Add parallel Print Page Options

Dùng Áp-ra-ham làm dẫn chứng

Chúng ta có thể nói Áp-ra-ham, tổ tiên của dân tộc ta, đã học được gì về đức tin? Nếu Áp-ra-ham được hòa thuận với Thượng Đế nhờ những điều ông làm thì ông sẽ có lý do chính đáng để khoe. Nhưng Áp-ra-ham không thể tự khoe trước Thượng Đế. Vì Thánh Kinh viết, “Áp-ra-ham đặt niềm tin nơi Thượng Đế, Ngài chấp nhận niềm tin của ông và niềm tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài.” [a]

Ai làm việc thì lương bổng không thể xem là quà biếu mà là tiền công của mình. Nhưng con người không thể làm cách nào để hòa thuận lại với Thượng Đế được. Nên con người phải trông cậy vào Thượng Đế là Đấng có thể khiến cho kẻ ác hòa thuận lại với Ngài. Thượng Đế sẽ chấp nhận đức tin của họ, nhờ đó họ được hòa thuận lại với Ngài.

Read full chapter

Footnotes

  1. Rô-ma 4:3 Áp-ra-ham … với Ngài Sáng 15:6.

Gương của Áp-ra-ham

Vậy chúng ta sẽ nói gì về tổ phụ Áp-ra-ham của chúng ta theo phần xác đã được? Vì nếu nhờ vào việc làm mà Áp-ra-ham đã được xưng công chính thì ông có lý do để tự hào; nhưng ông không thể tự hào trước mặt Ðức Chúa Trời được, vì Kinh Thánh đã nói gì?

“Áp-ra-ham tin Ðức Chúa Trời, và vì thế ông được kể là công chính.”Sáng 15:6

Thế thì, đối với người làm việc, tiền công không phải là ơn huệ, nhưng là món nợ chủ phải trả. Nhưng đối với người không cậy vào việc làm, mà chỉ tin vào Ðấng làm cho người có tội được xưng công chính, thì đức tin của người ấy được kể là yếu tố giúp người ấy được xưng công chính.

Read full chapter

Thượng Đế gọi Áp-ram

12 CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy rời bỏ xứ sở,
    thân nhân và gia đình cha con,
    đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
Ta sẽ làm cho con trở thành một dân lớn
    và sẽ ban phước cho con.
Ta sẽ khiến con nổi danh
    và là nguồn phước cho nhiều người.
Ta sẽ ban phước cho kẻ chúc phước con
    và nguyền rủa kẻ hại con.
Mọi dân tộc trên đất sẽ nhờ con
    mà được phước.”

Áp-ram đi đến vùng Ca-na-an

Vậy Áp-ram rời Ha-ran theo như CHÚA đã dặn bảo, có Lót cùng đi. Lúc đó Áp-ram đã 75 tuổi. Ông mang Sa-rai vợ mình, Lót cháu mình và mọi vật thuộc về mình cùng các đầy tớ ông đã có tại Ha-ran và lên đường ra đi, dự định đến đất Ca-na-an, sau cùng thì tới nơi. Áp-ram đi qua suốt cả xứ đến tận cây sồi lớn Mô-rê thuộc Sê-chem. Lúc đó dân Ca-na-an đang cư ngụ trong xứ nầy.

CHÚA hiện ra [a] cùng Áp-ram và bảo, “Ta sẽ cấp đất nầy cho dòng dõi con.” Vì thế tại đó, Áp-ram xây một bàn thờ cho CHÚA, Đấng đã hiện ra cùng ông. Rồi từ Sê-chem ông đi đến núi phía đông của Bê-tên và dựng trại tại đó. Bê-tên nằm về phía tây, còn A-hi [b] nằm về phía đông. Nơi ấy Áp-ram xây một bàn thờ nữa cho CHÚA và thờ phụng Ngài. Rồi ông tiếp tục đi đến vùng Nê-ghép.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 12:7 CHÚA hiện ra Thượng Đế thường hay dùng những hình dạng đặc biệt để người ta nhận ra Ngài. Có khi Ngài hiện ra như một người, một thiên sứ, một đám lửa, hay ánh sáng chói lọi.
  2. Sáng Thế 12:8 A-hi Nghĩa là “nơi đổ nát.”

Áp-ram Ðược Chúa Chọn

12 Bấy giờ Chúa phán với Áp-ram, “Hãy rời khỏi xứ sở ngươi, bà con ngươi, và nhà cha ngươi, để đi đến xứ Ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi trở nên một dân lớn. Ta sẽ ban phước cho ngươi và làm nổi danh ngươi. Ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, và sẽ nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa ngươi. Mọi dân trên thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước.”

Áp-ram ra đi như Chúa đã phán với ông và Lót đi với ông. Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời khỏi Cha-ran. Áp-ram dẫn Sa-rai vợ ông và Lót cháu ông; họ đem theo mọi tài sản họ đã tạo được và mọi gia nhân họ có được tại Cha-ran và lên đường đi đến xứ Ca-na-an, và họ đã đến được xứ đó.

Áp-ram đi ngang qua xứ ấy và đến một nơi tại Si-chem, nơi có cây sồi của Mô-rê. Lúc ấy dân Ca-na-an đang sống trong xứ. Bấy giờ Chúa hiện ra với Áp-ram và phán, “Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi xứ nầy.” Ông bèn xây tại đó một bàn thờ để thờ phượng Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông.

Từ đó ông di chuyển về miền đồi núi ở phía đông của Bê-tên,[a] rồi hạ trại tại đó; đó là nơi phía tây có Bê-tên và phía đông có Ai. Tại đó ông xây một bàn thờ để thờ phượng Chúa và kêu cầu danh Chúa. Sau đó Áp-ram lại tiếp tục lên đường, đi từng chặng một, dần dần tiến về Miền Nam.[b]

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 12:8 “Bết” (Beth) là nhà, “Ên” (El) là Ðức Chúa Trời; Bê-tên là Nhà của Ðức Chúa Trời (28:19)
  2. Sáng Thế 12:9 nt: Nê-ghép, một địa danh, nam của Palestine, bắc của Ai-cập

Áp-ram và Lót chia tay nhau

13 Áp-ram, vợ ông, và Lót rời Ai-cập mang theo các tài sản và đi về vùng Nê-ghép, miền nam Ca-na-an. Áp-ram rất giàu, có vô số gia súc, bạc và vàng.

Sau đó ông rời vùng Nê-ghép trở về lại Bê-tên, nơi ông dựng trại trước kia, tức nơi nằm giữa Bê-tên và A-hi [a], là chỗ ông đã xây một bàn thờ. Vậy ông thờ phụng CHÚA tại đó.

Áp-ram và Lót chia rẽ nhau

Trong thời gian cùng đi với Áp-ram, Lót cũng có rất nhiều bầy gia súc và lều trại. Áp-ram và Lót có quá nhiều gia súc đến nỗi đất không đủ cho cả hai người cư ngụ, vì thế mà những bọn chăn gia súc của Áp-ram và Lót bắt đầu gây sự với nhau. Trong khi đó dân Ca-na-an và dân Phê-ri-xít đang sống trong xứ.

Áp-ram bảo Lót, “Bác với cháu không nên gây sự với nhau làm gì, và bọn chăn gia súc chúng ta cũng không nên cãi nhau vì chúng ta là thân nhân ruột thịt. Thôi chúng ta nên chia tay nhau. Cả xứ ở trước mặt cháu đó. Nếu cháu chọn phía Bắc, bác sẽ đi phía Nam. Nếu cháu chọn phía Nam, bác sẽ đi phía Bắc.”

10 Lót nhìn quanh thấy toàn vùng thung lũng sông Giô-đanh có nhiều nước, giống như vườn của CHÚA, như xứ Ai-cập về hướng Xoa. (Đó là trước khi CHÚA hủy diệt Xô-đôm và Gô-mô-rơ.) 11 Vì thế Lót chọn vùng phía Đông và định cư trong thung lũng sông Giô-đanh. Vậy là Áp-ram và Lót chia tay nhau. 12 Áp-ram sống trong xứ Ca-na-an, còn Lót sống trong các thành phố nằm trong thung lũng sông Giô-đanh, rồi dời lều đến Xô-đôm. 13 Dân Xô-đôm rất độc ác và phạm tội nặng cùng CHÚA.

