Add parallel Print Page Options

Lời cảnh cáo A-xy-ri và lời hứa cho dân Chúa

33 Khốn cho các ngươi là kẻ tiêu diệt người khác nhưng chính ngươi chưa bị diệt. Khốn cho các ngươi là kẻ phản bội, mà chưa bị ai chống nghịch. Khi ngươi phản bội xong thì chính ngươi sẽ bị phản bội. Khi ngươi thôi chống nghịch người khác, thì họ sẽ chống nghịch ngươi.

Lạy CHÚA, xin hãy tỏ lòng nhân từ cùng chúng tôi.
    Chúng tôi đã trông mong Ngài cứu giúp.
Mỗi sáng xin thêm sức cho chúng tôi.
    Xin giải cứu khi chúng tôi gặp nguy biến.
Tiếng nói vang rền của Ngài khiến chúng sợ hãi bỏ chạy,
    sự oai nghi Ngài khiến các dân bỏ trốn.

Các kẻ thù ngươi như cào cào sẽ cướp những chiến lợi phẩm ngươi đoạt trong chiến trận. Giống như đoàn cào cào bay ào tới, chúng sẽ cướp lấy của cải ngươi.

CHÚA rất oai nghi, Ngài ở nơi rất cao. Ngài đổ tràn lẽ công bằng và nền công lý trên Giê-ru-sa-lem.

Ngài sẽ là nơi an toàn cho ngươi. Ngài đầy sự cứu rỗi, khôn ngoan, và thông sáng. Không gì quí cho bằng kính sợ CHÚA.

Xem kìa, các sứ giả [a] đang kêu khóc trong đường phố; những kẻ đang cố mang lại hoà bình đang kêu khóc thảm thiết. Không có ai trên đường, không ai đi trên nẻo. Dân chúng đã phá giao ước họ lập. Chúng không chịu tin vào bằng cớ do nhân chứng [b] đưa ra. Không ai tôn trọng ai cả. Đất đang mắc bệnh và chết dần; Li-băng bị xấu hổ và hấp hối. Bình nguyên Sa-rôn khô khan như sa mạc, các cây cối của Ba-san và Cạt-mên đang rụng lá.

10 CHÚA phán, “Bây giờ ta sẽ đứng dậy tỏ sự oai nghi ta. Bây giờ ta sẽ được tôn cao. 11 Các ngươi mang thai trấu và sinh ra rơm rạ. Thần linh trong các ngươi là lửa đốt cháy các ngươi. 12 Chúng nó sẽ bị đốt cho đến khi xương chỉ còn chất vôi [c] trắng; chúng cháy phừng nhanh như bụi gai khô.”

13 Các ngươi là kẻ từ xứ xa, hãy nghe điều ta làm. Các ngươi là kẻ gần ta, hãy biết đến quyền năng ta.

14 Các kẻ phạm tội ở Giê-ru-sa-lem đang lo sợ; những kẻ lìa xa Thượng Đế run sợ. Chúng bảo, “Ai trong chúng ta sống sót qua được đám lửa thiêu hủy? Ai có thể sống gần đám lửa cháy đời đời [d]?”

15 Người làm điều công chính nói ra điều công chính, người không chịu nhận tiền hối lộ, không chịu lãnh của đút lót để làm hại người khác, không nghe những mưu mô giết người, không nghĩ đến điều ác. 16 Đó là người được an ổn. Người sẽ được che chở như đang ở trong một cái thành có vách cao kiên cố. Người sẽ luôn luôn đủ thức ăn, và không bao giờ thiếu nước uống.

17 Mắt ngươi sẽ nhìn thấy vua cùng vẻ huy hoàng của Ngài. Ngươi sẽ thấy đất chạy dài mênh mông. 18 Ngươi sẽ suy nghĩ đến sự kinh hoàng thuở trước: “Viên chức đó đâu rồi? Kẻ thu thuế đâu? Còn quan chịu trách nhiệm tháp canh phòng vệ đâu?” 19 Ngươi sẽ không còn thấy các dân hách dịch từ các quốc gia khác, nói thứ tiếng mà ngươi không hiểu.

