lại CHÚA. Tội lỗi các ngươi nằm sờ sờ trong những điều các ngươi làm. Vì đó là bằng cớ nghịch các ngươi cho nên các ngươi sẽ bị kẻ thù bắt làm tù binh.
25 Hỡi lãnh tụ dơ bẩn và gian ác của Ít-ra-en, ngươi sẽ bị giết. Giờ trừng phạt ngươi đã đến.
26 CHÚA là Thượng Đế phán: Hãy tháo bỏ khăn vành nhà vua, lột vương miện đi. Mọi việc sẽ thay đổi. Kẻ sang sẽ trở nên hèn, và kẻ hèn trở nên sang. 27 Điêu tàn! Điêu tàn! Ta sẽ khiến nó điêu tàn! Nơi nầy sẽ không được xây lại cho đến khi Đấng có quyền làm vua đến. Rồi ta sẽ cho người quyền ấy.
Sự trừng phạt Am-môn
28 Hỡi con người, hãy nói tiên tri như sau: “CHÚA là Thượng Đế phán về dân Am-môn và những lời nhục mạ của chúng:
Một lưỡi gươm, một lưỡi gươm rút ra khỏi vỏ.
Nó được đánh bóng để chém giết và hủy diệt,
sáng loáng như chớp!
29 Các nhà tiên tri nhìn thấy các dị tượng giả
về các ngươi và nói tiên tri dối về các ngươi.
Gươm sẽ đặt trên cổ
của những kẻ ô dơ và gian ác nầy.
Ngày đoán phạt của chúng đã đến;
giờ trừng phạt cuối cùng đã đến.
Lời tiên tri nghịch cùng Ba-by-lôn
30 Hãy cho gươm vào vỏ. Hỡi Ba-by-lôn, ta sẽ đoán phạt ngươi nơi ngươi được tạo ra, trong xứ ngươi sinh trưởng. 31 Ta sẽ đổ cơn giận ta trên ngươi và dùng lửa thịnh nộ ta đốt cháy ngươi. Ta sẽ giao ngươi cho những kẻ hung bạo [ba], chuyên nghề hủy diệt. 32 Ngươi sẽ làm mồi cho lửa, sẽ chết trong xứ. Sẽ không còn ai nhớ đến ngươi nữa, vì ta, CHÚA, đã phán.”
Tội lỗi của Giê-ru-sa-lem
22 CHÚA phán cùng tôi rằng: 2 “Còn ngươi, hỡi con người, ngươi sẽ xét xử chứ? Ngươi có xét xử thành gồm những kẻ sát nhân không? Hãy cho nó biết những hành vi gớm ghiếc của nó. 3 Ngươi phải nói: CHÚA là Thượng Đế phán: ‘Ngươi là thành giết dân chúng và đổ máu họ ra giữa chỗ công cộng, do đó ngươi sẽ chuốc lấy hình phạt cho mình. 4 Ngươi đã phạm tội giết người và trở nên ô dơ bằng những tượng chạm mà ngươi đã làm. Vì thế cho nên ngươi đã kéo thì giờ trừng phạt lại gần; và ngươi đã đến gần các năm cuối cùng của mình rồi. Vì thế ta đã dùng ngươi làm một sự sỉ nhục cho các dân và do đó mà các xứ chê cười ngươi. 5 Những kẻ ở gần và xa đã bêu xấu nhạo cười ngươi, thành ngươi đầy hỗn loạn.