14 Sau khi Lót ra đi rồi, CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy nhìn quanh con từ bắc đến nam, từ đông sang tây. 15 Tất cả vùng đất mà con nhìn thấy, ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đời đời. 16 Ta sẽ khiến cho dòng dõi con đông như cát bụi trên đất. Ai có thể đếm được cát bụi trên đất mới có thể đếm được con cháu con. 17 Hãy đứng dậy! Đi khắp vùng đất mà ta sẽ cấp cho con.”

18 Vậy Áp-ram dời trại và đi đến định cư gần các cây sồi lớn tại Mam-rê nơi thành Hếp-rôn. Ông xây một đền thờ cho CHÚA tại đó.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 13:3 A-hi Nghĩa là “chỗ đổ nát.”

Áp-ram và Lót Chia Tay

13 Áp-ram từ Ai-cập đi lên; ông dẫn vợ ông và đem theo các tài vật ông có trở lên Miền Nam;[a] cũng có Lót đi với ông.

Bấy giờ Áp-ram đã trở thành một người rất giàu. Ông có nhiều súc vật, bạc, và vàng. Ông cứ đi từng chặng một, từ Miền Nam tiến dần về Bê-tên, trở về nơi ông đã hạ trại ban đầu, tức khoảng giữa Bê-tên và Ai, nơi khi trước ông đã xây một bàn thờ, nơi Áp-ram đã kêu cầu danh Chúa.

Bấy giờ Lót, người cháu đi theo Áp-ram, cũng có nhiều bầy chiên, bầy bò, và lều trại. Xứ đó không đủ chỗ cho họ ở chung, bởi tài sản của họ quá nhiều đến nỗi không thể ở chung với nhau được. Bấy giờ giữa những người chăn bầy cho Áp-ram và những người chăn bầy cho Lót lại có cuộc tranh giành cãi cọ với nhau. Lúc đó dân Ca-na-an và dân Pê-ri-xi vẫn còn trú ngụ trong xứ ấy.

Áp-ram nói với Lót, “Ðừng để cho có chuyện tranh chấp giữa bác cháu mình, giữa những người chăn bầy của cháu và những người chăn bầy của bác, vì chúng ta là bà con ruột thịt với nhau. Chẳng phải cả xứ đều ở trước mặt cháu đấy sao? Thôi thì chúng ta hãy chia tay nhau. Nếu cháu chọn bên trái, bác sẽ dọn qua bên phải; nếu cháu chọn bên phải, bác sẽ dọn qua bên trái.”

10 Lót ngước mắt lên và thấy cả vùng đồng bằng Sông Giô-đanh, chỗ nào cũng có nước. Ðó là quang cảnh trước khi Chúa tiêu diệt Sô-đôm và Gô-mô-ra. Toàn vùng đó, chạy dài cho đến Xô-a, đều xanh tươi tốt đẹp, như vườn của Chúa, giống như xứ Ai-cập. 11 Lót bèn chọn cho ông cả vùng đồng bằng Sông Giô-đanh, và Lót dọn về phía đông. Thế là họ chia tay nhau.

12 Áp-ram sống trong xứ Ca-na-an, còn Lót đến ở giữa các thành trong vùng đồng bằng, và di chuyển trại ông đến gần Sô-đôm. 13 Vả dân Sô-đôm là những kẻ gian ác và phạm tội nặng đối với Chúa.

14 Sau khi Lót chia tay với Áp-ram, Chúa phán với ông, “Hãy ngước mắt lên, từ chỗ ngươi đang ở hãy nhìn về hướng bắc, hướng nam, hướng đông, và hướng tây, 15 vì Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi tất cả đất ngươi thấy vĩnh viễn. 16 Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi đông như bụi trên đất, đến nỗi nếu ai có thể đếm được bụi trên đất sẽ đếm được dòng dõi ngươi. 17 Hãy đứng dậy, hãy đi quan sát suốt chiều dọc và chiều ngang của xứ nầy, vì Ta sẽ ban nó cho ngươi.” 18 Vậy Áp-ram di chuyển trại của ông và đến hạ trại tại đám sồi của Mam-rê, trong vùng Hếp-rôn. Tại đó ông xây một bàn thờ để thờ phượng Chúa.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 13:1 nt: Nê-ghép (xem chú thích 12:9)

Giao ước của Thượng Đế với Áp-ram

15 Sau các việc ấy CHÚA phán với Áp-ram trong một sự hiện thấy, “Áp-ram ơi, đừng sợ. Ta sẽ bảo vệ con, ta sẽ cho con phần thưởng lớn.”

Nhưng Áp-ram thưa, “Lạy CHÚA là Thượng Đế, CHÚA sẽ ban gì cho con? Con không có con trai, nên sau khi con qua đời thì Ê-li-ê-xe, người nô lệ từ Đa-mách sẽ hưởng hết tài sản của con.” Áp-ram tiếp, “CHÚA xem, Ngài không cho con đứa con trai nào, nên kẻ nô lệ được sinh trong nhà con sẽ hưởng tài sản của con.”

Nhưng CHÚA phán cùng Áp-ram rằng, “Kẻ nô lệ đó không phải là người thừa hưởng tài sản con đâu. Con sẽ có một con trai ruột, là người sẽ hưởng tài sản con.”

Rồi Thượng Đế dẫn Áp-ram ra ngoài và bảo, “Hãy ngước nhìn bầu trời! Các ngôi sao nhiều vô số không thể đếm nổi. Con cháu con cũng đông như vậy.”

Áp-ram tin CHÚA. Ngài chấp nhận ông. Đức tin ấy khiến ông trở nên công chính trước mặt CHÚA.

Read full chapter

Giao Ước của Ðức Chúa Trời với Áp-ram

15 Sau các việc đó lời của Chúa đã đến với Áp-ram trong một khải tượng, “Hỡi Áp-ram, đừng sợ. Ta là thuẫn che chở ngươi. Phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn.”

Nhưng Áp-ram thưa lại, “Lạy Chúa Ðức Chúa Trời,[a] Ngài sẽ ban cho con điều gì, vì con vẫn còn sống cuộc đời của kẻ không con nối dõi, và người sẽ thừa kế gia tài của con sẽ là Ê-li-ê-xe người Ða-mách?” Áp-ram thưa tiếp, “Nầy, cho đến bây giờ Ngài vẫn chưa cho con có con nối dõi, nên một người nô lệ sinh ra trong nhà con sẽ thừa hưởng gia tài của con.”

Nhưng lời Chúa đến với ông, “Kẻ ấy không phải là người thừa kế của ngươi đâu, nhưng đứa con do chính ngươi sinh ra mới là người thừa kế của ngươi.” Ngài dẫn ông ra bên ngoài và phán, “Ngươi hãy nhìn lên trời và đếm các vì sao, liệu ngươi có thể đếm hết chăng.” Ðoạn Ngài phán với ông, “Dòng dõi ngươi rồi cũng sẽ đông như vậy.” Ông tin Chúa, bởi thế ông được Ngài xem là công chính.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 15:2 nt: Adonai Yahweh

18 Ngày đó CHÚA lập giao ước với Áp-ram. Ngài nói, “Ta sẽ ban cho dòng dõi con vùng đất nằm giữa sông Ai-cập [a] và sông lớn Ơ-phơ-rát.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 15:18 sông Ai-cập Đây là suối mang tên “Hoa-đi En-A-rít.”

18 Ngày hôm đó Chúa đã lập một giao ước với Áp-ram rằng, “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất nầy, từ Sông Ai-cập đến Sông Cả, tức Sông Ơ-phơ-rát,

Read full chapter

Phép cắt dương bì—Bằng chứng về giao ước

17 Khi Áp-ram được 99 tuổi, thì CHÚA hiện ra cùng ông và bảo, “Ta là Thượng Đế Toàn Năng [a]. Hãy vâng lời ta và làm điều phải. Ta sẽ lập giao ước giữa chúng ta. Ta sẽ làm cho con trở thành ông tổ của nhiều người.”