Thượng Đế sẽ bảo vệ Giê-ru-sa-lem

20 Hãy nhìn Xi-ôn, thành của những lễ lộc ta. Hãy nhìn Giê-ru-sa-lem, nơi nghỉ ngơi yên tĩnh, như lều không bao giờ bị dời đi; như những cọc lều không bao giờ bị nhổ lên, và các dây thừng buộc nó sẽ không bao giờ đứt. 21 Đó là nơi ngự của CHÚA, Đấng Oai Nghi của chúng ta. Đó là đất có suối và sông lớn, nhưng không có thuyền bè bơi bằng mái chèo; cũng chẳng có tàu lớn nào chạy trên sông. 22 Vì CHÚA là quan án của chúng ta. Ngài làm ra luật lệ của chúng ta. Ngài là vua chúng ta. Ngài sẽ giải cứu chúng ta. 23 Hỡi các thủy thủ từ các xứ xa hãy nghe: Dây thừng buộc thuyền các ngươi lỏng lẻo. Cột buồm không vững chắc nữa. Buồm không giương ra. Của cải vô số của các ngươi bị phân ra, Đến nỗi kẻ què cũng được phần chia. 24 Không ai sống trong Giê-ru-sa-lem nói rằng, “Tôi bị đau.” Vì mọi người sống ở đó đều được tha tội.

Footnotes

  1. I-sai-a 33:7 các sứ giả Bản Hê-bơ-rơ ở đây có thể mang nghĩa “thiên sứ.”
  2. I-sai-a 33:8 nhân chứng Nguyên văn, “các thành phố.”
  3. I-sai-a 33:12 vôi Một loại bột trắng dùng để trộn hồ và xi măng. Bột nầy tạo ra khi xương, vỏ sò hay đá vôi được nung lên.
  4. I-sai-a 33:14 đám lửa cháy đời đời Đây ám chỉ Thượng Đế, ngọn lửa của Ít-ra-en.

