Add parallel Print Page Options

Dùng Áp-ra-ham làm dẫn chứng

Chúng ta có thể nói Áp-ra-ham, tổ tiên của dân tộc ta, đã học được gì về đức tin? Nếu Áp-ra-ham được hòa thuận với Thượng Đế nhờ những điều ông làm thì ông sẽ có lý do chính đáng để khoe. Nhưng Áp-ra-ham không thể tự khoe trước Thượng Đế. Vì Thánh Kinh viết, “Áp-ra-ham đặt niềm tin nơi Thượng Đế, Ngài chấp nhận niềm tin của ông và niềm tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài.” [a]

Ai làm việc thì lương bổng không thể xem là quà biếu mà là tiền công của mình. Nhưng con người không thể làm cách nào để hòa thuận lại với Thượng Đế được. Nên con người phải trông cậy vào Thượng Đế là Đấng có thể khiến cho kẻ ác hòa thuận lại với Ngài. Thượng Đế sẽ chấp nhận đức tin của họ, nhờ đó họ được hòa thuận lại với Ngài.

Read full chapter

Footnotes

  1. Rô-ma 4:3 Áp-ra-ham … với Ngài Sáng 15:6.

Gương Của Áp-ra-ham

Vậy chúng ta sẽ nói làm sao về việc Áp-ra-ham, tổ chúng ta theo phần xác, ông đã tìm thấy gì? Vì nếu Áp-ra-ham được tuyên xưng công chính bởi việc làm thì người có cớ để khoe khoang; nhưng trước mặt Đức Chúa Trời không có như vậy. Vì Kinh Thánh nói gì? “Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời và vì thế được kể là công chính.”

Đối với người làm việc thì tiền công không được kể là ơn mà phải kể là nợ; còn đối với người không làm nhưng chỉ tin vào Đấng xưng công chính kẻ vô đạo thì đức tin của người ấy được kể là công chính.

Read full chapter

Thượng Đế gọi Áp-ram

12 CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy rời bỏ xứ sở,
    thân nhân và gia đình cha con,
    đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
Ta sẽ làm cho con trở thành một dân lớn
    và sẽ ban phước cho con.
Ta sẽ khiến con nổi danh
    và là nguồn phước cho nhiều người.
Ta sẽ ban phước cho kẻ chúc phước con
    và nguyền rủa kẻ hại con.
Mọi dân tộc trên đất sẽ nhờ con
    mà được phước.”

Áp-ram đi đến vùng Ca-na-an

Vậy Áp-ram rời Ha-ran theo như CHÚA đã dặn bảo, có Lót cùng đi. Lúc đó Áp-ram đã 75 tuổi. Ông mang Sa-rai vợ mình, Lót cháu mình và mọi vật thuộc về mình cùng các đầy tớ ông đã có tại Ha-ran và lên đường ra đi, dự định đến đất Ca-na-an, sau cùng thì tới nơi. Áp-ram đi qua suốt cả xứ đến tận cây sồi lớn Mô-rê thuộc Sê-chem. Lúc đó dân Ca-na-an đang cư ngụ trong xứ nầy.

CHÚA hiện ra [a] cùng Áp-ram và bảo, “Ta sẽ cấp đất nầy cho dòng dõi con.” Vì thế tại đó, Áp-ram xây một bàn thờ cho CHÚA, Đấng đã hiện ra cùng ông. Rồi từ Sê-chem ông đi đến núi phía đông của Bê-tên và dựng trại tại đó. Bê-tên nằm về phía tây, còn A-hi [b] nằm về phía đông. Nơi ấy Áp-ram xây một bàn thờ nữa cho CHÚA và thờ phụng Ngài. Rồi ông tiếp tục đi đến vùng Nê-ghép.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 12:7 CHÚA hiện ra Thượng Đế thường hay dùng những hình dạng đặc biệt để người ta nhận ra Ngài. Có khi Ngài hiện ra như một người, một thiên sứ, một đám lửa, hay ánh sáng chói lọi.
  2. Sáng Thế 12:8 A-hi Nghĩa là “nơi đổ nát.”

Áp-ram Được Chúa Chọn

12 CHÚA bảo Áp-ram: “Con hãy rời bỏ quê hương, dân con và nhà cha con để đi đến xứ Ta sẽ chỉ cho.

Ta sẽ làm cho con thành một nước lớn.
    Ta sẽ ban phước lành cho con
Và làm nổi danh con
    Và con sẽ thành một nguồn phước.
Ta sẽ ban phước lành cho ai chúc phước con
    Và rủa sả kẻ nào nguyền rủa con;
Tất cả các dân tộc trên thế giới
    Sẽ nhờ con mà được phước.”

Áp-ram Di Cư Qua Ca-na-an

Áp-ram ra đi đúng theo lời CHÚA truyền bảo. Lót cùng đi với ông. Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời bỏ Cha-ran. Áp-ram đem Sa-rai vợ mình, Lót, cháu mình, tất cả tài sản ông tạo được và các tôi tớ ông đã có được ở Cha-ran ra đi để đến xứ Ca-na-an và vào xứ ấy.

Áp-ram đi qua trong xứ đến tận thành Si-chem, tại cây sồi của Mô-rê. Dân Ca-na-an đang ở tại đó. CHÚA hiện ra, nói với Áp-ram: “Ta sẽ ban cho dòng dõi con vùng đất này!” Tại đây Áp-ram lập một bàn thờ CHÚA, Đấng đã hiện ra với ông.

Từ đó, Áp-ram đến vùng đồi núi ở phía đông Bê-tên và hạ trại ở đó. Ông lập một bàn thờ tại đó, Bê-tên ở phía tây và A-hi ở phía đông rồi ông cầu khẩn danh CHÚA. Áp-ram di chuyển dần xuống Nê-ghép[a].

Read full chapter

Footnotes

  1. 12:9 phía nam của Giu-đê

Áp-ram và Lót chia tay nhau

13 Áp-ram, vợ ông, và Lót rời Ai-cập mang theo các tài sản và đi về vùng Nê-ghép, miền nam Ca-na-an. Áp-ram rất giàu, có vô số gia súc, bạc và vàng.

Sau đó ông rời vùng Nê-ghép trở về lại Bê-tên, nơi ông dựng trại trước kia, tức nơi nằm giữa Bê-tên và A-hi [a], là chỗ ông đã xây một bàn thờ. Vậy ông thờ phụng CHÚA tại đó.

Áp-ram và Lót chia rẽ nhau

Trong thời gian cùng đi với Áp-ram, Lót cũng có rất nhiều bầy gia súc và lều trại. Áp-ram và Lót có quá nhiều gia súc đến nỗi đất không đủ cho cả hai người cư ngụ, vì thế mà những bọn chăn gia súc của Áp-ram và Lót bắt đầu gây sự với nhau. Trong khi đó dân Ca-na-an và dân Phê-ri-xít đang sống trong xứ.

Áp-ram bảo Lót, “Bác với cháu không nên gây sự với nhau làm gì, và bọn chăn gia súc chúng ta cũng không nên cãi nhau vì chúng ta là thân nhân ruột thịt. Thôi chúng ta nên chia tay nhau. Cả xứ ở trước mặt cháu đó. Nếu cháu chọn phía Bắc, bác sẽ đi phía Nam. Nếu cháu chọn phía Nam, bác sẽ đi phía Bắc.”

10 Lót nhìn quanh thấy toàn vùng thung lũng sông Giô-đanh có nhiều nước, giống như vườn của CHÚA, như xứ Ai-cập về hướng Xoa. (Đó là trước khi CHÚA hủy diệt Xô-đôm và Gô-mô-rơ.) 11 Vì thế Lót chọn vùng phía Đông và định cư trong thung lũng sông Giô-đanh. Vậy là Áp-ram và Lót chia tay nhau. 12 Áp-ram sống trong xứ Ca-na-an, còn Lót sống trong các thành phố nằm trong thung lũng sông Giô-đanh, rồi dời lều đến Xô-đôm. 13 Dân Xô-đôm rất độc ác và phạm tội nặng cùng CHÚA.