Áp-ram liền cúi mọp mình xuống đất. Thượng Đế bảo ông, “Ta đang lập giao ước với con: Ta sẽ khiến con trở thành cha của nhiều dân tộc. Nay ta đổi tên con từ Áp-ram [b] ra Áp-ra-ham [c] vì ta sẽ khiến con trở nên cha của nhiều dân tộc. Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông đảo. Nhiều dân tộc sẽ từ con mà ra, nhiều vua cũng sẽ là dòng dõi của con. Từ nay ta sẽ lập giao ước giữa ta với con và dòng dõi con: Ta sẽ làm Thượng Đế con và là Thượng Đế của tất cả dòng dõi con. Hiện con đang sống trong xứ Ca-na-an như dân tạm trú, nhưng ta sẽ cấp xứ nầy cho con và dòng dõi con đời đời. Ta sẽ làm Thượng Đế của dòng dõi con.”

Rồi CHÚA phán cùng Áp-ra-ham, “Từ nay về sau con và dòng dõi con phải giữ giao ước nầy. 10 Giao ước giữa ta với con và dòng dõi con mà các con phải giữ như sau: Mọi người nam trong các con phải chịu cắt dương bì.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 17:1 Thượng Đế Toàn Năng Nguyên văn, “En Sa-đai.”
  2. Sáng Thế 17:5 Áp-ram Nghĩa là “cha đáng kính.”
  3. Sáng Thế 17:5 Áp-ra-ham Nghĩa là “cha vĩ đại” hay “cha của nhiều người.”

Cắt Bì - Dấu của Giao Ước

17 Khi Áp-ram được chín mươi chín tuổi, Chúa hiện ra với Áp-ram và phán, “Ta là Ðức Chúa Trời Toàn Năng.[a] Hãy bước đi trước mặt Ta và sống hoàn toàn thánh thiện. Ta sẽ thực hiện giao ước Ta, tức giao ước giữa Ta với ngươi, và sẽ làm cho ngươi gia tăng đông đúc.”

Áp-ram liền sấp mặt xuống đất. Ðức Chúa Trời phán tiếp với ông, “Nầy, về phần Ta, đây là giao ước của Ta với ngươi: Ngươi sẽ trở thành tổ phụ của nhiều dân. Từ nay tên ngươi không còn là Áp-ram[b] nữa, nhưng tên ngươi sẽ là Áp-ra-ham,[c] vì Ta đã lập ngươi làm tổ phụ của nhiều dân. Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi gia tăng đông đúc, rồi từ ngươi sẽ sinh ra nhiều dân, và các vua sẽ từ dòng dõi ngươi sinh ra. Ta sẽ thực hiện giao ước Ta, tức giao ước giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác; đó là một giao ước đời đời, để Ta làm Ðức Chúa Trời[d] của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này. Ta cũng sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này xứ hiện nay ngươi đang sống như một kiều dân, tức toàn cõi Ca-na-an, để làm sản nghiệp đời đời; và Ta sẽ làm Ðức Chúa Trời[e] của chúng.”

Ðoạn Ðức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham, “Về phần ngươi, tức ngươi và dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, phải giữ giao ước Ta. 10 Ðây là giao ước Ta mà các ngươi phải giữ, tức giao ước giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này: Mỗi người nam của các ngươi phải được cắt bì.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 17:1 nt: El Shaddai
  2. Sáng Thế 17:5 Áp-ram nghĩa là tổ phụ cao quý
  3. Sáng Thế 17:5 Áp-ra-ham nghĩa là tổ phụ của nhiều dân tộc
  4. Sáng Thế 17:7 ctd: để Ta làm Thần của ngươi...
  5. Sáng Thế 17:8 ctd: Thần

23 Sau đó Áp-ra-ham tập họp Ích-ma-ên, tất cả những người nam sinh trong trại mình và những người nô lệ ông đã mua. Ngày đó Áp-ra-ham cắt dương bì cho mọi người đàn ông và con trai trong trại mình theo như Thượng Đế đã dặn.

Read full chapter

23 Ngay hôm ấy Áp-ra-ham đem Ích-ma-ên con trai ông, tất cả những người nam sinh ra trong nhà ông, và tất cả những người nam ông bỏ tiền mua về, tức tất cả những người nam trong nhà Áp-ra-ham, làm phép cắt bì, để cắt bỏ phần da bao quy đầu của họ, như Ðức Chúa Trời đã truyền cho ông.

Read full chapter

23 Ai phạm tội thì phải lãnh tiền công của tội lỗi—đó là sự chết. Nhưng quà tặng của Thượng Đế là sự sống đời đời trong Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.

Read full chapter

23 Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Ðức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta.

Read full chapter

Đa-vít cũng đã nói tương tự như thế. Ông bảo rằng ai được hòa thuận với Thượng Đế, nghĩa là được Ngài tha thứ những tội lỗi của mình, thật có phúc.

“Phúc cho người nào được xóa hết tội,
    bao nhiều việc phạm pháp đều được tha thứ.
Phúc cho kẻ mà Chúa không kết tội.” (A)

Read full chapter

Ðó cũng là điều Ða-vít đã nói về phước hạnh của người được Ðức Chúa Trời kể là công chính mà không nhờ cậy vào việc làm,

“Phước cho người được tha những vi phạm mình, được khỏa lấp những tội lỗi mình.
Phước cho người được Chúa không kể tội của mình.”Thi 32:1-2

Read full chapter

Nên xưng tội

Bài mạch-kinh của Đa-vít.

32 Phúc cho người nào mà tội lỗi được tha,
    mọi lầm lỗi được bôi xóa.
Phước cho người mà CHÚA không kết tội
    và trong lòng không có gì giả dối.

Khi tôi im lặng, tôi cảm thấy yếu đuối.
    Tôi rên rỉ suốt ngày.
Ngày và đêm tay CHÚA đè nặng trên tôi.
    Sức lực tôi suy yếu vì sức nóng mùa hè. Xê-la

Rồi tôi xưng tội cùng CHÚA,
    không giấu diếm tội lỗi tôi.
Tôi nói, “Tôi sẽ xưng tội cùng CHÚA,”
    còn Ngài sẽ tha thứ cho tôi. Xê-la

Vì thế những ai vâng lời Ngài
    hãy cầu nguyện trong khi còn có cơ hội.
Để khi khốn khó xảy đến như nước lụt,
    họ sẽ không bị tổn hại gì.
Ngài là nơi trú ẩn của tôi.
Ngài bảo vệ tôi khỏi mọi gian nan
    và khiến lòng tôi đầy dẫy những bài ca cứu rỗi của CHÚA. Xê-la

CHÚA phán, “Ta sẽ khiến con khôn ngoan,
    và sẽ chỉ cho con biết đường phải đi.
Ta sẽ dắt dẫn và trông nom con.
Đừng giống như lừa và ngựa
    vốn không hiểu biết gì.
Người ta phải dùng hàm khớp và dây cương để dắt dẫn,
    nếu không chúng sẽ chẳng chịu đến gần con.”

10 Kẻ ác gặp nhiều nỗi khổ đau
    nhưng tình yêu CHÚA bao phủ những kẻ tin cậy Ngài.
11 Hỡi những người nhân đức,
    hãy hớn hở vui mừng trong CHÚA.
Còn những ai có lòng ngay thẳng,
    hãy ca hát lên.

Phước của Người Ðược Tha Thứ và Tin Cậy CHÚA

Giáo huấn ca của Ða-vít

Phước cho người được tha những vi phạm mình,
Ðược khỏa lấp những tội lỗi mình!
Phước cho người được Chúa không kể tội của mình,
Và trong lòng không có điều chi gian dối!

Khi con cố nín lặng, các xương cốt con vẫn bị tiêu hao,
Bởi con phải rên rỉ suốt ngày;
Vì cả ngày lẫn đêm tay Ngài đè nặng trên con;
Sức sống con cạn dần như gặp hơi nóng mùa hè. (Sê-la)

Con nhìn nhận những tội lỗi con đã phạm đối với Ngài,
Con chẳng dám giấu giếm các tội lỗi mình;
Con nói, “Con sẽ xưng nhận các vi phạm con với Chúa,”
Và Ngài đã tha thứ các lỗi lầm vi phạm của con. (Sê-la)

Vì vậy mong mọi người có lòng tin kính hãy cầu nguyện với Ngài khi còn có thể tìm được Ngài,
Hầu khi những dòng nước lũ ào ạt tràn đến, chúng sẽ không tới gần họ.

