II Sử Ký 6
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version
Sô-lô-môn nói chuyện với dân chúng
6 Sau đó Sô-lô-môn nói, “CHÚA phán Ngài sẽ ở trong đám mây đen kịt. 2 Lạy Chúa, tôi đã xây một đền thờ nguy nga cho Ngài, một nơi để Ngài ngự đời đời.”
3 Trong khi toàn dân Ít-ra-en đang đứng đó thì vua Sô-lô-môn quay về phía họ, chúc phước cho họ. 4 Ông nói, “Đáng ca ngợi CHÚA, là Thượng Đế của Ít-ra-en. Ngài đã thực hiện điều Ngài hứa cùng cha tôi là Đa-vít. CHÚA phán, 5 ‘Từ khi ta mang dân ta ra khỏi Ai-cập, ta chưa hề chọn một thành nào trong các chi tộc Ít-ra-en để xây đền thờ cho ta. Ta cũng không chọn ai hướng dẫn dân Ít-ra-en ta cả. 6 Nhưng nay ta đã chọn Ít-ra-en làm nơi thờ phụng ta, và chọn Đa-vít để hướng dẫn dân ta.’
7 Cha ta là Đa-vít muốn xây một đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 8 Nhưng CHÚA phán cùng Đa-vít cha ta rằng, ‘Ý ngươi muốn xây đền thờ cho ta rất tốt. 9 Nhưng ngươi sẽ không phải là người xây đền đó. Con trai ngươi, tức con sinh ra từ lòng ngươi, là kẻ sẽ xây đền thờ cho ta.’ 10 Nay CHÚA đã giữ lời hứa của Ngài. Ta hiện làm vua thay Đa-vít, cha ta. Ta đang trị vì trên Ít-ra-en theo như CHÚA hứa, và ta đã xây một đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 11 Nơi đó ta đặt Rương, trong đó có Giao Ước CHÚA lập với dân Ít-ra-en.”
Lời cầu nguyện của Sô-lô-môn
12 Rồi Sô-lô-môn đứng đối diện bàn thờ CHÚA, toàn dân Ít-ra-en đứng phía sau ông. Ông giơ tay ra. 13 Ông đã làm một cái bục bằng đồng dài ba thước, rộng ba thước, cao một thước rưỡi, đặt giữa sân ngoài của đền thờ. Sô-lô-môn đứng trên bục. Rồi ông quì xuống trước mặt cả dân Ít-ra-en đang tụ họp tại đó, giơ tay lên hướng lên trời. 14 Ông thưa, “Lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, trên trời dưới đất không có thần nào giống như Ngài. Ngài giữ giao ước về tình yêu với tôi tớ nào của Ngài thực tâm theo Ngài. 15 Ngài đã giữ lời hứa đã lập cùng Đa-vít, cha tôi, kẻ tôi tớ Ngài. Chính miệng Ngài đã phán và hôm nay tay Ngài đã thực hiện điều ấy. 16 Bây giờ, lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, xin hãy giữ lời hứa Ngài cùng Đa-vít, cha tôi, kẻ tôi tớ Ngài. Ngài phán, ‘Nếu con cháu ngươi cẩn thận vâng giữ các lời giáo huấn của ta đã làm thì trong dòng họ ngươi sẽ luôn luôn có người trị vì trên Ít-ra-en.’ 17 Bây giờ, lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, xin hãy giữ lời hứa ấy mà Ngài lập cùng tôi tớ Ngài.
18 Nhưng Thượng Đế ôi, có quả thật Ngài cư ngụ trên đất với loài người không? Bầu trời và nơi cao nhất trên thiên đàng còn không chứa nổi Ngài nữa huống chi là tòa nhà nầy mà tôi xây cho Ngài. 19 Nhưng xin hãy lắng nghe lời khẩn cầu của tôi vì tôi là kẻ tôi tớ CHÚA. Lạy CHÚA là Thượng Đế tôi, xin hãy lắng nghe lời khẩn xin nầy của kẻ tôi tớ Ngài. 20 Ngày và đêm xin hãy trông chừng đền thờ nầy là nơi Ngài phán Ngài sẽ được sùng bái. Xin hãy nghe lời cầu nguyện của tôi hướng về đền thờ nầy. 21 Xin hãy nghe lời khẩn cầu của tôi và của dân Ít-ra-en Ngài khi chúng tôi hướng về nơi nầy mà cầu xin. Từ nơi ở Ngài trên trời xin hãy lắng nghe, và khi nghe xin Ngài tha tội cho chúng tôi.
22 Nếu có ai làm thiệt hại người khác, nó sẽ được mang đến đền thờ nầy. Nếu nó thề rằng nó không gây ra chuyện đó, 23 thì xin Ngài từ trời hãy nghe. Hãy phân xử trường hợp đó, phạt kẻ có tội, nhưng giải oan cho người vô tội.