Vua Giải Cứu Si-ôn

33 Khốn cho kẻ hủy diệt,
    Ngươi chưa bị hủy diệt.
Còn kẻ phản bội,
    Ngươi chưa bị phản bội!
Khi ngươi ngừng hủy diệt,
    Ngươi sẽ bị hủy diệt.
Khi ngươi chấm dứt phản bội,
    Ngươi sẽ bị phản bội.
Lạy CHÚA, xin gia ân cho chúng tôi,
    Chúng tôi trông đợi Ngài.
Xin Ngài ban sức mạnh[a] cho chúng tôi mỗi buổi mai,
    Xin Ngài giải cứu khi chúng tôi gặp hoạn nạn.
Vì tiếng náo động của Ngài[b] các dân bỏ chạy,
    Vì khi Ngài dấy lên các nước tan vỡ.
Của cải của các ngươi bị thâu góp lại như cào cào[c] thâu góp.
    Như đám châu chấu vồ chộp, người ta vồ chộp nó.
CHÚA được tôn cao vì Ngài ngự trên cao.
    Ngài làm cho Si-ôn đầy dẫy sự công bình và sự công chính.
Ngài sẽ là sự bền vững cho thời đại[d] các ngươi;
    Sự cứu rỗi, khôn ngoan và tri thức sẽ đầy dẫy.
    Sự kính sợ CHÚA sẽ là kho báu của ngươi.[e]
Này, những dũng sĩ kêu la ngoài đường,
    Các sứ giả hòa bình khóc lóc đắng cay.
Đường cái bị bỏ hoang.
    Khách du hành không còn qua lại nữa.
Giao ước bị hủy;
    Các thành[f] bị khinh bỉ;
    Con người không được tôn trọng.
Đất đai than khóc, mòn mỏi;
    Li-ban thì xấu hổ và tàn tạ;
Sa-rôn giống như sa mạc;
    Ba-san và Cạt-mên tiêu điều.[g]
10 CHÚA phán: “Bây giờ Ta sẽ đứng lên;
    Bây giờ Ta sẽ nâng Ta lên;
    Bây giờ Ta sẽ được tôn cao.
11 Các ngươi mang thai trấu
    Và sinh ra rơm rạ,
    Hơi thở của các ngươi là lửa thiêu nuốt mình.
12 Các dân sẽ như đá vôi bốc cháy;
    Như gai góc bị chặt và cháy trong lửa.”
13 Hỡi những kẻ ở xa, hãy nghe việc Ta đã làm;
    Hỡi những người ở gần, hãy biết năng lực Ta.
14 Những kẻ tội lỗi tại Si-ôn khiếp sợ,
    Các kẻ vô đạo thì run rẩy.
“Ai trong chúng ta có thể sống với lửa thiêu đốt?
    Ai trong chúng ta có thể sống với lửa cháy đời đời?”
15 Những người sống[h] công chính,
    Nói ngay thẳng,
Khinh lợi lộc do áp bức,
    Phủi tay không nhận hối lộ,
Bịt tai không bàn[i] chuyện đổ máu,
    Nhắm mắt không chăm chú điều gian ác.
16 Người ấy sẽ sống ở nơi cao,
    Trú ẩn trong thành lũy bằng đá;
Bánh sẽ đầy đủ[j]
    Và nước không thiếu.[k]
17 Mắt người sẽ thấy sự tốt đẹp của vua,
    Sẽ nhìn thấy vùng đất trải rộng.
18 Lòng ngươi sẽ suy gẫm sự khủng khiếp:
    “Những người đếm đâu rồi?
    Những người cân đâu rồi?
    Những người đếm các tháp canh đâu?”
19 Các ngươi sẽ không thấy một dân kiêu căng nữa,
    Là dân có tiếng nói xa lạ khó nghe,
    Lưỡi líu lo khó hiểu.
20 Hãy nhìn xem Si-ôn, là thành tế lễ hội chúng ta.
    Mắt các ngươi sẽ thấy Giê-ru-sa-lem,
    Nơi cư trú yên tĩnh, một trại không bị dời đổi,
Các cọc không bao giờ bị nhổ đi
    Và tất cả các dây sẽ không bị đứt.
21 CHÚA quyền uy sẽ ở với chúng ta tại đó,
    Là nơi có sông ngòi lớn;
Thuyền chèo không đi được
    Mà tàu lớn cũng không vượt qua nổi.
22 Thật, CHÚA là Đấng xét đoán chúng ta;
    CHÚA là Đấng cai trị chúng ta;
CHÚA là vua chúng ta;
    Ngài sẽ cứu rỗi chúng ta.
23 Dây của các ngươi bị tháo lỏng,
    Không thể giữ chân cột buồm vững vàng
    Và không thể giương buồm được.
Bấy giờ người ta sẽ chia nhau nhiều chiến lợi phẩm;
    Ngay cả những kẻ què cũng lấy được của cải.
24 Dân cư sẽ không ai nói: “Tôi bị bịnh.”
    Dân cư ngụ tại đó sẽ được tha tội.

Footnotes

  1. 33:2 Nt: cánh tay
  2. 33:3 Nt: không có từ “của Ngài”. Thêm vào cho rõ nghĩa theo văn mạch
  3. 33:4 Ctd: vì sự uy nghi Ngài
  4. 33:6 Nt: thì giờ
  5. 33:6 Nt: của nó. Một số học giả cho rằng “nó” chỉ Si-ôn
  6. 33:8 1QIs: nhân chứng
  7. 33:9 Nt: rụng lá
  8. 33:15 Nt: bước đi
  9. 33:15 Nt: nghe
  10. 33:16 Nt: cung cấp
  11. 33:16 Nt: bảo đảm