Ngài là nơi ẩn náu của con;
Ngài gìn giữ con khỏi bị hoạn nạn;
Ngài bao quanh con bằng những bài ca giải cứu. (Sê-la)

Ta sẽ dạy bảo ngươi và chỉ cho ngươi con đường phải đi;
Mắt Ta hằng ở với ngươi để hướng dẫn ngươi.
Ðừng như con ngựa hoặc con la là loài không thông sáng,
Ngươi phải dùng hàm khớp và dây cương để điều khiển chúng,
Bằng không, chúng chẳng vâng lời[a] ngươi.

10 Kẻ ác gặp nhiều đau khổ,
Nhưng tình thương của Chúa bao bọc người tin cậy Ngài.
11 Hỡi người ngay lành, hãy vui vẻ và hân hoan trong Chúa!
Hỡi mọi người có lòng ngay thẳng, hãy cất tiếng reo mừng!

Footnotes

  1. Thánh Thi 32:9 nt: đến gần

Đa-vít phạm tội với Bát-Sê-ba

11 Vào mùa xuân khi các vua thường ra tranh chiến nhau, thì Đa-vít phái Giô-áp, các tôi tớ ông, và toàn quân Ít-ra-en ra trận. Họ tiêu diệt dân Am-môn và tấn công thành Ráp-ba.

Còn Đa-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem. Một buổi chiều nọ vua ngồi dậy khỏi giường và đi dạo trên nóc đền vua. Trong khi đang dạo trên nóc thì vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng rất đẹp. Nên Đa-vít sai đầy tớ hỏi xem nàng là ai. Một đầy tớ trả lời, “Người đàn bà đó là Bát-Sê-ba, con gái Ê-li-am. Nàng là vợ U-ri người Hê-tít.”

Đa-vít liền cho người mang Bát-Sê-ba vào gặp mình. Khi nàng đến cùng vua thì vua ăn nằm cùng nàng. Lúc đó Bát-Sê-ba đã tẩy sạch kinh nguyệt. Rồi nàng trở về nhà mình. Nhưng Bát-Sê-ba có thai và sai nhắn với Đa-vít, “Tôi có thai.”

Đa-vít tìm cách che giấu tội mình

Vì thế Đa-vít ra lệnh cho Giô-áp: “Hãy gởi U-ri, người Hê-tít, về với ta.”

Giô-áp liền gởi U-ri về với Đa-vít. Khi U-ri vào gặp vua thì Đa-vít hỏi thăm về Giô-áp, các binh sĩ về tình hình chiến cuộc ra sao. Rồi Đa-vít bảo U-ri, “Thôi anh về nhà nghỉ ngơi [a] đi.”

U-ri rời cung vua, và nhà vua gởi biếu ông một món quà. Nhưng U-ri không về nhà. Ông ngủ ở ngoài cửa cung vua như tất cả các sĩ quan hoàng gia khác. 10 Các sĩ quan báo cáo với Đa-vít, “U-ri không có về nhà.” Đa-vít liền hỏi U-ri, “Anh từ xa đi về. Sao anh không đi về nhà?”

11 U-ri thưa, “Rương Giao Ước và các chiến sĩ Ít-ra-en và Giu-đa đang ở trong lều. Chủ tôi là Giô-áp cùng các sĩ quan đang trú ngoài mặt trận mà tôi đi về ăn uống, rồi ngủ với vợ thì không phải lẽ tí nào! Tôi xin thề với vua là tôi sẽ không đời nào làm như thế.”

12 Đa-vít bảo U-ri, “Anh ở đây hôm nay đi. Ngày mai ta sẽ gởi anh ra mặt trận.” Vậy U-ri ở lại Giê-ru-sa-lem hôm đó và hôm sau. 13 Rồi Đa-vít gọi U-ri vào gặp mình. U-ri vào và ăn uống với vua. Đa-vít phục rượu cho U-ri say nhưng U-ri cũng không chịu về nhà. Đêm hôm đó U-ri vẫn ngủ với các sĩ quan của vua.

Đa-vít âm mưu giết U-ri

14 Sáng hôm sau Đa-vít viết một bức thư cho Giô-áp nhờ U-ri mang đi. 15 Trong thư Đa-vít dặn, “Hãy đặt U-ri nơi tiền tuyến chỗ đánh nhau nguy hiểm nhất rồi rút binh ra, để hắn lại một mình. Để hắn bị bỏ xác nơi mặt trận.”

16 Giô-áp quan sát thành phố và xem chỗ nào địch quân mạnh nhất liền đặt U-ri ở đó. 17 Khi quân trong thành đổ ra đánh nhau với Giô-áp thì một số binh sĩ của Đa-vít bị giết. U-ri người Hê-tít cũng chết trong toán đó.

18 Rồi Giô-áp gởi bản báo cáo toàn bộ cuộc chiến về cho Đa-vít. 19 Giô-áp dặn sứ giả, “Hãy tường thuật chi tiết cuộc chiến cho vua Đa-vít nghe. 20 Khi tường thuật xong, nếu vua nổi giận và hỏi, ‘Sao các ngươi tiến gần quá thành để tấn công như thế? Các ngươi không biết là địch quân có thể bắn tên xuống từ vách thành sao? 21 Các ngươi có nhớ ai giết A-bi-mê-léc, con trai Giê-rúp Bê-sết không? Một người đàn bà trên vách thành. Người đó ném cái cối đá lên đầu A-bi-mê-léc, giết người chết ở Thê-be. Sao các ngươi tiến sát thành quá như thế?’ Nếu vua Đa-vít hỏi như vậy thì tiếp, ‘Kẻ tôi tớ vua, U-ri, người Hê-tít cũng bị giết nữa.’”

22 Sứ giả về gặp Đa-vít và thuật cho vua nghe những gì Giô-áp dặn mình. 23 Sứ giả kể với Đa-vít, “Quân Am-môn đang thắng thế. Chúng đổ ra tấn công chúng tôi trong ruộng nhưng chúng tôi đánh bạt chúng trở lại nơi cửa thành. 24 Các lính cầm cung bắn tên xuống các tôi tớ vua, một vài người bị chết. Tôi tớ vua là U-ri cũng chết nữa.”

25 Đa-vít bảo sứ giả, “Nói với Giô-áp như sau: ‘Đừng quá bực mình về chuyện nầy. Gươm giáo đâu có mắt. Hãy mở cuộc tấn công mãnh liệt hơn và chiếm thành đi.’ Hãy giục Giô-áp như thế.”

Đa-vít lấy Bát-sê-ba

26 Khi vợ U-ri nghe tin chồng mình tử trận, liền than khóc. 27 Sau khi mãn tang chồng thì Đa-vít sai người mang nàng vào cung với mình. Nàng trở thành vợ Đa-vít và sinh cho vua một con trai, nhưng Thượng Đế không bằng lòng điều Đa-vít làm.

Con trai Đa-vít chết

12 CHÚA sai Na-than đến gặp Đa-vít. Khi gặp Đa-vít ông bảo, “Có hai người cùng ở trong một thành phố nọ. Một người giàu, một người nghèo. Người giàu có rất nhiều chiên và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả ngoại trừ một con chiên con mình mua. Người nhà nghèo nuôi con chiên, nó lớn cùng với người và các con của người. Nó ăn đồ ăn và uống chung ly chén với người và ngủ trong lòng người. Con chiên được xem như con gái của người vậy.

Có một lữ khách ghé thăm người giàu. Người giàu muốn tiếp đãi lữ khách nhưng không muốn bắt chiên hay bò của mình nên bắt con chiên người nhà nghèo làm thịt đãi khách.”

Đa-vít nổi giận cùng người giàu. Ông bảo Na-than, “Tôi chỉ CHÚA hằng sống mà thề, tên nào làm chuyện đó phải chết! Nó phải đền bốn lần giá con chiên vì làm chuyện bậy như thế. Nó chẳng có lòng nhân ái gì cả!”