24 Khi dân Ít-ra-en của Ngài phạm tội cùng Ngài và bị kẻ thù đánh bại. Nếu họ trở lại cùng Ngài, ca ngợi và khẩn cầu Ngài trong đền thờ nầy, 25 thì xin Ngài từ trời hãy nghe. Xin tha tội cho dân Ít-ra-en của Ngài và mang họ về xứ mà Ngài đã ban cho họ và tổ tiên họ.
26 Khi họ phạm tội cùng Ngài, và Ngài ngăn không cho mưa xuống đất. Họ sẽ khẩn cầu, hướng về nơi nầy và ca ngợi Ngài; và khi Ngài trừng phạt họ thì họ sẽ không phạm tội nữa. 27 Nếu vậy thì xin Ngài từ trời hãy nghe, tha thứ tội lỗi cho tôi tớ Ngài là dân Ít-ra-en. Xin hãy dạy họ làm điều phải và xin ban mưa xuống đất nầy là đất Ngài đã cho riêng họ.
28 Nếu khi đất gặp hạn hán không trồng trọt được, hay nếu có bệnh dịch hành hại dân chúng, nếu mùa màng bị cào cào hay châu chấu tiêu hủy, hoặc nếu dân sự Ngài bị kẻ thù tấn công trong các thành, hay nếu họ bị bệnh, 29 nếu có những chuyện đó thì dân chúng sẽ thực lòng ăn năn. Nếu dân Ngài giơ tay ra hướng về đền thờ nầy mà khẩn cầu, 30 thì xin CHÚA từ nơi ở Ngài trên trời lắng nghe. Xin tha tội và xử mỗi người thật phải lẽ vì Ngài biết rõ lòng dạ con người. Chỉ một mình Ngài thấu rõ tâm tư con người.
31 Bao lâu họ còn sống trên đất nầy mà Ngài đã ban cho tổ tiên chúng tôi thì dân chúng sẽ tôn kính Ngài bấy lâu.
32 Những người không phải Ít-ra-en, tức những kiều dân từ các xứ khác, sẽ nghe về sự uy nghi và quyền năng Ngài. Họ sẽ đến từ những nơi rất xa để cầu nguyện trong đền thờ nầy. 33 Xin Ngài từ trời hãy ban cho họ điều họ nài xin. Lúc đó dân chúng khắp nơi sẽ biết và tôn kính Ngài như dân Ít-ra-en Ngài đã làm vậy. Rồi mọi người sẽ biết rằng tôi đã xây đền thờ nầy dùng làm nơi thờ phụng Ngài.
34 Khi dân Ngài đi ra chiến đấu cùng kẻ thù dọc theo đường Ngài đưa họ đi, họ sẽ khẩn nguyện cùng Ngài, hướng về thành nầy là nơi Ngài đã chọn và nơi có đền thờ mà tôi đã xây cho Ngài. 35 Xin Ngài hãy từ trời nghe lời khẩn cầu của họ và đối xử công bằng cho họ.
36 Ai cũng phạm tội, cho nên dân Ngài cũng có thể phạm tội cùng Ngài. Ngài sẽ nổi giận cùng họ, trao họ vào tay quân thù. Kẻ thù sẽ bắt họ đày đi sang xứ xa hay gần. 37 Dân sự Ngài sẽ ăn năn tội khi họ bị làm tù binh nơi xứ khác. Họ sẽ hối hận và khẩn cầu cùng Ngài trong xứ họ bị làm tù binh. Họ sẽ thưa rằng, ‘Chúng tôi đã phạm tội. Chúng tôi quả làm quấy và hành động gian ác.’ 38 Họ sẽ thực tâm quay về cùng Ngài trong xứ họ bị làm tù binh. Họ sẽ khẩn cầu, hướng về xứ nầy là xứ Ngài ban cho tổ tiên họ, thành nầy mà Ngài đã chọn, và đền thờ nầy mà tôi đã xây cho Ngài. 39 Xin hãy nghe lời cầu khẩn của họ từ nơi ở của Ngài trên trời và hãy làm điều gì Ngài cho là phải. Xin tha tội cho dân Ngài là dân đã phạm tội cùng Ngài. 40 Bây giờ, lạy Thượng Đế, xin hãy nhìn đến chúng tôi. Xin hãy lắng nghe lời cầu nguyện của chúng tôi tại nơi nầy.
41 Lạy CHÚA là Thượng Đế xin hãy đứng dậy đến nơi nghỉ ngơi của Ngài.
Xin hãy đến cùng Rương Giao Ước để tỏ ra quyền năng Ngài.