14 Sau khi Lót ra đi rồi, CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy nhìn quanh con từ bắc đến nam, từ đông sang tây. 15 Tất cả vùng đất mà con nhìn thấy, ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đời đời. 16 Ta sẽ khiến cho dòng dõi con đông như cát bụi trên đất. Ai có thể đếm được cát bụi trên đất mới có thể đếm được con cháu con. 17 Hãy đứng dậy! Đi khắp vùng đất mà ta sẽ cấp cho con.”

18 Vậy Áp-ram dời trại và đi đến định cư gần các cây sồi lớn tại Mam-rê nơi thành Hếp-rôn. Ông xây một đền thờ cho CHÚA tại đó.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 13:3 A-hi Nghĩa là “chỗ đổ nát.”

Áp-ram Và Lót Chia Tay

13 Vậy, Áp-ram từ Ai-cập đi lên cùng với vợ, Lót và tất cả tài sản mình, đến Nê-ghép. Áp-ram trở nên rất giàu có về gia súc, bạc và vàng.

Từ Nê-ghép, ông tiếp tục cuộc hành trình đến Bê-tên, nơi ông hạ trại lần trước, giữa hai thành Bê-tên và A-hi, chỗ ông đã lập bàn thờ đầu tiên. Tại đây, Áp-ram cầu khẩn danh CHÚA.

Lót cùng đi với Áp-ram, ông cũng có các bầy chiên, bầy bò và lều trại. Vì tài sản của họ trở nên quá nhiều, đất đai không còn đủ, nên họ không thể ở chung một nơi được nữa. Có sự tranh chấp nổi lên giữa những người chăn súc vật của Áp-ram và của Lót. Lúc đó dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít sống ở trong xứ.

Áp-ram nói với Lót: “Không nên có tranh chấp giữa bác và cháu, giữa những người chăn súc vật của bác và của cháu, vì chúng ta là bà con với nhau. Cả xứ ở trước mặt cháu đó; chúng ta hãy tách ra. Nếu cháu chọn bên trái, bác sẽ qua bên phải; nếu cháu chọn bên phải, bác sẽ qua bên trái.”

10 Lót ngước mắt lên và nhìn thấy toàn thể đồng bằng sông Giô-đanh, (trước khi CHÚA hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ), có nước xanh tươi như vườn của CHÚA, như đất Ai-cập, đến tận thành Xoa, 11 nên Lót chọn cho mình toàn thể đồng bằng sông Giô-đanh và dời về hướng đông. Hai bác cháu chia tay nhau. 12 Áp-ram cư ngụ trong đất Ca-na-an, còn Lót cư ngụ trong các thành của đồng bằng, ông đóng trại gần Sô-đôm. 13 Dân thành Sô-đôm lúc bấy giờ rất gian ác, tội lỗi, nghịch lại CHÚA.

14 Sau khi Lót rời đi, CHÚA nói với Áp-ram: “Từ chỗ con đang ở, con hãy ngước mắt lên nhìn bốn hướng đông, tây, nam, bắc. 15 Tất cả đất đai con nhìn thấy, Ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đời đời. 16 Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông đảo như bụi trên đất, ai đếm được bụi trên đất thì có thể đếm được dòng dõi của con. 17 Con hãy đứng lên, đi dọc ngang khắp xứ vì Ta ban nó cho con.”

18 Áp-ram dời trại đi đến sống gần những cây sồi ở Mam-rê tại Hếp-rôn và lập một bàn thờ CHÚA.

Read full chapter

Giao ước của Thượng Đế với Áp-ram

15 Sau các việc ấy CHÚA phán với Áp-ram trong một sự hiện thấy, “Áp-ram ơi, đừng sợ. Ta sẽ bảo vệ con, ta sẽ cho con phần thưởng lớn.”

Nhưng Áp-ram thưa, “Lạy CHÚA là Thượng Đế, CHÚA sẽ ban gì cho con? Con không có con trai, nên sau khi con qua đời thì Ê-li-ê-xe, người nô lệ từ Đa-mách sẽ hưởng hết tài sản của con.” Áp-ram tiếp, “CHÚA xem, Ngài không cho con đứa con trai nào, nên kẻ nô lệ được sinh trong nhà con sẽ hưởng tài sản của con.”

Nhưng CHÚA phán cùng Áp-ram rằng, “Kẻ nô lệ đó không phải là người thừa hưởng tài sản con đâu. Con sẽ có một con trai ruột, là người sẽ hưởng tài sản con.”

Rồi Thượng Đế dẫn Áp-ram ra ngoài và bảo, “Hãy ngước nhìn bầu trời! Các ngôi sao nhiều vô số không thể đếm nổi. Con cháu con cũng đông như vậy.”

Áp-ram tin CHÚA. Ngài chấp nhận ông. Đức tin ấy khiến ông trở nên công chính trước mặt CHÚA.

Read full chapter

Giao Ước Với Áp-ram

15 Sau các việc đó, CHÚA phán bảo Áp-ram trong khải tượng:

“Áp-ram, con đừng sợ,
    Ta sẽ là cái khiên bảo vệ con,
    Là phần thưởng rất lớn cho con.”

Nhưng Áp-ram nói: “Lạy CHÚA, CHÚA sẽ cho con điều gì? Con vẫn không có con và Ê-li-ê-se, người Đa-mách sẽ thừa hưởng sản nghiệp của con.” Áp-ram tiếp: “Chúa chẳng cho con con cái, nên một đầy tớ sinh ra trong nhà con sẽ thừa kế con!”

CHÚA đáp: “Đó không phải là người thừa kế, một con trai ra từ con sẽ là người thừa kế của con!” CHÚA đem Áp-ram ra sân và bảo: “Con hãy nhìn lên bầu trời và thử đếm sao đi, nếu con đếm được!” Rồi Ngài nói với ông: “Dòng dõi con sẽ đông như thế.”

Áp-ram tin CHÚA, nên Ngài kể cho người là công chính.

Read full chapter

18 Ngày đó CHÚA lập giao ước với Áp-ram. Ngài nói, “Ta sẽ ban cho dòng dõi con vùng đất nằm giữa sông Ai-cập [a] và sông lớn Ơ-phơ-rát.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 15:18 sông Ai-cập Đây là suối mang tên “Hoa-đi En-A-rít.”

18 Ngày hôm ấy, CHÚA kết ước với Áp-ram rằng: “Ta đã ban cho dòng dõi con đất này, từ khe Ai-cập đến sông cái Ơ-phơ-rát,

Read full chapter

Phép cắt dương bì—Bằng chứng về giao ước

17 Khi Áp-ram được 99 tuổi, thì CHÚA hiện ra cùng ông và bảo, “Ta là Thượng Đế Toàn Năng [a]. Hãy vâng lời ta và làm điều phải. Ta sẽ lập giao ước giữa chúng ta. Ta sẽ làm cho con trở thành ông tổ của nhiều người.”

Áp-ram liền cúi mọp mình xuống đất. Thượng Đế bảo ông, “Ta đang lập giao ước với con: Ta sẽ khiến con trở thành cha của nhiều dân tộc. Nay ta đổi tên con từ Áp-ram [b] ra Áp-ra-ham [c] vì ta sẽ khiến con trở nên cha của nhiều dân tộc. Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông đảo. Nhiều dân tộc sẽ từ con mà ra, nhiều vua cũng sẽ là dòng dõi của con. Từ nay ta sẽ lập giao ước giữa ta với con và dòng dõi con: Ta sẽ làm Thượng Đế con và là Thượng Đế của tất cả dòng dõi con. Hiện con đang sống trong xứ Ca-na-an như dân tạm trú, nhưng ta sẽ cấp xứ nầy cho con và dòng dõi con đời đời. Ta sẽ làm Thượng Đế của dòng dõi con.”