6 Hỡi Giê-ru-sa-lem, tất cả các quan cai trị của Ít-ra-en, mỗi người trong các ngươi đều tìm cách giết dân chúng để thủ lợi cho mình. 7 Dân ngươi ghét cha mẹ mình. Chúng ngược đãi ngoại kiều và ức hiếp kẻ mồ côi và người goá bụa. 8 Các ngươi ghét những vật thánh của ta và khinh thường ngày Sa-bát ta. 9 Trong các ngươi có những người nói dối khiến người khác phải chết. Trong các ngươi có những người dùng thức ăn cúng cho thần tượng trên các nơi cao, và phạm tội nhục dục. 10 Trong các ngươi có những người ăn nằm với vợ của cha mình và với đàn bà không tinh sạch đang kỳ kinh nguyệt. 11 Trong các ngươi có người làm điều nhơ nhuốc với vợ của láng giềng mình, trong khi kẻ khác phạm tội nhục dục với con dâu mình, làm ô uế nó. Còn kẻ khác cưỡng hiếp chị em kế của mình. 12 Trong các ngươi có những người nhận tiền để giết kẻ khác. Ngươi cho vay cắt cổ và thủ lợi bằng cách ức hiếp láng giềng mình. Ngươi đã quên ta, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.’”
13 “Cho nên, hỡi Giê-ru-sa-lem, ta sẽ giơ nắm tay ta lên nghịch ngươi là kẻ ăn cắp tiền và giết người. 14 Khi ta trừng phạt thì liệu ngươi có còn can đảm và mạnh bạo không? Ta, CHÚA, đã phán, ta sẽ hành động. 15 Ta sẽ phân tán các ngươi ra giữa các dân và trải ngươi ra giữa mọi nước. Như thế ta mới tẩy sạch mọi thứ dơ bẩn ra khỏi ngươi được. 16 Nhưng chính các ngươi sẽ bị xem thường giữa các dân. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA.”
Ít-ra-en thật vô dụng
17 CHÚA phán cùng tôi rằng: 18 “Hỡi con người, dân Ít-ra-en đã trở thành cặn bã vô dụng cho ta. Chúng như đồng, thiếc, sắt, và chì còn lại trong lò đúc sau khi bạc đã được luyện rồi. 19 Vì thế CHÚA là Thượng Đế phán: Vì các ngươi đã trở nên vô dụng như cặn bã cho nên ta sẽ gom các ngươi lại bên trong Giê-ru-sa-lem. 20 Người ta trộn bạc, đồng, sắt, chì, và thiếc với nhau trong lò đúc rồi dùng lửa nóng nấu chảy ra. Cũng vậy, ta sẽ gom các ngươi lại trong cơn thịnh nộ phừng phừng của ta và đặt các ngươi trong Giê-ru-sa-lem để nấu chảy các ngươi. 21 Ta sẽ đặt chung các ngươi lại khiến các ngươi cảm biết sức nóng của cơn giận ta. Các ngươi sẽ bị nấu chảy bên trong Giê-ru-sa-lem. 22 Bạc bị nung chảy trong lò đúc thế nào, các ngươi cũng sẽ bị nung chảy trong thành như thế. Rồi các ngươi sẽ biết ta, CHÚA, đã trút cơn giận ta trên các ngươi.”
Tội lỗi của dân chúng
23 CHÚA phán cùng tôi rằng: 24 “Hỡi con người, hãy nói cùng xứ, ‘Ngươi là đất chưa được tẩy sạch [bb], đất chưa bị lụt trong ngày Thượng Đế nổi giận.’ 25 Giống như sư tử gầm thét khi xé con mồi nó bắt được, các nhà tiên tri của Ít-ra-en cũng âm mưu ác như vậy. Chúng đã giết nhiều nhân mạng, cướp đoạt nhiều của báu. Chúng đã khiến nhiều đàn bà trở nên góa bụa. 26 Các thầy tế lễ Ít-ra-en đã làm nhiều việc ác, vi phạm những điều giáo huấn của ta, không tôn kính những vật thánh của ta. Chúng không phân biệt giữa vật thánh và vật không thánh, và không dạy cho dân biết giữa cái sạch và không sạch khác nhau xa. Chúng không nhớ ngày Sa-bát ta, cho nên chúng làm cho ta không được tôn trọng. 27 Giống như chó sói xé con mồi đã chết, các lãnh tụ Giê-ru-sa-lem đã giết dân chúng để thủ lợi. 28 Rồi các nhà tiên tri đã che đậy sự thật bằng lớp vôi trắng. Chúng bịa đặt ra các sự hiện thấy giả và dùng ma thuật để đặt ra các điều dối trá. Chúng bảo, ‘CHÚA là Thượng Đế phán như thế nầy,’ trong khi CHÚA không hề phán. 29 Dân trong xứ cướp tiền bạc và ăn cắp. Chúng làm hại những người nghèo khó khốn cùng. Chúng lường gạt ngoại kiều, khiến họ không biết xoay xở ra sao để tìm công lý.