Na-than vạch tội Đa-vít ra

Na-than liền bảo Đa-vít, “Vua là người đó chứ ai? Đây là điều CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: ‘Ta đã chọn [b] ngươi làm vua Ít-ra-en và giải cứu ngươi khỏi Sau-lơ. Ta đã trao nước và các vợ người vào tay ngươi. Ta đã đặt ngươi làm vua trên Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu như thế chưa đủ, ta có thể cho ngươi thêm nữa. Vậy tại sao ngươi coi thường mệnh lệnh của CHÚA? Tại sao ngươi làm điều bậy? Ngươi nhờ gươm của quân Am-môn giết U-ri người Hê-tít và lấy vợ nó làm vợ mình! 10 Bây giờ đây trong nhà ngươi sẽ có người chết vì gươm vì ngươi không tôn kính ta; ngươi đoạt vợ của U-ri người Hê-tít cho mình!’

11 CHÚA phán: Ta sẽ mang khốn khổ đến cho ngươi từ trong gia đình ngươi. Ta sẽ bắt các vợ ngươi mà trao cho người rất gần ngươi ngay trước mắt ngươi. Nó sẽ ăn nằm với các vợ ngươi và mọi người sẽ biết chuyện đó [c]. 12 Ngươi thầm lén ăn nằm với Bát-Sê-ba nhưng ta sẽ làm điều nầy giữa thanh thiên bạch nhật để tất cả Ít-ra-en đều thấy.”

13 Đa-vít liền thú tội với Na-than, “Tôi đã phạm tội cùng CHÚA.”

Na-than đáp, “CHÚA cũng đã tha tội vua. Vua sẽ không chết. 14 Nhưng điều vua làm khiến các kẻ thù của CHÚA không kính sợ Ngài nữa. Vì lý do đó đứa con trai sinh cho vua sẽ phải chết.”

Con của Đa-vít và Bát-sê-ba chết

15 Rồi Na-than đi về nhà. CHÚA khiến cho đứa con của Đa-vít và vợ của U-ri mắc bệnh nặng. 16 Đa-vít cầu khẩn Thượng Đế cho đứa bé. Ông không chịu ăn uống gì. Ông đi về nhà và ở đó, suốt đêm nằm dưới đất.

17 Các người lớn tuổi trong gia đình Đa-vít đến tìm cách đỡ vua dậy nhưng vua từ chối, và cũng không chịu ăn chung với họ. 18 Đến ngày thứ bảy thì đứa bé chết. Các đầy tớ Đa-vít sợ không dám báo tin đó cho Đa-vít. Họ bảo, “Lúc đứa bé còn sống chúng ta tìm cách khuyên nhủ vua nhưng vua không nghe. Bây giờ nó chết rồi, nếu chúng ta cho vua biết, vua còn làm chuyện tệ hơn nữa.”

19 Khi thấy các đầy tớ thì thầm với nhau thì Đa-vít biết đứa bé đã chết nên ông liền hỏi, “Đứa bé chết rồi phải không?”

Họ đáp, “Dạ phải, nó chết rồi.”

20 Đa-vít liền đứng dậy khỏi đất, tắm rửa, xức dầu thơm, và thay quần áo. Rồi vua vào trong nhà CHÚA để thờ lạy. Sau đó vua về nhà kiếm món gì để ăn. Các đầy tớ vua mang thức ăn đến và vua ăn.

21 Các đầy tớ vua hỏi, “Tại sao vua làm gì kỳ vậy. Khi đứa bé còn sống, vua không chịu ăn và than khóc. Bây giờ nó chết rồi thì vua ngồi dậy ăn.”

22 Đa-vít trả lời, “Trong khi nó còn sống ta không chịu ăn và than khóc vì ta nghĩ, ‘Biết đâu CHÚA sẽ thương hại ta mà để cho nó sống.’ 23 Nhưng bây giờ nó chết rồi thì ta cữ ăn làm gì? Ta đâu có thể làm cho nó sống lại được? Trong tương lai ta sẽ đi đến cùng nó, nhưng nó đâu có trở lại cùng ta.”

Sô-lô-môn ra đời

24 Đa-vít an ủi Bát-Sê-ba, vợ mình. Vua ăn nằm cùng nàng. Nàng thụ thai nữa và sanh một con trai khác, Đa-vít đặt tên là Sô-lô-môn. CHÚA yêu thương Sô-lô-môn. 25 CHÚA sai Na-than, nhà tiên tri, dặn phải đặt tên nó là Giê-đi-đia [d], vì CHÚA yêu thích nó.

Đa-vít chiếm thành Ráp-ba

26 Giô-áp đánh thành Ráp-ba, một kinh đô của Am-môn, và sắp sửa chiếm nó. 27 Giô-áp sai người đến báo với Đa-vít rằng, “Tôi đã đánh Ráp-ba và chiếm nguồn cung cấp nước của thành đó. 28 Vậy bây giờ xin mang hết binh sĩ còn lại xuống tấn công thành nầy. Hãy chiếm thành đó trước khi tôi chiếm để lập công cho tôi.”

29 Vậy Đa-vít triệu tập toàn lực lượng và đi xuống thành Ráp-ba, tấn công và chiếm lấy nó. 30 Đa-vít lấy mão triều của vua Ráp-ba [e] đội trên đầu mình. Mão triều đó nặng khoảng bảy mươi lăm cân [f], có cẩn nhiều ngọc quý trên đó. Đa-vít cũng chiếm lấy nhiều món đồ quí giá của thành phố.

31 Vua cũng bắt dân cư trong thành đó làm công việc bằng cưa, cuốc, và rìu. Vua cũng bắt chúng xây nhà bằng gạch. Đa-vít làm như thế cho tất cả các thành Am-môn. Rồi Đa-vít và toàn quân trở về Giê-ru-sa-lem.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 11:8 nghỉ ngơi Nguyên văn, “rửa chân.”
  2. II Sa-mu-ên 12:7 chọn Nguyên văn, “xức dầu.” Xem từ ngữ nầy trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  3. II Sa-mu-ên 12:11 mọi người sẽ biết chuyện đó Nguyên văn, “giữa thanh thiên bạch nhật.”
  4. II Sa-mu-ên 12:25 Giê-đi-đia Nghĩa là “được Chúa yêu thích.”
  5. II Sa-mu-ên 12:30 mão triều của vua Ráp-ba Hay “mão triều của Minh-côm.” Minh-côm là một thần giả mà dân Am-môn tôn thờ.
  6. II Sa-mu-ên 12:30 bảy mươi lăm cân Nguyên văn, “một ta-lâng” (khoảng 35 kí-lô).

Ða-vít Phạm Tội Tà Dâm và Sát Nhân

11 Sau việc đó mùa xuân năm mới đến, khi các vua thường xuất quân ra trận, Ða-vít sai Giô-áp và các tướng sĩ của ông dẫn toàn quân I-sơ-ra-ên đi chinh chiến. Họ đánh bại dân Am-môn và bao vây thành Ráp-ba. Trong khi đó Ða-vít vẫn ở tại Giê-ru-sa-lem. Một buổi chiều kia Ða-vít trỗi dậy khỏi giường và đi bách bộ trên sân thượng của cung điện. Từ trên sân thượng ông nhìn thấy một phụ nữ đang tắm. Ðó là một phụ nữ rất đẹp. Ða-vít sai người tìm hiểu về bà và người ấy bảo, “Bà đó chẳng phải là Bát-sê-ba con gái của Ê-li-am và cũng là vợ của U-ri-a người Hít-ti sao?” Ða-vít sai các thuộc hạ đến bắt bà. Bà đến với vua và vua nằm với bà –Vả, lúc ấy bà vừa mới thanh tẩy sau thời kỳ kinh nguyệt xong– Sau đó bà trở về nhà bà. Bà ấy thụ thai. Bà nhắn tin cho Ða-vít hay rằng, “Tôi đã có thai.”

Bấy giờ Ða-vít sai ngươi đem tin cho Giô-áp rằng, “Hãy bảo U-ri-a người Hít-ti về gặp ta.” Vậy Giô-áp sai U-ri-a về với Ða-vít. Khi U-ri-a về gặp Ða-vít, Ða-vít hỏi ông tin tức về Giô-áp, về tình trạng các binh sĩ, và về tình hình chiến sự. Sau đó Ða-vít nói với ông, “Ngươi hãy đi xuống nhà ngươi, tắm rửa và nghỉ ngơi[a] đi.” U-ri-a rời khỏi cung vua, và vua cho người bưng một mâm thức ăn làm quà đến biếu ông. Nhưng U-ri-a ngủ tại cửa hoàng cung với tất cả các tôi tớ của chúa thượng ông mà không đi xuống nhà ông. 10 Người ta báo cho Ða-vít hay rằng, “U-ri-a không đi xuống nhà ông ấy.” Ða-vít nói với U-ri-a, “Ngươi há chẳng phải đi đường xa mới về sao? Tại sao ngươi không đi xuống nhà ngươi mà nghỉ?”