Rồi CHÚA phán cùng Áp-ra-ham, “Từ nay về sau con và dòng dõi con phải giữ giao ước nầy. 10 Giao ước giữa ta với con và dòng dõi con mà các con phải giữ như sau: Mọi người nam trong các con phải chịu cắt dương bì.

Read full chapter

Footnotes

  1. Sáng Thế 17:1 Thượng Đế Toàn Năng Nguyên văn, “En Sa-đai.”
  2. Sáng Thế 17:5 Áp-ram Nghĩa là “cha đáng kính.”
  3. Sáng Thế 17:5 Áp-ra-ham Nghĩa là “cha vĩ đại” hay “cha của nhiều người.”

Chúa Xác Nhận Giao Ước Với Áp-ram

17 Khi Áp-ram được chín mươi chín tuổi, CHÚA xuất hiện và phán: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng, con hãy sống một cách thánh thiện trước mặt Ta. Ta sẽ lập giao ước giữa Ta với con và sẽ làm cho dòng dõi con gia tăng bội phần.”

Áp-ram sấp mặt xuống đất, Đức Chúa Trời nói với ông: “Về phần Ta, đây là giao ước của Ta với con: con sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc. Người ta không gọi con là Áp-ram ‘cha tôn quý’ nữa, nhưng gọi là Áp-ra-ham ‘cha của các dân tộc’ vì Ta cho con làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta làm cho con sinh sôi nẩy nở thành nhiều dân tộc, hậu tự con gồm nhiều vua chúa. Ta lập giao ước này với con và hậu tự con đời này sang đời khác. Giao ước này còn mãi đời đời: Ta làm Đức Chúa Trời của con và của hậu tự con. Ta sẽ cho con và hậu tự con toàn thể đất Ca-na-an mà con đang kiều ngụ làm sản nghiệp vĩnh viễn, Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ.”

Lễ Cắt Bì

Rồi Đức Chúa Trời nói với Áp-ra-ham: “Con và hậu tự con phải giữ giao ước của Ta đời đời. 10 Giao ước của Ta với con và dòng dõi con là tất cả người nam trong vòng các con phải chịu lễ cắt bì:

Read full chapter

23 Sau đó Áp-ra-ham tập họp Ích-ma-ên, tất cả những người nam sinh trong trại mình và những người nô lệ ông đã mua. Ngày đó Áp-ra-ham cắt dương bì cho mọi người đàn ông và con trai trong trại mình theo như Thượng Đế đã dặn.

Read full chapter

23 Ngày hôm ấy, Áp-ra-ham cắt bì cho Ích-ma-ên, con trai mình, và tất cả những người nam sinh trong nhà hay nô lệ ông đã mua về, đúng theo lời Đức Chúa Trời phán dạy.

Read full chapter

23 Ai phạm tội thì phải lãnh tiền công của tội lỗi—đó là sự chết. Nhưng quà tặng của Thượng Đế là sự sống đời đời trong Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.

Read full chapter

23 Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Đức Chúa Trời là sự sống vĩnh phúc trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta.

Read full chapter

Đa-vít cũng đã nói tương tự như thế. Ông bảo rằng ai được hòa thuận với Thượng Đế, nghĩa là được Ngài tha thứ những tội lỗi của mình, thật có phúc.

“Phúc cho người nào được xóa hết tội,
    bao nhiều việc phạm pháp đều được tha thứ.
Phúc cho kẻ mà Chúa không kết tội.” (A)

Read full chapter

Ngay vua Đa-vít cũng nói như vậy về phước hạnh của người mà Đức Chúa Trời kể là công chính không bởi việc làm:

“Phước cho người
    Được tha vi phạm,
    Được khỏa lấp tội lỗi;
Phước cho những ai
    Mà Chúa sẽ chẳng bắt tội.”[a]

Read full chapter

Footnotes

  1. 4:8 Thi 32:1-2

Nên xưng tội

Bài mạch-kinh của Đa-vít.

32 Phúc cho người nào mà tội lỗi được tha,
    mọi lầm lỗi được bôi xóa.
Phước cho người mà CHÚA không kết tội
    và trong lòng không có gì giả dối.

Khi tôi im lặng, tôi cảm thấy yếu đuối.
    Tôi rên rỉ suốt ngày.
Ngày và đêm tay CHÚA đè nặng trên tôi.
    Sức lực tôi suy yếu vì sức nóng mùa hè. Xê-la

Rồi tôi xưng tội cùng CHÚA,
    không giấu diếm tội lỗi tôi.
Tôi nói, “Tôi sẽ xưng tội cùng CHÚA,”
    còn Ngài sẽ tha thứ cho tôi. Xê-la

Vì thế những ai vâng lời Ngài
    hãy cầu nguyện trong khi còn có cơ hội.
Để khi khốn khó xảy đến như nước lụt,
    họ sẽ không bị tổn hại gì.
Ngài là nơi trú ẩn của tôi.
Ngài bảo vệ tôi khỏi mọi gian nan
    và khiến lòng tôi đầy dẫy những bài ca cứu rỗi của CHÚA. Xê-la

CHÚA phán, “Ta sẽ khiến con khôn ngoan,
    và sẽ chỉ cho con biết đường phải đi.
Ta sẽ dắt dẫn và trông nom con.
Đừng giống như lừa và ngựa
    vốn không hiểu biết gì.
Người ta phải dùng hàm khớp và dây cương để dắt dẫn,
    nếu không chúng sẽ chẳng chịu đến gần con.”

10 Kẻ ác gặp nhiều nỗi khổ đau
    nhưng tình yêu CHÚA bao phủ những kẻ tin cậy Ngài.
11 Hỡi những người nhân đức,
    hãy hớn hở vui mừng trong CHÚA.
Còn những ai có lòng ngay thẳng,
    hãy ca hát lên.

Thánh Thi Đa-vít Để Dạy Dỗ

32 Phước cho người nào
    Có sự vi phạm được tha thứ,
    Tội lỗi mình được khỏa lấp.
Phước cho người nào
    CHÚA không quy tội ác cho,
    Và trong tâm linh không có sự gian dối.
Khi tôi nín lặng,
    Xương cốt tôi tiêu mòn
    Và rên siết suốt ngày.
Vì ngày đêm,
    Tay Ngài đè nặng trên tôi,
Sinh lực[a] tôi tiêu hao[b]
    Như sương gặp nắng hạ.
Tôi đã thú tội cùng Ngài,
    Không giấu tội ác tôi.
Tôi nói: “Tôi sẽ xưng
    Các sự vi phạm tôi cùng CHÚA,
Và Ngài đã tha thứ
    Tội lỗi gian ác tôi.”
Vì vậy, hết thảy những người trung tín,[c]
    Hãy cầu nguyện cùng Ngài đang khi có thể gặp được.
Dù khi có nước lụt lớn dâng lên
    Cũng không đụng đến người.
Ngài là nơi trú ẩn cho tôi,
    Ngài gìn giữ tôi khỏi hoạn nạn,
    Ngài bao phủ tôi bằng những bài ca[d] giải cứu.
Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải đi.
    Mắt Ta hằng chăm nom, cố vấn ngươi.[e]
Đừng như con ngựa, con la,
    Là vật vô tri;
Phải dùng hàm thiếc, dây cương để kiềm chế miệng nó.
    Nếu không, chúng sẽ không đến gần ngươi.
10 Kẻ ác có nhiều nỗi đau đớn,
    Nhưng người tin cậy CHÚA
    Được tình yêu thương bao phủ họ.
11 Hỡi những người trung tín,
    Hãy vui mừng và hân hoan trong CHÚA.
Hỡi những người có lòng ngay thẳng,
    Hãy reo mừng.

Footnotes

  1. 32:4 Nt: nước cốt
  2. 32:4 Nt: thay đổi
  3. 32:6 Ctd: các thánh; người kính sợ Chúa
  4. 32:7 Ctd: tiếng hô vang
  5. 32:8 Nt: mắt ta trên ngươi

Đa-vít phạm tội với Bát-Sê-ba

11 Vào mùa xuân khi các vua thường ra tranh chiến nhau, thì Đa-vít phái Giô-áp, các tôi tớ ông, và toàn quân Ít-ra-en ra trận. Họ tiêu diệt dân Am-môn và tấn công thành Ráp-ba.