30 Ta tìm kiếm người nào có thể xây lại vách thành, đứng trước mặt ta nơi vách đổ xuống và bênh vực thành ấy nhưng ta chẳng tìm được ai. 31 Cho nên ta cho chúng thấy cơn thịnh nộ ta. Ta tiêu diệt chúng trong cơn giận phừng như lửa vì những điều chúng làm, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Xa-ma-ri và Giê-ru-sa-lem
23 CHÚA phán cùng tôi rằng, 2 “Hỡi con người, người đàn bà nọ có hai con gái. 3 Trong khi còn trẻ, chúng đi xuống Ai-cập hành nghề mãi dâm. Chúng để cho đàn ông sờ và bóp vú chúng nó. 4 Đứa chị tên Ô-hô-la [bc], đứa em tên Ô-hô-li-ba [bd]. Chúng trở thành vợ ta và sinh ra con trai con gái. Ô-hô-la là Xa-ma-ri, và Ô-hô-li-ba là Giê-ru-sa-lem.
5 Trong khi làm vợ ta, Xa-ma-ri ăn nằm với các đàn ông khác. Nó thèm muốn nhục dục với các tình nhân nó tức những người A-xy-ri. Các người A-xy-ri là các chiến sĩ 6 mặc đồng phục xanh. Chúng đều là các tay chỉ huy cao ráo trẻ trung và sĩ quan cỡi ngựa. 7 Xa-ma-ri làm điếm cho tất cả những kẻ cao sang của A-xy-ri và làm ô dơ mình với những hình tượng của bất cứ người nào nó muốn. 8 Nó tiếp tục hành nghề mãi dâm mà nó đã bắt đầu ở Ai-cập. Khi còn trẻ, nó ngủ với nhiều người, chúng bóp vú nó và ăn nằm với nó.
9 Cho nên ta giao nó cho các tình nhân nó là người A-xy-ri mà nó khao khát. 10 Chúng lột truồng nó [be], cướp con trai con gái nó đi. Rồi lấy gươm giết nó. Đàn bà khắp nơi bắt đầu kể lại chuyện nó bị trừng phạt ra sao.
11 Em gái nó là Giê-ru-sa-lem thấy vậy nhưng lại còn hành động tệ hại hơn chị nó trong chuyện ham muốn nhục dục và hành dâm. 12 Nó cũng ham muốn người A-xy-ri là những chiến sĩ ăn mặc đồng phục xinh đẹp, những chỉ huy trẻ trung, cao ráo, và các sĩ quan cỡi ngựa. 13 Ta thấy hai đứa đó y như nhau; cả hai đều là gái điếm.
14 Nhưng Giê-ru-sa-lem còn đi xa hơn. Nó thấy những hình tạc người Ba-by-lôn trên vách. Chúng mặc y phục đỏ 15 và đeo đai quanh hông, quấn khăn vành trên đầu. Chúng đều giống như các người Ba-by-lôn, quê quán ở Canh-đê. 16 Khi nhìn thấy chúng, nó muốn ăn nằm với chúng cho nên sai sứ giả đến với chúng ở Ba-by-lôn. 17 Vì thế các người Ba-by-lôn đến và ăn nằm cùng nó, làm cho nó ô dơ. Sau đó, nó đâm chán chúng nó. 18 Nhưng nó tiếp tục nghề mãi dâm công khai đến nỗi ai cũng biết. Sau cùng ta đâm ra chán nó như ta đã chán chị nó. 19 Nhưng nó nhớ lại trước kia nó là gái điếm trẻ ở Ai-cập cho nên nó lại còn hành nghề mãi dâm hơn nữa. 20 Nó ham muốn đàn ông, thèm muốn nhục dục như thú vật. 21 Các ngươi cũng vậy, các ngươi muốn làm những điều tội lỗi như đã làm ở Ai-cập. Ở đó đàn ông bóp vú non của các ngươi.