11 U-ri-a trả lời với Ða-vít, “Rương thánh, quân đội I-sơ-ra-ên, và quân đội Giu-đa đang ở trong các lều ngoài mặt trận; chủ tướng tôi là Giô-áp và các tôi tớ của chúa thượng đang hạ trại ngoài đồng trống, lẽ nào tôi lại vào nhà tôi mà ăn, uống, và nằm với vợ tôi sao? Tôi chỉ sinh mạng của vua mà thề rằng tôi sẽ không bao giờ làm như thế.”

12 Ða-vít nói, “Vậy hôm nay ngươi cứ ở lại đây, rồi ngày mai ta sẽ cho ngươi đi.” Vậy U-ri-a ở lại Giê-ru-sa-lem ngày hôm đó và hôm sau. 13 Ða-vít cho mời ông đến. Ông ăn và uống với vua. Vua ép ông uống rượu đến say khướt. Nhưng tối đến ông đi ra nằm trên giường của ông với các tôi tớ của chúa thượng ông, chứ không đi xuống nhà ông. 14 Ðến sáng hôm sau, Ða-vít viết một bức thư gởi cho Giô-áp và bảo U-ri-a đích thân mang đi. 15 Trong thư ông viết, “Hãy sắp đặt cho U-ri-a ở hàng đầu, chỗ trận chiến nóng bỏng nhất, rồi rút lui, để ông ấy bị kẹt lại, hầu địch quân sẽ đánh cho tử trận.”

16 Vậy khi Giô-áp công thành, ông sắp đặt U-ri-a ở vị trí mà ông biết những kẻ dũng cảm nhất của địch quân đang tử thủ. 17 Vậy quân trong thành đi ra giao chiến với quân của Giô-áp. Một vài binh sĩ trong số các tôi tớ của Ða-vít tử trận, và U-ri-a người Hít-ti cũng tử trận. 18 Ðoạn Giô-áp sai sứ giả báo tin cho Ða-vít biết mọi việc về tình hình chiến sự 19 và dặn sứ giả rằng, “Sau khi ngươi báo cáo cho vua về tình hình chiến sự, 20 nếu vua nổi giận mà quở trách, ‘Tại sao khi giao chiến mà các ngươi lại tiến sát vào thành như thế? Các ngươi há không biết rằng từ trên tường thành chúng có thể bắn tên xuống hay sao? 21 Ai đã giết chết A-bi-mê-léc con trai Giê-ru-bê-sết?[b] Há chẳng phải là một người đàn bà đã lấy một khối đá cối xay từ trên tường thành ném xuống trúng đầu ông ấy, và ông ấy đã chết tại Thê-bê hay sao? Tại sao các ngươi lại tiến sát vào tường thành như thế?’ Bấy giờ ngươi hãy nói, ‘Tôi tớ của chúa thượng là U-ri-a người Hít-ti cũng đã tử trận.’”

22 Vậy sứ giả ấy đi và báo cáo cho Ða-vít mọi điều Giô-áp đã sai bảo mình. 23 Sứ giả ấy tâu với Ða-vít, “Lúc đầu địch quân có vẻ mạnh hơn chúng ta. Chúng kéo ra giao tranh với chúng tôi ngoài đồng trống, nhưng chúng tôi đánh bật lại và khiến chúng phải rút lui về tận cổng thành. 24 Quân xạ tiển của địch từ trên thành bắn xuống các tôi tớ chúa thượng. Một vài người trong số các tôi tớ chúa thượng đã tử trận, và tôi tớ chúa thượng là U-ri-a người Hít-ti cũng đã tử trận.”

25 Bấy giờ Ða-vít nói với sứ giả, “Ngươi hãy nói với Giô-áp thế nầy, ‘Ðừng để việc ấy làm bận tâm. Gươm đao thì khi chém trúng người nầy, khi chém trúng người khác. Hãy mạnh mẽ lên mà công thành và lật đổ nó.’ Ngươi hãy khích lệ ông ấy như vậy.”

26 Khi vợ của U-ri-a nghe tin U-ri-a chồng bà đã tử trận, bà để tang than khóc chồng. 27 Khi thời kỳ thọ tang than khóc đã xong, Ða-vít sai người đến rước bà vào cung. Bà trở thành vợ ông và sinh cho ông một con trai. Nhưng điều Ða-vít đã làm đó không đẹp lòng Chúa.

Tiên Tri Nathan và Vua Ða-vít

12 Bấy giờ Chúa sai Na-than đến với Ða-vít. Ông đến gặp vua và nói với vua: “Trong thành kia có hai người; một người giàu và một người nghèo. Người giàu có rất nhiều bầy chiên và bầy bò. Nhưng người nghèo chẳng có gì cả ngoại trừ một con chiên cái nhỏ mà ông đã mua về và nuôi nó. Nó lớn lên với ông và các con ông. Nó ăn thực phẩm của ông, uống trong chén của ông, và nằm trong lòng ông. Nó giống như con gái của ông. Một ngày kia người giàu có một người khách từ xa đến thăm. Ông ấy tiếc của, nên không bắt một con trong các bầy chiên hay bầy bò của mình để làm thịt đãi khách từ xa đến, nhưng ông lại bắt con chiên của người nghèo làm thịt để thết đãi người đến thăm ông.”

Ða-vít bừng bừng nổi giận người giàu ấy và nói với Na-than, “Có Chúa Hằng Sống chứng giám, kẻ làm như thế thật đáng chết! Hắn phải đền lại gấp tư cho con chiên đã bị giết, bởi vì hắn đã làm điều ấy, và vì hắn không có lòng thương xót.”

Bấy giờ Na-than nói với Ða-vít, “Ngài chính là người đó! Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy: ‘Ta đã xức dầu cho ngươi làm vua trên I-sơ-ra-ên và giải cứu ngươi khỏi tay Sau-lơ. Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi. Ta cũng ban những người vợ của chủ ngươi vào lòng ngươi. Ta đã ban cho ngươi cả nhà I-sơ-ra-ên lẫn nhà Giu-đa. Nếu như thế mà vẫn chưa đủ, Ta sẽ ban cho ngươi thêm nữa! Tại sao ngươi khinh thường Lời Chúa mà làm điều ác trước mắt Ngài? Ngươi đã dùng gươm giết U-ri-a người Hít-ti. Ngươi đã cướp vợ nó làm vợ ngươi. Ngươi đã mượn gươm của dân Am-môn giết nó. 10 Vậy bây giờ, nạn gươm đao sẽ không lìa khỏi nhà ngươi, vì ngươi đã khinh thường Ta và đã lấy vợ của U-ri-a người Hít-ti làm vợ ngươi.’

11 Chúa phán thế nầy: Nầy, Ta sẽ dấy lên kẻ chống nghịch ngươi ngay từ trong nhà ngươi. Ta sẽ lấy các vợ của ngươi trao cho kẻ lân cận ngươi ngay trước mắt ngươi. Nó sẽ ăn nằm với các vợ ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. 12 Ngươi đã làm điều đó một cách ám muội, nhưng Ta sẽ cho thực hiện điều ấy trước mắt dân I-sơ-ra-ên giữa thanh thiên bạch nhật.”

13 Bấy giờ Ða-vít thú nhận với Na-than, “Tôi đã phạm tội với Chúa.”

Na-than nói, “Chúa cũng bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không chết vì tội nầy. 14 Tuy nhiên vì việc nầy, ngài đã tạo cơ hội cho những kẻ thù của Chúa có lý do để nói những lời xúc phạm đến Chúa, vì thế đứa trẻ sinh cho ngài chắc chắn sẽ chết.” 15 Sau đó Na-than cáo lui và trở về nhà ông.