Còn Đa-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem. Một buổi chiều nọ vua ngồi dậy khỏi giường và đi dạo trên nóc đền vua. Trong khi đang dạo trên nóc thì vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng rất đẹp. Nên Đa-vít sai đầy tớ hỏi xem nàng là ai. Một đầy tớ trả lời, “Người đàn bà đó là Bát-Sê-ba, con gái Ê-li-am. Nàng là vợ U-ri người Hê-tít.”

Đa-vít liền cho người mang Bát-Sê-ba vào gặp mình. Khi nàng đến cùng vua thì vua ăn nằm cùng nàng. Lúc đó Bát-Sê-ba đã tẩy sạch kinh nguyệt. Rồi nàng trở về nhà mình. Nhưng Bát-Sê-ba có thai và sai nhắn với Đa-vít, “Tôi có thai.”

Đa-vít tìm cách che giấu tội mình

Vì thế Đa-vít ra lệnh cho Giô-áp: “Hãy gởi U-ri, người Hê-tít, về với ta.”

Giô-áp liền gởi U-ri về với Đa-vít. Khi U-ri vào gặp vua thì Đa-vít hỏi thăm về Giô-áp, các binh sĩ về tình hình chiến cuộc ra sao. Rồi Đa-vít bảo U-ri, “Thôi anh về nhà nghỉ ngơi [a] đi.”

U-ri rời cung vua, và nhà vua gởi biếu ông một món quà. Nhưng U-ri không về nhà. Ông ngủ ở ngoài cửa cung vua như tất cả các sĩ quan hoàng gia khác. 10 Các sĩ quan báo cáo với Đa-vít, “U-ri không có về nhà.” Đa-vít liền hỏi U-ri, “Anh từ xa đi về. Sao anh không đi về nhà?”

11 U-ri thưa, “Rương Giao Ước và các chiến sĩ Ít-ra-en và Giu-đa đang ở trong lều. Chủ tôi là Giô-áp cùng các sĩ quan đang trú ngoài mặt trận mà tôi đi về ăn uống, rồi ngủ với vợ thì không phải lẽ tí nào! Tôi xin thề với vua là tôi sẽ không đời nào làm như thế.”

12 Đa-vít bảo U-ri, “Anh ở đây hôm nay đi. Ngày mai ta sẽ gởi anh ra mặt trận.” Vậy U-ri ở lại Giê-ru-sa-lem hôm đó và hôm sau. 13 Rồi Đa-vít gọi U-ri vào gặp mình. U-ri vào và ăn uống với vua. Đa-vít phục rượu cho U-ri say nhưng U-ri cũng không chịu về nhà. Đêm hôm đó U-ri vẫn ngủ với các sĩ quan của vua.

Đa-vít âm mưu giết U-ri

14 Sáng hôm sau Đa-vít viết một bức thư cho Giô-áp nhờ U-ri mang đi. 15 Trong thư Đa-vít dặn, “Hãy đặt U-ri nơi tiền tuyến chỗ đánh nhau nguy hiểm nhất rồi rút binh ra, để hắn lại một mình. Để hắn bị bỏ xác nơi mặt trận.”

16 Giô-áp quan sát thành phố và xem chỗ nào địch quân mạnh nhất liền đặt U-ri ở đó. 17 Khi quân trong thành đổ ra đánh nhau với Giô-áp thì một số binh sĩ của Đa-vít bị giết. U-ri người Hê-tít cũng chết trong toán đó.

18 Rồi Giô-áp gởi bản báo cáo toàn bộ cuộc chiến về cho Đa-vít. 19 Giô-áp dặn sứ giả, “Hãy tường thuật chi tiết cuộc chiến cho vua Đa-vít nghe. 20 Khi tường thuật xong, nếu vua nổi giận và hỏi, ‘Sao các ngươi tiến gần quá thành để tấn công như thế? Các ngươi không biết là địch quân có thể bắn tên xuống từ vách thành sao? 21 Các ngươi có nhớ ai giết A-bi-mê-léc, con trai Giê-rúp Bê-sết không? Một người đàn bà trên vách thành. Người đó ném cái cối đá lên đầu A-bi-mê-léc, giết người chết ở Thê-be. Sao các ngươi tiến sát thành quá như thế?’ Nếu vua Đa-vít hỏi như vậy thì tiếp, ‘Kẻ tôi tớ vua, U-ri, người Hê-tít cũng bị giết nữa.’”

22 Sứ giả về gặp Đa-vít và thuật cho vua nghe những gì Giô-áp dặn mình. 23 Sứ giả kể với Đa-vít, “Quân Am-môn đang thắng thế. Chúng đổ ra tấn công chúng tôi trong ruộng nhưng chúng tôi đánh bạt chúng trở lại nơi cửa thành. 24 Các lính cầm cung bắn tên xuống các tôi tớ vua, một vài người bị chết. Tôi tớ vua là U-ri cũng chết nữa.”

25 Đa-vít bảo sứ giả, “Nói với Giô-áp như sau: ‘Đừng quá bực mình về chuyện nầy. Gươm giáo đâu có mắt. Hãy mở cuộc tấn công mãnh liệt hơn và chiếm thành đi.’ Hãy giục Giô-áp như thế.”

Đa-vít lấy Bát-sê-ba

26 Khi vợ U-ri nghe tin chồng mình tử trận, liền than khóc. 27 Sau khi mãn tang chồng thì Đa-vít sai người mang nàng vào cung với mình. Nàng trở thành vợ Đa-vít và sinh cho vua một con trai, nhưng Thượng Đế không bằng lòng điều Đa-vít làm.

Con trai Đa-vít chết

12 CHÚA sai Na-than đến gặp Đa-vít. Khi gặp Đa-vít ông bảo, “Có hai người cùng ở trong một thành phố nọ. Một người giàu, một người nghèo. Người giàu có rất nhiều chiên và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả ngoại trừ một con chiên con mình mua. Người nhà nghèo nuôi con chiên, nó lớn cùng với người và các con của người. Nó ăn đồ ăn và uống chung ly chén với người và ngủ trong lòng người. Con chiên được xem như con gái của người vậy.

Có một lữ khách ghé thăm người giàu. Người giàu muốn tiếp đãi lữ khách nhưng không muốn bắt chiên hay bò của mình nên bắt con chiên người nhà nghèo làm thịt đãi khách.”

Đa-vít nổi giận cùng người giàu. Ông bảo Na-than, “Tôi chỉ CHÚA hằng sống mà thề, tên nào làm chuyện đó phải chết! Nó phải đền bốn lần giá con chiên vì làm chuyện bậy như thế. Nó chẳng có lòng nhân ái gì cả!”

Na-than vạch tội Đa-vít ra

Na-than liền bảo Đa-vít, “Vua là người đó chứ ai? Đây là điều CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: ‘Ta đã chọn [b] ngươi làm vua Ít-ra-en và giải cứu ngươi khỏi Sau-lơ. Ta đã trao nước và các vợ người vào tay ngươi. Ta đã đặt ngươi làm vua trên Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu như thế chưa đủ, ta có thể cho ngươi thêm nữa. Vậy tại sao ngươi coi thường mệnh lệnh của CHÚA? Tại sao ngươi làm điều bậy? Ngươi nhờ gươm của quân Am-môn giết U-ri người Hê-tít và lấy vợ nó làm vợ mình! 10 Bây giờ đây trong nhà ngươi sẽ có người chết vì gươm vì ngươi không tôn kính ta; ngươi đoạt vợ của U-ri người Hê-tít cho mình!’