Sự trừng phạt của Thượng Đế dành cho Giê-ru-sa-lem
22 Cho nên, hỡi Giê-ru-sa-lem, CHÚA là Thượng Đế phán như sau: ‘Ngươi đã chán ngấy các tình nhân mình. Nên ta sẽ khiến chúng nổi giận cùng ngươi và tấn công ngươi tứ phía.
Footnotes
- Ê-xê-ki-ên 4:2 khúc cây phá vách Những khúc cây lớn mà binh sĩ dùng để chọc thủng vách thành.
- Ê-xê-ki-ên 4:5 390 ngày Bản cổ Hi-lạp ghi “190 ngày.”
- Ê-xê-ki-ên 4:8 ngươi tấn công Giê-ru-sa-lem Hay “ngươi tấn công thành phố.” Đây là một lối chơi chữ. Tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “đói kém,” “thời kỳ khó khăn,” hay “tấn công thành phố.”
- Ê-xê-ki-ên 4:10 nửa cân Nguyên văn, “20 sê-ken” (khoảng 240 gờ ram).
- Ê-xê-ki-ên 4:11 nửa lít Nguyên văn, “một phần sáu hin.”
- Ê-xê-ki-ên 4:13 thức ăn không tinh sạch Những thức ăn mà dân Ít-ra-en bị cấm dùng hay là những thức ăn không được nấu đúng cách theo luật lệ qui định.
- Ê-xê-ki-ên 5:2 sau khi … kết thúc Hay “sau khi hết nạn đói kém.” Xem Ê-xê 4:8.
- Ê-xê-ki-ên 5:4 nhà Ít-ra-en Đây có thể nghĩa là mười chi tộc miền Bắc của nước Ít-ra-en.
- Ê-xê-ki-ên 6:10 Không phải … trên chúng Hay “không phải vô cớ mà ta bảo rằng ta sẽ mang thảm họa nầy đến trên chúng.”
- Ê-xê-ki-ên 6:13 đồi cao Hay “những nơi thờ lạy.”
- Ê-xê-ki-ên 6:14 sa mạc Đíp-la Có lẽ là sa mạc Ríp-la.
- Ê-xê-ki-ên 7:13 bán tài sản Theo tục lệ xưa của Ít-ra-en, tài sản không thuộc về một cá nhân nào mà thuộc về gia đình. Người ta có thể bán tài sản nhưng đến năm Hoan hỉ thì tài sản sẽ lại trở về người bán. Nhưng trong câu nầy Ê-xê-chiên bảo rằng họ sẽ không bao giờ lấy lại tài sản đã bán.
- Ê-xê-ki-ên 8:1 năm thứ sáu Đây là mùa thu năm 592 trước Công nguyên.
- Ê-xê-ki-ên 8:2 sắt nung đỏ Tiếng Hê-bơ-rơ có thể nghĩa là “đồng nấu chảy,” hay “hợp kim vàng và bạc.”
- Ê-xê-ki-ên 8:3 Thần Linh Hay “gió.”
- Ê-xê-ki-ên 8:5 con người Một danh hiệu có nghĩa là “người” hay “con người.” Ở đây là cách xưng hô với Ê-xê-chiên. Xem câu 6, 7, 12, 15, 17.
- Ê-xê-ki-ên 8:10 loài bò sát Tiếng Hê-bơ-rơ có thể chỉ con “cắc kè,” “con rắn,” hoặc “các loại côn trùng.”