Con của Bát-sê-ba và Ða-vít Chết

Chúa đánh đứa trẻ mà vợ của U-ri-a sinh cho Ða-vít, nên nó bị bịnh nặng. 16 Do đó Ða-vít tha thiết van xin Ðức Chúa Trời cho đứa trẻ được sống. Ða-vít kiêng ăn, đi vào, và nằm dưới đất suốt đêm. 17 Các vị lão quan trong triều[c] đứng dậy đến gặp ông. Họ khuyên ông nên trỗi dậy khỏi mặt đất, nhưng ông không nghe lời khuyên của họ và cũng không chịu ăn gì với họ. 18 Ðến ngày thứ bảy, đứa trẻ qua đời. Quần thần của Ða-vít sợ, không ai dám báo tin cho ông hay rằng đứa trẻ đã chết, vì họ nghĩ, “Nầy, khi đứa trẻ còn sống, chúng ta khuyên vua mà vua không nghe chúng ta. Bây giờ đứa trẻ đã chết, làm sao chúng ta có thể nói cho vua hay được? Biết đâu vua sẽ làm điều gì bất trắc để hại chính mình thì sao?”

19 Khi Ða-vít thấy quần thần của ông cứ thì thầm với nhau, Ða-vít đoán rằng đứa trẻ đã qua đời, nên Ða-vít hỏi quần thần của ông, “Ðứa trẻ đã chết rồi phải không?”

Họ đáp, “Thưa, cháu đã qua đời.”

20 Bấy giờ Ða-vít trỗi dậy khỏi mặt đất, tắm rửa, xức dầu, và thay quần áo; kế đó ông đi vào nhà Chúa, sấp mình xuống, và thờ phượng. Ðoạn ông trở về nhà ông. Ông bảo người ta mang thức ăn đến. Họ dọn thức ăn ra cho ông, và ông ăn uống trở lại.

21 Quần thần của ông hỏi ông, “Ngài làm gì vậy? Khi đứa trẻ còn sống thì ngài kiêng ăn và khóc lóc, nhưng bây giờ đứa trẻ đã chết rồi, ngài lại trỗi dậy và ăn uống!”

22 Ông đáp, “Khi đứa trẻ còn sống, ta kiêng ăn và khóc lóc, vì ta nghĩ rằng, ‘Biết đâu Chúa sẽ thương xót ta mà cho đứa trẻ được sống chăng?’ 23 Nhưng bây giờ nó đã chết rồi, ta còn phải kiêng ăn làm gì? Ta há có thể làm cho nó sống lại được sao? Ta sẽ đi về với nó, chứ nó sẽ không trở về với ta.”

Sa-lô-môn Chào Ðời

24 Ða-vít an ủi Bát-sê-ba vợ ông. Ông đến với bà và nằm với bà. Bà sinh cho ông một con trai. Ông đặt tên cho nó là Sa-lô-môn. Chúa thương yêu đứa trẻ. 25 Ngài sai Tiên Tri Na-than đến nói cho ông biết điều đó. Ông gọi nó là Giê-đi-đi-gia,[d]Chúa thương yêu nó.

Thành Ráp-ba Bị Ðánh Hạ

(1 Sử 20:1-3)

26 Lúc ấy Giô-áp đang tấn công Thành Ráp-ba của dân Am-môn và sắp chiếm được kinh đô của họ. 27 Giô-áp sai các sứ giả đến báo tin cho Ða-vít, “Tôi đang tấn công Thành Ráp-ba và đã chiếm được nguồn cung cấp nước của thành. 28 Vậy bây giờ xin ngài tập họp quân đội, dẫn đến hạ trại trước cổng thành, và chiếm lấy nó, kẻo tôi sẽ vào chiếm lấy thành và công ấy sẽ thuộc về tôi chăng.”[e]

29 Vậy Ða-vít tập họp toàn quân lại và tiến đến Ráp-ba. Ông tấn công nó và chiếm được nó. 30 Ông lấy chiếc vương miện trên đầu của vua thành ấy. Vương miện ấy làm bằng ba mươi bốn ký-lô[f] vàng và khảm đầy ngọc quý. Người ta đội nó lên đầu Ða-vít. Ông cũng lấy và đem đi khỏi thành ấy rất nhiều chiến lợi phẩm. 31 Còn dân trong thành, ông bắt họ đem đi làm lao dịch như cưa gỗ, cày bừa, đốn cây, và đúc gạch. Ông bắt dân trong tất cả các thành của dân Am-môn phải làm lao dịch như vậy. Sau đó ông và đội quân đi viễn chinh với ông trở về Giê-ru-sa-lem.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 11:8 nt: rửa chân
  2. II Sa-mu-ên 11:21 Giê-ru-ba-anh tức là Ghi-đê-ôn (Thủ 6:32)
  3. II Sa-mu-ên 12:17 nt: các vị trưởng lão trong nhà
  4. II Sa-mu-ên 12:25 Nghĩa là “Người được Chúa thương.”
  5. II Sa-mu-ên 12:28 ctd: kẻo thành ấy sẽ mang tên tôi chăng
  6. II Sa-mu-ên 12:30 nt: cân nặng một ta-lâng

Nên xưng tội

Bài mạch-kinh của Đa-vít.

32 Phúc cho người nào mà tội lỗi được tha,
    mọi lầm lỗi được bôi xóa.
Phước cho người mà CHÚA không kết tội
    và trong lòng không có gì giả dối.

Khi tôi im lặng, tôi cảm thấy yếu đuối.
    Tôi rên rỉ suốt ngày.
Ngày và đêm tay CHÚA đè nặng trên tôi.
    Sức lực tôi suy yếu vì sức nóng mùa hè. Xê-la

Rồi tôi xưng tội cùng CHÚA,
    không giấu diếm tội lỗi tôi.
Tôi nói, “Tôi sẽ xưng tội cùng CHÚA,”
    còn Ngài sẽ tha thứ cho tôi. Xê-la

Vì thế những ai vâng lời Ngài
    hãy cầu nguyện trong khi còn có cơ hội.
Để khi khốn khó xảy đến như nước lụt,
    họ sẽ không bị tổn hại gì.
Ngài là nơi trú ẩn của tôi.
Ngài bảo vệ tôi khỏi mọi gian nan
    và khiến lòng tôi đầy dẫy những bài ca cứu rỗi của CHÚA. Xê-la

CHÚA phán, “Ta sẽ khiến con khôn ngoan,
    và sẽ chỉ cho con biết đường phải đi.
Ta sẽ dắt dẫn và trông nom con.
Đừng giống như lừa và ngựa
    vốn không hiểu biết gì.
Người ta phải dùng hàm khớp và dây cương để dắt dẫn,
    nếu không chúng sẽ chẳng chịu đến gần con.”

10 Kẻ ác gặp nhiều nỗi khổ đau
    nhưng tình yêu CHÚA bao phủ những kẻ tin cậy Ngài.
11 Hỡi những người nhân đức,
    hãy hớn hở vui mừng trong CHÚA.
Còn những ai có lòng ngay thẳng,
    hãy ca hát lên.

Phước của Người Ðược Tha Thứ và Tin Cậy CHÚA

Giáo huấn ca của Ða-vít

Phước cho người được tha những vi phạm mình,
Ðược khỏa lấp những tội lỗi mình!
Phước cho người được Chúa không kể tội của mình,
Và trong lòng không có điều chi gian dối!

Khi con cố nín lặng, các xương cốt con vẫn bị tiêu hao,
Bởi con phải rên rỉ suốt ngày;
Vì cả ngày lẫn đêm tay Ngài đè nặng trên con;
Sức sống con cạn dần như gặp hơi nóng mùa hè. (Sê-la)

Con nhìn nhận những tội lỗi con đã phạm đối với Ngài,
Con chẳng dám giấu giếm các tội lỗi mình;
Con nói, “Con sẽ xưng nhận các vi phạm con với Chúa,”
Và Ngài đã tha thứ các lỗi lầm vi phạm của con. (Sê-la)

Vì vậy mong mọi người có lòng tin kính hãy cầu nguyện với Ngài khi còn có thể tìm được Ngài,
Hầu khi những dòng nước lũ ào ạt tràn đến, chúng sẽ không tới gần họ.