11 CHÚA phán: Ta sẽ mang khốn khổ đến cho ngươi từ trong gia đình ngươi. Ta sẽ bắt các vợ ngươi mà trao cho người rất gần ngươi ngay trước mắt ngươi. Nó sẽ ăn nằm với các vợ ngươi và mọi người sẽ biết chuyện đó [c]. 12 Ngươi thầm lén ăn nằm với Bát-Sê-ba nhưng ta sẽ làm điều nầy giữa thanh thiên bạch nhật để tất cả Ít-ra-en đều thấy.”

13 Đa-vít liền thú tội với Na-than, “Tôi đã phạm tội cùng CHÚA.”

Na-than đáp, “CHÚA cũng đã tha tội vua. Vua sẽ không chết. 14 Nhưng điều vua làm khiến các kẻ thù của CHÚA không kính sợ Ngài nữa. Vì lý do đó đứa con trai sinh cho vua sẽ phải chết.”

Con của Đa-vít và Bát-sê-ba chết

15 Rồi Na-than đi về nhà. CHÚA khiến cho đứa con của Đa-vít và vợ của U-ri mắc bệnh nặng. 16 Đa-vít cầu khẩn Thượng Đế cho đứa bé. Ông không chịu ăn uống gì. Ông đi về nhà và ở đó, suốt đêm nằm dưới đất.

17 Các người lớn tuổi trong gia đình Đa-vít đến tìm cách đỡ vua dậy nhưng vua từ chối, và cũng không chịu ăn chung với họ. 18 Đến ngày thứ bảy thì đứa bé chết. Các đầy tớ Đa-vít sợ không dám báo tin đó cho Đa-vít. Họ bảo, “Lúc đứa bé còn sống chúng ta tìm cách khuyên nhủ vua nhưng vua không nghe. Bây giờ nó chết rồi, nếu chúng ta cho vua biết, vua còn làm chuyện tệ hơn nữa.”

19 Khi thấy các đầy tớ thì thầm với nhau thì Đa-vít biết đứa bé đã chết nên ông liền hỏi, “Đứa bé chết rồi phải không?”

Họ đáp, “Dạ phải, nó chết rồi.”

20 Đa-vít liền đứng dậy khỏi đất, tắm rửa, xức dầu thơm, và thay quần áo. Rồi vua vào trong nhà CHÚA để thờ lạy. Sau đó vua về nhà kiếm món gì để ăn. Các đầy tớ vua mang thức ăn đến và vua ăn.

21 Các đầy tớ vua hỏi, “Tại sao vua làm gì kỳ vậy. Khi đứa bé còn sống, vua không chịu ăn và than khóc. Bây giờ nó chết rồi thì vua ngồi dậy ăn.”

22 Đa-vít trả lời, “Trong khi nó còn sống ta không chịu ăn và than khóc vì ta nghĩ, ‘Biết đâu CHÚA sẽ thương hại ta mà để cho nó sống.’ 23 Nhưng bây giờ nó chết rồi thì ta cữ ăn làm gì? Ta đâu có thể làm cho nó sống lại được? Trong tương lai ta sẽ đi đến cùng nó, nhưng nó đâu có trở lại cùng ta.”

Sô-lô-môn ra đời

24 Đa-vít an ủi Bát-Sê-ba, vợ mình. Vua ăn nằm cùng nàng. Nàng thụ thai nữa và sanh một con trai khác, Đa-vít đặt tên là Sô-lô-môn. CHÚA yêu thương Sô-lô-môn. 25 CHÚA sai Na-than, nhà tiên tri, dặn phải đặt tên nó là Giê-đi-đia [d], vì CHÚA yêu thích nó.

Đa-vít chiếm thành Ráp-ba

26 Giô-áp đánh thành Ráp-ba, một kinh đô của Am-môn, và sắp sửa chiếm nó. 27 Giô-áp sai người đến báo với Đa-vít rằng, “Tôi đã đánh Ráp-ba và chiếm nguồn cung cấp nước của thành đó. 28 Vậy bây giờ xin mang hết binh sĩ còn lại xuống tấn công thành nầy. Hãy chiếm thành đó trước khi tôi chiếm để lập công cho tôi.”

29 Vậy Đa-vít triệu tập toàn lực lượng và đi xuống thành Ráp-ba, tấn công và chiếm lấy nó. 30 Đa-vít lấy mão triều của vua Ráp-ba [e] đội trên đầu mình. Mão triều đó nặng khoảng bảy mươi lăm cân [f], có cẩn nhiều ngọc quý trên đó. Đa-vít cũng chiếm lấy nhiều món đồ quí giá của thành phố.

31 Vua cũng bắt dân cư trong thành đó làm công việc bằng cưa, cuốc, và rìu. Vua cũng bắt chúng xây nhà bằng gạch. Đa-vít làm như thế cho tất cả các thành Am-môn. Rồi Đa-vít và toàn quân trở về Giê-ru-sa-lem.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 11:8 nghỉ ngơi Nguyên văn, “rửa chân.”
  2. II Sa-mu-ên 12:7 chọn Nguyên văn, “xức dầu.” Xem từ ngữ nầy trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  3. II Sa-mu-ên 12:11 mọi người sẽ biết chuyện đó Nguyên văn, “giữa thanh thiên bạch nhật.”
  4. II Sa-mu-ên 12:25 Giê-đi-đia Nghĩa là “được Chúa yêu thích.”
  5. II Sa-mu-ên 12:30 mão triều của vua Ráp-ba Hay “mão triều của Minh-côm.” Minh-côm là một thần giả mà dân Am-môn tôn thờ.
  6. II Sa-mu-ên 12:30 bảy mươi lăm cân Nguyên văn, “một ta-lâng” (khoảng 35 kí-lô).

Vua Đa-vít Phạm Tội Tà Dâm

11 Một năm sau khi các vua[a] ra quân[b] vua Đa-vít sai tướng Giô-áp và triều thần lãnh đạo toàn quân Y-sơ-ra-ên đi chinh chiến. Họ đánh bại quân Am-môn và vây hãm kinh đô Ráp-ba. Còn vua Đa-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem.

Một buổi chiều kia, vua Đa-vít nghỉ trưa xong, thức dậy, đi dạo trên sân thượng cung điện; từ sân thượng vua nhìn thấy một phụ nữ đang tắm. Nàng rất đẹp. Vua Đa-vít sai người dò hỏi về nàng. Người ta tâu: “Đó chính là bà Bát-sê-ba, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia, người Hê-tít.” Vua Đa-vít sai người đón nàng vào cung. Lúc ấy, nàng vừa thanh tẩy mình sau kỳ kinh nguyệt. Khi nàng đến, vua nằm với nàng. Rồi nàng trở về nhà. Sau đó, nàng thụ thai và sai người báo tin cho vua Đa-vít: “Tôi có thai.”

Vua Đa-vít liền sai người mang lệnh vua cho tướng Giô-áp: “Hãy bảo U-ri-gia, người Hê-tít, về gặp ta.” Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về chầu vua Đa-vít. Khi ông U-ri-gia đến chầu vua, vua Đa-vít hỏi thăm tin tức về tướng Giô-áp, về binh sĩ, và tình hình chiến sự. Rồi vua Đa-vít bảo ông U-ri-gia: “Ngươi hãy về nhà nghỉ ngơi đôi chút”[c] Ông U-ri-gia rời khỏi cung điện. Vua sai người mang quà[d] đến nhà cho ông. Nhưng ông U-ri-gia không về nhà. Ông nằm ngủ tại cổng hoàng cung chung với tất cả các cận vệ của chủ ông.

10 Khi vua Đa-vít hay tin ông U-ri-gia không có về nhà, vua hỏi ông: “Ngươi đi đường xa mới về, sao ngươi không về nhà?”

11 Ông U-ri-gia tâu với vua Đa-vít: “Rương Giao Ước và các chiến sĩ Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều ở trong lều;[e] trong khi tướng Giô-áp chủ tôi, và các đầy tớ của ông đều cắm trại ngoài đồng, lẽ nào tôi lại về nhà tôi, ăn uống và ngủ với vợ tôi sao? Tôi xin thề với bệ hạ tôi không bao giờ làm một chuyện như vậy!”