- Ê-xê-ki-ên 8:14 Tam-mu Dân chúng tin rằng thần giả nầy chết, vợ ông ta là Ích-ta yêu cầu mọi người buồn thảm và khóc với bà ta vì bà tin rằng làm như thế sẽ khiến ông thần nầy sống lại. Tập tục khóc nầy thường diễn ra vào ngày hai của tháng tư (tức tháng 6-7 dương lịch). Tháng ấy gọi là tháng Tam-mu vì lý do vừa kể.
- Ê-xê-ki-ên 8:17 Xem đó … chọc giận ta Hay “Chúng đeo vòng vào mũi để tôn thờ mặt trăng như thần giả!”
- Ê-xê-ki-ên 9:1 “Hỡi các ngươi … gần đây.” Trong tiếng Hê-bơ-rơ thì câu nầy cũng giống như 8:11.
- Ê-xê-ki-ên 9:2 vải gai mịn Các thầy tế lễ thường mặc áo quần bằng loại vải nầy.
- Ê-xê-ki-ên 9:2 bộ bảng viết Học giả là người sao chép các văn kiện chính thức và giữ sổ tổng kê vật liệu và dụng cụ. Họ mang theo một bảng viết nhỏ, bình mực và một cây viết. Họ chấm mực để viết. Xem câu 11.
- Ê-xê-ki-ên 10:1 cái vòm Tiếng Hê-bơ-rơ dùng ở đây cũng giống như trong Sáng 1:6-7 để mô tả bầu trời. Có khi gọi là “cái bát úp ngược.”
- Ê-xê-ki-ên 10:2 vải gai mịn Các thầy tế lễ thường hay mặc áo quần may bằng loại vải nầy.
- Ê-xê-ki-ên 10:2 khu giữa các bánh xe Tiếng Hê-bơ-rơ ở đây có thể nghĩa là “bánh xe quân xa,” “bánh xe lăn,” hay “cỏ khô cuốn tròn.” Xem chương 1 để thấy Ê-xê-chiên mô tả rõ ràng hơn. Xem thêm câu 6.
- Ê-xê-ki-ên 10:3 phía Nam Nguyên văn, “bên phải.”
- Ê-xê-ki-ên 10:14 con thú có cánh Đây là mặt của con bò đực được nói đến trong Ê-xê 1:10. Xem Ê-xê 10:22.
- Ê-xê-ki-ên 10:15 thấy bên bờ sông Kê-ba Xem Ê-xê 1.
- Ê-xê-ki-ên 10:17 thần linh Hay “gió.”
- Ê-xê-ki-ên 11:1 Thần Linh Hay “gió.”
- Ê-xê-ki-ên 11:2 con người Từ ngữ nầy có nghĩa là “một người” hay “con người.” Đây là cách xưng hô hoặc gọi Ê-xê-chiên.
- Ê-xê-ki-ên 11:23 ngọn đồi nằm về phía Đông của thành Đây là núi Ô-liu.
- Ê-xê-ki-ên 11:24 Thần Linh Hay “gió.”
- Ê-xê-ki-ên 12:13 Người sẽ … tại đó Kẻ thù sẽ móc mắt người, khiến người bị mù.
- Ê-xê-ki-ên 14:14 Nô-ê, Đa-niên, và Gióp Ba nhân vật nổi danh thời xưa. Họ nổi danh vì đức hạnh và sự khôn ngoan.
- Ê-xê-ki-ên 15:2 cây nho Các nhà tiên tri thường ví dân Ít-ra-en như là vườn nho hay cây nho của Thượng Đế. Xem thêm 16:2, 3, 6.
- Ê-xê-ki-ên 16:8 phủ áo ta trên ngươi Chứng tỏ rằng Ngài bằng lòng bảo bọc cho nàng.