Ngài là nơi ẩn náu của con;
Ngài gìn giữ con khỏi bị hoạn nạn;
Ngài bao quanh con bằng những bài ca giải cứu. (Sê-la)

Ta sẽ dạy bảo ngươi và chỉ cho ngươi con đường phải đi;
Mắt Ta hằng ở với ngươi để hướng dẫn ngươi.
Ðừng như con ngựa hoặc con la là loài không thông sáng,
Ngươi phải dùng hàm khớp và dây cương để điều khiển chúng,
Bằng không, chúng chẳng vâng lời[a] ngươi.

10 Kẻ ác gặp nhiều đau khổ,
Nhưng tình thương của Chúa bao bọc người tin cậy Ngài.
11 Hỡi người ngay lành, hãy vui vẻ và hân hoan trong Chúa!
Hỡi mọi người có lòng ngay thẳng, hãy cất tiếng reo mừng!

Footnotes

  1. Thánh Thi 32:9 nt: đến gần

Lời cầu nguyện xin Chúa tha thứ

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít soạn khi nhà tiên tri Na-than khiển trách ông sau khi ông phạm tội với Bát-sê-ba.

51 Thượng Đế ôi, xin hãy đối nhân từ cùng tôi vì Ngài là Đấng thành tín.
    Xin hãy xoá sạch các sai lầm tôi
    vì Ngài là Đấng vị tha.
Xin hãy rửa tội lỗi tôi
    và làm cho tôi tinh sạch trở lại.
Tôi biết các sai lầm tôi,
    tôi không bao giờ quên chúng được.
Tôi đã phạm tội với riêng Chúa;
    làm điều Chúa ngăn cấm.
Ngài rất công minh khi phán xử,
    và phán quyết Ngài dành cho tôi rất công bằng.
Tôi chào đời trong vi phạm.
    Mẹ tôi sinh tôi ra trong tội lỗi.
Chúa muốn tôi hoàn toàn chân thật,
    nên xin hãy dạy tôi khôn ngoan.
Xin cất lấy tội lỗi tôi thì tôi sẽ tinh sạch [a].
    Hãy rửa tôi thì tôi sẽ trắng
    hơn tuyết.
Xin cho tôi nghe tiếng mừng rỡ
    và hân hoan;
Xin hãy làm cho các xương cốt tôi mà Chúa đã bẻ gãy được vui sướng trở lại.
Xin hãy ngoảnh mặt làm ngơ khỏi các tội lỗi tôi
    và lau sạch mọi gian ác tôi.
10 Lạy Thượng Đế, xin hãy tạo
    một tấm lòng trong sạch
    trong tôi và chỉnh đốn tâm linh tôi lại.
11 Xin đừng đuổi tôi đi khỏi mặt Ngài
    hay cất Thánh Linh Ngài
    ra khỏi tôi.
12 Xin hãy ban lại cho tôi niềm vui vẻ về sự cứu rỗi Chúa.
    Xin giữ tôi vững mạnh qua ý muốn sẵn lòng.
13 Rồi tôi sẽ dạy đường lối Ngài cho những kẻ làm quấy,
    và tội nhân sẽ quay về cùng Ngài.
14 Lạy Chúa là Thượng Đế của sự cứu rỗi tôi,
    xin giải cứu tôi khỏi tội giết người [b],
    rồi tôi sẽ hát ngợi ca sự nhân từ Ngài.
15 Lạy Chúa, xin cho phép tôi nói
    để tôi ca ngợi Ngài.
16 Chúa không thích của lễ,
    nếu không thì tôi đã dâng.
    Ngài không màng của lễ thiêu.
17 Của lễ đẹp lòng Ngài là tấm lòng tan vỡ.
Lạy Thượng Đế, Ngài không gạt bỏ
    tấm lòng tan vỡ và hối hận.

18 Xin Chúa hãy làm điều tốt lành
    cho Giê-ru-sa-lem theo ý muốn Ngài.
Xin hãy xây lại vách thành Giê-ru-sa-lem
19 rồi Chúa sẽ vui lòng nhận sinh tế [c] và của lễ toàn thiêu,
    và người ta sẽ dâng bò đực trên bàn thờ Ngài.

Footnotes

  1. Thánh Thi 51:7 Xin cất lấy … sẽ tinh sạch Nguyên văn, “Xin lấy nhành kinh giới tẩy sạch tội lỗi tôi.” Xem “kinh giới” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  2. Thánh Thi 51:14 xin giải cứu … giết người Hay “xin tha chết cho tôi.”
  3. Thánh Thi 51:19 Chúa sẽ … sinh tế Hay “của lễ công chính thì Chúa vui lòng nhận.”

Cầu Xin Chúa Tha Thứ

Lời Cầu Nguyện của Người Thật Lòng Ăn Năn Sám Hối

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Cảm tác khi Tiên Tri Na-than đến gặp ông,

sau khi ông đã phạm tội với bà Bát-sê-ba

Ðức Chúa Trời ôi, xin thương xót con theo tình thương của Ngài;
Xin xóa bỏ các vi phạm con theo lòng thương xót lớn lao của Ngài.
Xin rửa sạch con khỏi mọi gian ác của con;
Xin tẩy sạch con khỏi mọi tội lỗi của con,
Vì con nhận biết các vi phạm con;
Tội lỗi con hằng ở trước mặt con.

Con đã phạm tội đối với Ngài và chỉ đối với Ngài mà thôi;
Con đã làm điều ác trước mặt Ngài;
Vì thế Ngài thật đúng khi Ngài phán xét;
Khi Ngài tuyên án, con không thể trách Ngài được.
Kìa, vừa mới sinh ra, con đã là người có tội;
Con đã là tội nhân từ lúc con được thụ thai trong lòng mẹ con.
Kìa, Ngài muốn sự thật trong đáy lòng con;
Trong nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn, Ngài dạy con biết lẽ khôn ngoan.
Xin dùng nhánh bài hương tẩy rửa con, để con được sạch;
Xin thanh tẩy con, để con trở nên trắng hơn tuyết.
Xin cho con được hưởng niềm vui và niềm hoan hỉ của người được tha thứ,
Ðể các xương con đã bị Ngài bẻ gãy được vui mừng.
Xin che mặt Ngài để khỏi nhìn thấy các tội lỗi con,
Xin xóa sạch mọi gian ác của con.

10 Ðức Chúa Trời ôi, xin dựng nên trong con một lòng trong sạch,
Và làm mới lại trong con một tâm linh ngay thẳng.
11 Xin đừng quăng con ra khỏi thánh nhan Ngài;
Xin đừng cất Ðức Thánh Linh của Ngài khỏi con.
12 Xin khôi phục cho con niềm vui của ơn cứu rỗi Ngài;
Và xin giữ con luôn có tinh thần đầu phục,
13 Ðể con sẽ chỉ cho những ai vi phạm biết đường lối Ngài,
Rồi những kẻ tội lỗi sẽ quay về với Ngài.

14 Ðức Chúa Trời ôi, xin giải cứu con khỏi tội làm đổ máu,
Lạy Ðức Chúa Trời, Ðấng Giải Cứu của con,
Ðể lưỡi con sẽ vui mừng ca ngợi ơn cứu rỗi[a] của Ngài.

15 Chúa ôi, xin mở môi con,
Ðể miệng con truyền ra những lời ca tụng Ngài,
16 Vì Ngài không vui thích của tế lễ,
Bởi nếu Ngài thích, con đã dâng rồi;
Dù con dâng của lễ thiêu, Ngài cũng chẳng vui lòng.
17 Của lễ đẹp lòng Ðức Chúa Trời là một tâm linh tan vỡ;
Ðức Chúa Trời ôi, một tấm lòng tan vỡ và thống hối Ngài sẽ chẳng khinh thường.

18 Cầu xin Ngài làm điều tốt cho Si-ôn theo ý tốt của Ngài;
Cầu xin Ngài dựng lại các tường thành của Giê-ru-sa-lem.
19 Bấy giờ Ngài sẽ vui lòng về các của lễ dâng lên để được xưng công chính,
Tức các của lễ thiêu và các của lễ toàn thiêu;
Rồi các bò đực tơ sẽ được hiến dâng trên bàn thờ Ngài.

Footnotes

  1. Thánh Thi 51:14 ctd: đức công chính