12 Vua Đa-vít bảo: “Hãy ở lại đây hôm nay nữa, rồi ngày mai ta sẽ cho ngươi đi.” Vậy ông U-ri-gia ở lại thành Giê-ru-sa-lem ngày hôm ấy. Ngày hôm sau, 13 vua Đa-vít mời ông U-ri-gia đến. Ông dùng bữa với vua, vua ép ông uống cho thật say, nhưng đến chiều, ông vẫn không về nhà. Ông ra ngoài nằm ngủ trên chiếu của mình, bên cạnh mấy người cận vệ của vua.

Vua Đa-vít Phạm Tội Giết Người

14 Sáng hôm sau, vua Đa-vít viết thơ gởi ông U-ri-gia cầm về cho tướng Giô-áp. 15 Trong thơ, vua viết như thế này: “Hãy đặt U-ri-gia ở ngay hàng đầu, chỗ trận chiến ác liệt nhất, rồi các ngươi hãy lui xa ra, để cho U-ri-gia bị trúng thương mà tử trận.”

16 Vậy, trong lúc vây thành, ông Giô-áp đặt ông U-ri-gia ở ngay chỗ ông biết quân địch có chiến sĩ hùng mạnh. 17 Khi quân trong thành xông ra giao chiến với quân của ông Giô-áp, một vài người trong số các cận thần của vua Đa-vít, bị tử trận. Ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.

18 Ông Giô-áp sai người báo cáo cho vua Đa-vít biết mọi sự về tình hình chiến trận. 19 Ông dặn người đem tin: “Khi anh báo cáo cho vua nghe xong mọi việc về tình hình chiến trận, 20 có thể vua nổi giận hỏi: ‘Tại sao các ngươi đến gần tường thành như vậy mà giao chiến? Các ngươi không biết rằng quân địch bắn từ trên tường thành xuống sao? 21 Ai giết A-bi-mê-léc, con ông Giê-ru-bê-sết.[f] Phải chăng một người đàn bà từ trên tường thành đã liệng thớt đá xuống trên đầu ông và ông chết tại Thê-bết? Tại sao các ngươi lại đến gần tường thành như vậy?’ Bấy giờ anh hãy tâu: ‘Tôi tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.’ ”

22 Người lính đem tin lên đường; anh đến nơi, báo tin lại cho vua Đa-vít mọi điều ông Giô-áp căn dặn. 23 Anh thưa với vua: “Lúc đầu quân địch mạnh hơn chúng tôi, chúng nó xông vào đánh chúng tôi ngoài đồng, nhưng sau đó chúng tôi đẩy lui chúng về đến cổng thành. 24 Nhưng lính bắn cung từ trên tường thành bắn vào các đầy tớ của vua, và một vài người tử trận; đầy tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.”

25 Vua Đa-vít bảo người đem tin: “Ngươi hãy khuyến khích tướng Giô-áp, khuyên ông đừng buồn phiền về chuyện này, vì lưỡi gươm chém giết khi nhằm người này, lúc người kia. Ngươi hãy khuyên ông ra sức chiến đấu, tấn công và phá hủy thành.”

26 Bà vợ ông U-ri-gia nghe tin chồng tử trận, liền than khóc chồng. 27 Sau khi mãn tang, vua Đa-vít sai người đón bà về cung. Bà trở thành vợ vua, và sanh cho vua một con trai. Nhưng điều Đa-vít đã làm không đẹp lòng CHÚA.

Sứ Điệp Của Tiên Tri Na-than

12 CHÚA sai tiên tri Na-than đi gặp vua Đa-vít. Ông đến gặp vua và nói: “Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, và một người nghèo. Người giàu có rất nhiều đàn chiên dê, và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài một con chiên cái nhỏ mà ông đã mua. Ông nuôi nó, và nó lớn lên trong nhà ông, cùng với con cái ông. Nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, và ngủ trong lòng ông. Ông coi nó như một đứa con gái.

Một ngày kia, có khách đi đường xa đến thăm người giàu. Ông này tiếc, không muốn bắt chiên dê, hoặc bò của mình làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo làm thịt đãi khách.”

Vua Đa-vít bất bình giận dữ về việc làm của người giàu, nói với ông Na-than: “Có CHÚA hằng sống, kẻ nào làm chuyện đó thật đáng chết! Nó phải bồi thường gấp bốn lần[g] giá con chiên cái, vì nó đã làm chuyện đó, và không có lòng thương xót.”

Ông Na-than nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là bệ hạ! CHÚA, là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Chính Ta đã xức dầu cho con làm vua dân Y-sơ-ra-ên, chính Ta đã giải cứu con khỏi tay vua Sau-lơ. Ta ban cho con quyền trên gia đình của chủ con, Ta giao những người vợ của chủ con vào lòng con, Ta ban cho con quyền cai trị dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu chưa đủ, Ta có thể ban cho con nhiều hơn gấp mấy lần nữa. Tại sao con lại khinh dể mạng lịnh của CHÚA, làm điều ác trước mắt Ngài? Con đã dùng gươm giết U-ri-gia, người Hê-tít! Con lấy vợ nó làm vợ con, rồi con dùng gươm của quân Am-môn giết nó! 10 Vậy, lưỡi gươm sẽ không bao giờ lìa khỏi nhà con, vì con đã khinh dể Ta, lấy vợ của U-ri-gia người Hê-tít làm vợ con.’

11 CHÚA phán như vầy: ‘Này, Ta sẽ khiến chính người nhà của con gây họa cho con. Ngay trước mắt con, Ta sẽ bắt các vợ của con và giao cho một người thân cận của con, và nó sẽ ngủ với các vợ của con giữa ban ngày, trước mắt mọi người. 12 Con đã hành động lén lút, nhưng Ta sẽ làm việc này ngay giữa ban ngày, trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên.’ ”

13 Vua Đa-vít thú nhận với ông Na-than: “Tôi có tội với CHÚA.” Ông Na-than đáp: “Phải, nhưng CHÚA đã tha thứ cho bệ hạ, và bệ hạ sẽ không chết. 14 Tuy nhiên, vì bệ hạ đã tỏ ra khinh thường CHÚA[h] trong vụ này, nên bé trai vừa sanh ra cho bệ hạ sẽ phải chết.”

15 Nói xong, ông Na-than trở về nhà.

Con Trai Bà Bát-sê-ba Chết

CHÚA khiến cho đứa bé bà vợ ông U-ri-gia vừa sanh ra cho vua Đa-vít lâm bệnh nặng. 16 Vua Đa-vít nài xin Đức Chúa Trời chữa lành cho đứa bé; vua nhịn ăn, và ban đêm, vua về phòng nằm dưới đất suốt đêm. 17 Các cận thần phục vụ lâu năm trong hoàng cung chầu chực bên cạnh vua, nài nỉ xin đỡ vua dậy, nhưng vua không chịu; vua cũng chẳng ăn chút gì với họ.

18 Đến ngày thứ bảy, đứa bé chết. Các cận thần sợ, không dám báo cho vua Đa-vít hay tin đứa bé chết, vì họ bảo nhau: “Khi đứa bé còn sống, vua đã chẳng chịu nghe chúng ta khuyên giải. Làm sao chúng ta dám báo cho vua hay là đứa bé chết? Vua có thể làm liều!”

19 Thấy triều thần thì thầm với nhau, vua Đa-vít biết là đứa bé đã chết.

Vua hỏi triều thần: “Đứa bé chết rồi, phải không?” Họ thưa: “Tâu phải.”

20 Vua Đa-vít chỗi dậy khỏi đất, tắm rửa, xức dầu thơm; thay quần áo xong, vua vào Lều của CHÚA, sấp mình xuống thờ phượng. Rồi vua trở về cung, truyền dọn thức ăn. Khi người ta dọn lên, vua dùng ngay.