- Ê-xê-ki-ên 16:8 giao ước Đây có nghĩa là giao ước hôn nhân. Nhưng cũng có nghĩa là giao ước mà Thượng Đế lập với dân Ít-ra-en. Xem “giao ước” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
- Ê-xê-ki-ên 16:10 Câu 10-13 Tất cả những vật liệu liệt kê trong 4 câu nầy là những vật liệu dùng để xây Lều Thánh. Xem Xuất 25-40.
- Ê-xê-ki-ên 16:16 nơi thờ phụng Hay “nơi cao.” Xem “nơi cao” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ. Xem thêm các câu 31, 39.
- Ê-xê-ki-ên 16:17 làm điều dâm ô Có nghĩa là “không trung thành với CHÚA bằng cách bái lạy thần tượng.”
- Ê-xê-ki-ên 16:21 giết Từ ngữ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ thường dùng cho việc giết thú vật (làm thịt) nhưng đây được dùng để ám chỉ sự giết người như làm thịt thú vật.
- Ê-xê-ki-ên 16:37 để chúng nhìn thấy sự trần truồng ngươi Tiếng Hê-bơ-rơ trong câu nầy nghe như, “bị đày làm phu tù sang một nước khác.”
- Ê-xê-ki-ên 16:46 Xa-ma-ri … Xô-đôm Ê-xê-chiên muốn nói rằng dân Giu-đa cũng gian ác như dân sống ở Xa-ma-ri và Xô-đôm—đến nỗi Thượng Đế phải hủy diệt hai thành ấy.
- Ê-xê-ki-ên 18:2 Cha mẹ … buốt răng Nghĩa là con cái chịu hậu quả của việc cha mẹ làm.
- Ê-xê-ki-ên 18:12 mặc dù nợ đã trả xong Xem Phục 24:12-13 về luật lệ liên quan đến việc cho người nghèo vay tiền.
- Ê-xê-ki-ên 20:1 năm lưu đày thứ bảy Đây là mùa hè năm 591 trước Công nguyên.
- Ê-xê-ki-ên 20:6 xứ phì nhiêu Nguyên văn, “Xứ chảy sữa và mật.” Xem câu 15.
- Ê-xê-ki-ên 20:28 của lễ để chọc giận ta Dân chúng gọi là “của lễ thân hữu,” nhưng Ê-xê-chiên chế giễu họ bằng cách nói rằng các của lễ ấy chỉ khiến Chúa nổi giận mà thôi.
- Ê-xê-ki-ên 20:46 rừng Nê-ghép Có lẽ Thượng Đế mỉa mai dân chúng. Nê-ghép là một vùng sa mạc, không có rừng nào cả.
- Ê-xê-ki-ên 21:21 mũi tên, thần tượng, lá gan Người thời xưa tin rằng các thần giả dùng những thứ nầy để tiên đoán tương lai.
- Ê-xê-ki-ên 21:22 khúc cây để phá các cửa thành Những khúc gỗ nặng mà binh sĩ dùng để chọc thủng cửa thành hay vách thành.
- Ê-xê-ki-ên 21:31 những kẻ hung bạo Đây là một lối chơi chữ. Chữ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như, “đốt cháy.”
- Ê-xê-ki-ên 22:24 chưa được tẩy sạch Đây là một lối chơi chữ. Tiếng Hê-bơ-rơ thì cụm từ nầy có nghĩa là “chưa được mưa rơi xuống.”
- Ê-xê-ki-ên 23:4 Ô-hô-la Nghĩa là “cái lều.” Có lẽ tác giả muốn nói đến Lều Thánh mà dân Ít-ra-en đến để thờ phụng Thượng Đế.
- Ê-xê-ki-ên 23:4 Ô-hô-li-ba Nghĩa là “Lều của ta ở trong xứ nó.” Xem câu 18, 21.
- Ê-xê-ki-ên 23:10 lột truồng nó Hay “hiếp dâm nó.” Tiếng Hê-bơ-rơ chữ “lột truồng” hay “làm lộ liễu” nghe như “bị làm tù đày ở một xứ xa xăm.”
© 2010 Bible League International