21 Triều thần thưa với vua: “Chúng tôi không hiểu tại sao bệ hạ hành động như vậy. Khi đứa bé còn sống, bệ hạ nhịn ăn và khóc lóc. Nhưng ngay khi đứa bé chết, bệ hạ lại chỗi dậy và ăn.”

22 Vua đáp: “Khi đứa bé còn sống, ta nhịn ăn và khóc lóc, vì ta tự nhủ: ‘Biết đâu CHÚA thương xót ta và Ngài cho đứa bé được sống.’ 23 Nhưng bây giờ nó chết rồi, ta còn nhịn ăn làm gì nữa? Ta có thể nào đem nó trở lại dương gian này được không? Chính ta sẽ đi đến nơi nó ở, chớ nó không thể trở về với ta được.”

Vua Sa-lô-môn Ra Đời

24 Vua Đa-vít an ủi bà Bát-sê-ba, vợ mình. Vua đến với nàng và ngủ với nàng. Nàng sanh một con trai, vua đặt tên là Sa-lô-môn. CHÚA yêu thương đứa bé 25 và sai tiên tri Na-than đến báo cho vua Đa-vít biết CHÚA đặt tên đứa bé là Giê-đi-đê-gia, vì Ngài yêu thương nó.

Những Năm Hoạn Nạn

26 Trong khi đó, tướng Giô-áp tấn công thành Ráp-ba, kinh đô của dân Am-môn, và sắp chiếm được kinh thành. 27 Ông Giô-áp sai lính về tâu với vua Đa-vít: “Tôi đang tấn công kinh đô Ráp-ba, và tôi đã chiếm được thành lũy bảo vệ nơi dự trữ nước của kinh thành. 28 Bây giờ, xin bệ hạ tập hợp số binh sĩ còn lại, đến bao vây và chiếm kinh đô, kẻo chính tôi chiếm nó, và nó mang tên tôi.”

29 Vua Đa-vít tập hợp toàn quân, kéo đến đánh thành Ráp-ba, và chiếm được. 30 Vua lột vương miện trên đầu tượng thần Minh-côm[i] ra, đặt lên đầu mình; vương miện bằng vàng, nặng khoảng một ta-lâng,[j] và có một viên ngọc quý.[k] Vua cũng đem đi rất nhiều chiến lợi phẩm lấy được từ trong thành. 31 Vua cũng đưa dân trong thành đi lao động, bắt họ sử dụng cưa, bừa sắt, rìu sắt, và đúc gạch. Vua xử như vậy với mọi thành của dân Am-môn. Rồi vua Đa-vít và toàn quân trở về thành Giê-ru-sa-lem.

Footnotes

  1. 11:1 Nt: các sứ giả; xem 10:2, 6-8
  2. 11:1 Các dịch giả KT khác thường hiểu là: “Xuân về là lúc các vua thường ra quân”
  3. 11:8 Nt: về nhà rửa chân đi
  4. 11:8 Ctd: thức ăn
  5. 11:11 Ctd: đóng quân ở Xu-cốt
  6. 11:21 Thẩm 7:1 gọi là Giê-ru-ba-anh, một tên khác của Ghi-đê-ôn
  7. 12:6 Xuất 22:1; LXX: “bảy lần,” theo Châm 6:31
  8. 12:14 nt: “kẻ thù của CHÚA”; các học giả thêm vào hai từ “kẻ thù” khi sao lại các cổ bản KT vì họ muốn tránh câu “khinh thường CHÚA”; xem 1Sa 25:22
  9. 12:30 Dân Am-môn thờ thần Minh-côm; ctd: “trên đầu vua chúng”
  10. 12:30 Khoảng 30kg
  11. 12:30 Cổ bản A-ram, La-tinh và Syriac: nhiều viên ngọc quý

Nên xưng tội

Bài mạch-kinh của Đa-vít.

32 Phúc cho người nào mà tội lỗi được tha,
    mọi lầm lỗi được bôi xóa.
Phước cho người mà CHÚA không kết tội
    và trong lòng không có gì giả dối.

Khi tôi im lặng, tôi cảm thấy yếu đuối.
    Tôi rên rỉ suốt ngày.
Ngày và đêm tay CHÚA đè nặng trên tôi.
    Sức lực tôi suy yếu vì sức nóng mùa hè. Xê-la

Rồi tôi xưng tội cùng CHÚA,
    không giấu diếm tội lỗi tôi.
Tôi nói, “Tôi sẽ xưng tội cùng CHÚA,”
    còn Ngài sẽ tha thứ cho tôi. Xê-la

Vì thế những ai vâng lời Ngài
    hãy cầu nguyện trong khi còn có cơ hội.
Để khi khốn khó xảy đến như nước lụt,
    họ sẽ không bị tổn hại gì.
Ngài là nơi trú ẩn của tôi.
Ngài bảo vệ tôi khỏi mọi gian nan
    và khiến lòng tôi đầy dẫy những bài ca cứu rỗi của CHÚA. Xê-la

CHÚA phán, “Ta sẽ khiến con khôn ngoan,
    và sẽ chỉ cho con biết đường phải đi.
Ta sẽ dắt dẫn và trông nom con.
Đừng giống như lừa và ngựa
    vốn không hiểu biết gì.
Người ta phải dùng hàm khớp và dây cương để dắt dẫn,
    nếu không chúng sẽ chẳng chịu đến gần con.”

10 Kẻ ác gặp nhiều nỗi khổ đau
    nhưng tình yêu CHÚA bao phủ những kẻ tin cậy Ngài.
11 Hỡi những người nhân đức,
    hãy hớn hở vui mừng trong CHÚA.
Còn những ai có lòng ngay thẳng,
    hãy ca hát lên.

Thánh Thi Đa-vít Để Dạy Dỗ

32 Phước cho người nào
    Có sự vi phạm được tha thứ,
    Tội lỗi mình được khỏa lấp.
Phước cho người nào
    CHÚA không quy tội ác cho,
    Và trong tâm linh không có sự gian dối.
Khi tôi nín lặng,
    Xương cốt tôi tiêu mòn
    Và rên siết suốt ngày.
Vì ngày đêm,
    Tay Ngài đè nặng trên tôi,
Sinh lực[a] tôi tiêu hao[b]
    Như sương gặp nắng hạ.
Tôi đã thú tội cùng Ngài,
    Không giấu tội ác tôi.
Tôi nói: “Tôi sẽ xưng
    Các sự vi phạm tôi cùng CHÚA,
Và Ngài đã tha thứ
    Tội lỗi gian ác tôi.”
Vì vậy, hết thảy những người trung tín,[c]
    Hãy cầu nguyện cùng Ngài đang khi có thể gặp được.
Dù khi có nước lụt lớn dâng lên
    Cũng không đụng đến người.
Ngài là nơi trú ẩn cho tôi,
    Ngài gìn giữ tôi khỏi hoạn nạn,
    Ngài bao phủ tôi bằng những bài ca[d] giải cứu.
Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải đi.
    Mắt Ta hằng chăm nom, cố vấn ngươi.[e]
Đừng như con ngựa, con la,
    Là vật vô tri;
Phải dùng hàm thiếc, dây cương để kiềm chế miệng nó.
    Nếu không, chúng sẽ không đến gần ngươi.
10 Kẻ ác có nhiều nỗi đau đớn,
    Nhưng người tin cậy CHÚA
    Được tình yêu thương bao phủ họ.
11 Hỡi những người trung tín,
    Hãy vui mừng và hân hoan trong CHÚA.
Hỡi những người có lòng ngay thẳng,
    Hãy reo mừng.

Footnotes

  1. 32:4 Nt: nước cốt
  2. 32:4 Nt: thay đổi
  3. 32:6 Ctd: các thánh; người kính sợ Chúa
  4. 32:7 Ctd: tiếng hô vang
  5. 32:8 Nt: mắt ta trên ngươi

Lời cầu nguyện xin Chúa tha thứ

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít soạn khi nhà tiên tri Na-than khiển trách ông sau khi ông phạm tội với Bát-sê-ba.

51 Thượng Đế ôi, xin hãy đối nhân từ cùng tôi vì Ngài là Đấng thành tín.
    Xin hãy xoá sạch các sai lầm tôi
    vì Ngài là Đấng vị tha.
Xin hãy rửa tội lỗi tôi
    và làm cho tôi tinh sạch trở lại.
Tôi biết các sai lầm tôi,
    tôi không bao giờ quên chúng được.
Tôi đã phạm tội với riêng Chúa;
    làm điều Chúa ngăn cấm.
Ngài rất công minh khi phán xử,
    và phán quyết Ngài dành cho tôi rất công bằng.
Tôi chào đời trong vi phạm.
    Mẹ tôi sinh tôi ra trong tội lỗi.
Chúa muốn tôi hoàn toàn chân thật,
    nên xin hãy dạy tôi khôn ngoan.
Xin cất lấy tội lỗi tôi thì tôi sẽ tinh sạch [a].
    Hãy rửa tôi thì tôi sẽ trắng
    hơn tuyết.
Xin cho tôi nghe tiếng mừng rỡ
    và hân hoan;
Xin hãy làm cho các xương cốt tôi mà Chúa đã bẻ gãy được vui sướng trở lại.
Xin hãy ngoảnh mặt làm ngơ khỏi các tội lỗi tôi
    và lau sạch mọi gian ác tôi.
10 Lạy Thượng Đế, xin hãy tạo
    một tấm lòng trong sạch
    trong tôi và chỉnh đốn tâm linh tôi lại.
11 Xin đừng đuổi tôi đi khỏi mặt Ngài
    hay cất Thánh Linh Ngài
    ra khỏi tôi.
12 Xin hãy ban lại cho tôi niềm vui vẻ về sự cứu rỗi Chúa.
    Xin giữ tôi vững mạnh qua ý muốn sẵn lòng.
13 Rồi tôi sẽ dạy đường lối Ngài cho những kẻ làm quấy,
    và tội nhân sẽ quay về cùng Ngài.
14 Lạy Chúa là Thượng Đế của sự cứu rỗi tôi,
    xin giải cứu tôi khỏi tội giết người [b],
    rồi tôi sẽ hát ngợi ca sự nhân từ Ngài.
15 Lạy Chúa, xin cho phép tôi nói
    để tôi ca ngợi Ngài.
16 Chúa không thích của lễ,
    nếu không thì tôi đã dâng.
    Ngài không màng của lễ thiêu.
17 Của lễ đẹp lòng Ngài là tấm lòng tan vỡ.
Lạy Thượng Đế, Ngài không gạt bỏ
    tấm lòng tan vỡ và hối hận.

18 Xin Chúa hãy làm điều tốt lành
    cho Giê-ru-sa-lem theo ý muốn Ngài.
Xin hãy xây lại vách thành Giê-ru-sa-lem
19 rồi Chúa sẽ vui lòng nhận sinh tế [c] và của lễ toàn thiêu,
    và người ta sẽ dâng bò đực trên bàn thờ Ngài.

Footnotes

  1. Thánh Thi 51:7 Xin cất lấy … sẽ tinh sạch Nguyên văn, “Xin lấy nhành kinh giới tẩy sạch tội lỗi tôi.” Xem “kinh giới” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  2. Thánh Thi 51:14 xin giải cứu … giết người Hay “xin tha chết cho tôi.”
  3. Thánh Thi 51:19 Chúa sẽ … sinh tế Hay “của lễ công chính thì Chúa vui lòng nhận.”

Tiên Tri Na-than Đến Gặp Đa-vít Sau Khi Người Đến Với Bà Bát-sê-ba

51 Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi
    Tùy theo tình yêu thương Chúa.
Vì lòng thương xót dư dật của Ngài,
    Xin xóa bỏ các vi phạm tôi.
Xin rửa sạch mọi gian ác tôi,
    Và luyện sạch các tội lỗi tôi.
Vì tôi nhận biết các vi phạm tôi,
    Tội lỗi tôi hằng ở trước mặt tôi.
Tôi đã phạm tội cùng Ngài, chỉ một mình Ngài thôi.
    Tôi đã làm điều ác trước mặt Ngài,
Cho nên Ngài là công bình khi tuyên án,
    Ngài là chính đáng[a] khi phán xét.
Thật vậy,[b] tôi vốn gian ác từ khi sinh ra,[c]
    Tôi vốn tội lỗi từ khi được hoài thai trong bụng mẹ.[d]
Này, Ngài muốn sự chân thật nơi bề trong cũng như nơi sâu kín của lòng tôi.
    Xin Ngài dạy tôi sự khôn ngoan.[e]
Xin Ngài dùng nhánh bài hương tẩy sạch tôi, thì tôi sẽ tinh sạch.
    Xin Ngài rửa tôi thì tôi sẽ trắng hơn tuyết.
Xin cho tôi nghe tiếng vui vẻ và mừng rỡ,
    Nguyện xương cốt mà Ngài đã đánh gẫy được vui mừng.
Xin Ngài ngoảnh mặt đừng để ý đến các tội lỗi tôi,
    Và xóa bỏ mọi gian ác tôi.
10 Đức Chúa Trời ôi, xin tạo nên trong tôi một tấm lòng trong sạch
    Và làm mới lại trong tôi một tâm linh chân chính.[f]
11 Xin chớ xua đuổi tôi khỏi trước mặt Ngài,
    Cũng đừng cất thánh linh Ngài khỏi tôi.
12 Xin phục hồi cho tôi niềm vui của sự cứu rỗi Ngài.
    Xin ban cho tôi một tinh thần sẵn sàng để giữ vững tôi.[g]
13 Tôi sẽ dạy các đường lối Ngài cho những kẻ vi phạm,
    Và những kẻ tội lỗi sẽ quay về cùng Ngài.
14 Lạy Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời cứu rỗi tôi,
    Xin giải cứu tôi khỏi tội đổ huyết[h]
    Thì lưỡi tôi sẽ lớn tiếng ca ngợi sự công chính Ngài.
15 Lạy Chúa, xin mở môi tôi,
    Thì miệng tôi sẽ ca ngợi Ngài.
16 Vì Ngài không vui lòng về tế lễ hy sinh,
    Bằng không tôi đã dâng.[i] Tế lễ thiêu Ngài cũng không thích.
17 Tế lễ hy sinh đẹp lòng Đức Chúa Trời[j] là tâm thần tan vỡ.
    Đức Chúa Trời ôi, tấm lòng ăn năn tan vỡ
    Ngài không khinh bỉ đâu.
18 Theo lòng nhân từ Ngài, xin ban phúc lành[k] cho Si-ôn.
    Xin xây dựng[l] các tường thành Giê-ru-sa-lem.
19 Bấy giờ, Ngài sẽ vui lòng về các tế lễ công chính,[m]
    Tế lễ thiêu và tế lễ toàn thiêu.
    Bấy giờ, bò đực sẽ được dâng trên bàn thờ Ngài.

Footnotes

  1. 51:4 Ctd: không có gì đáng trách
  2. 51:5 Ctd: kìa
  3. 51:5 Nt: tôi sinh ra trong gian ác
  4. 51:5 Nt: mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi
  5. 51:6 Ctd: Này, Ngài muốn sự thật nơi bề trong, xin dạy tôi sự khôn ngoan
  6. 51:10 Ctd: vững chắc
  7. 51:12 Ctd: xin ban cho tôi một thần linh sẵn sàng để nâng đỡ tôi
  8. 51:14 Ctd: khỏi phạm tội đổ huyết
  9. 51:16 Ctd: nếu tôi có dâng tế lễ thiêu Ngài cũng không thích
  10. 51:17 Nt: tế lễ hy sinh của Đức Chúa Trời
  11. 51:18 Ctd: thịnh vượng
  12. 51:18 Ctd: xây dựng lại
  13. 51:19 Ctd: “các tế lễ đúng nghi thức” hoặc “các tế lễ dâng trong tinh thần công chính”