Lạy CHÚA là Thượng Đế,
nguyện các thầy tế lễ Ngài nhận sự cứu rỗi của Ngài,
và nguyện dân thánh của Ngài vui mừng vì lòng nhân từ Ngài.
42 Lạy CHÚA là Thượng Đế,
xin đừng từ bỏ kẻ được Ngài chỉ định.
Xin nhớ lại tình yêu Ngài đối cùng Đa-vít, kẻ tôi tớ Ngài.”
2 Paralipomeno 6
Ang Dating Biblia (1905)
6 Nang magkagayo'y nagsalita si Salomon, Ang Panginoo'y nagsabi na siya'y tatahan sa salimuot na kadiliman,
2 Nguni't ipinagtayo kita ng isang bahay na tahanan, at isang dako na ukol sa iyo na tahanan magpakailan man.
3 At ipinihit ng hari ang kaniyang mukha, at binasbasan ang buong kapisanan ng Israel: at ang buong kapisanan ng Israel ay tumayo.
4 At kaniyang sinabi, Purihin ang Panginoon, ang Dios ng Israel, na nagsalita ng kaniyang bibig kay David na aking ama, at tinupad ng kaniyang mga kamay, na sinasabi,
5 Mula sa araw na aking ilabas ang aking bayan mula sa lupain ng Egipto, hindi ako pumili ng siyudad mula sa lahat ng mga lipi ng Israel upang pagtayuan ng bahay, upang ang aking pangalan ay dumoon; o pumili man ako ng sinomang lalake upang maging pangulo sa aking bayang Israel:
6 Kundi aking pinili ang Jerusalem upang ang aking pangalan ay dumoon; aking pinili si David upang mamahala sa aking bayang Israel.
7 Nasa puso nga ni David na aking ama ang ipagtayo ng isang bahay ang pangalan ng Panginoon, ang Dios ng Israel.
8 Nguni't sinabi ng Panginoon kay David na aking ama, Yamang nasa iyong puso ang ipagtayo ng isang bahay ang aking pangalan, mabuti ang iyong ginawa na inakala mo sa iyong puso;
9 Gayon ma'y hindi mo itatayo ang bahay; kundi ang iyong anak na lalabas sa iyong mga balakang ay siyang magtatayo ng bahay na ukol sa aking pangalan.
10 At tinupad ng Panginoon ang kaniyang salita na kaniyang sinalita; sapagka't ako'y bumangon na kahalili ni David na aking ama, at umupo sa luklukan ng Israel, gaya ng ipinangako ng Panginoon, at nagtayo ako ng bahay na ukol sa pangalan ng Panginoon, ng Dios ng Israel.
11 At doo'y aking inilagay ang kaban na kinaroroonan ng tipan ng Panginoon, na kaniyang ginawa sa mga anak ni Israel.
12 At siya'y tumayo sa harap ng dambana ng Panginoon sa harapan ng buong kapisanan ng Israel, at iniunat ang kaniyang mga kamay:
13 (Sapagka't gumawa si Salomon ng isang tungtungang tanso, na may limang siko ang haba, at limang siko ang luwang, at tatlong siko ang taas, at inilagay sa gitna ng looban; at sa ibabaw niyao'y tumayo siya, at lumuhod ng kaniyang mga tuhod sa harap ng buong kapisanan ng Israel, at iginawad ang kaniyang mga kamay sa dakong langit:)
14 At kaniyang sinabi, Oh Panginoon ang Dios ng Israel, walang Dios na gaya mo, sa langit o sa lupa; na nagiingat ng tipan at ng kaawaan sa iyong mga lingkod, na nagsisilakad sa harap mo ng kanilang buong puso:
15 Na siyang tumupad sa iyong lingkod na kay David na aking ama, ng iyong ipinangako sa kaniya: oo, ikaw ay nagsalita ng iyong bibig, at tinupad mo ng iyong kamay, gaya sa araw na ito.
16 Ngayon nga, Oh Panginoon, ang Dios ng Israel, tuparin mo sa iyong lingkod na kay David na aking ama ang iyong ipinangako sa kaniya, na iyong sinasabi, Hindi magkukulang sa iyo ng lalake sa aking paningin na uupo sa luklukan ng Israel; kung ang iyong mga anak lamang ay magsisipagingat ng kanilang lakad, na magsisilakad sa aking kautusan, gaya ng inilakad mo sa harap ko.
17 Ngayon nga, Oh Panginoon, ang Dios ng Israel, papangyarihin mo ang iyong salita na iyong sinalita sa iyong lingkod na kay David.
18 Nguni't katotohanan bang ang Dios ay tatahang kasama ng mga tao sa lupa? narito, sa langit, at sa langit ng mga langit ay hindi ka magkasiya; gaano pa nga sa bahay na ito na aking itinayo!
19 Gayon ma'y iyong pakundanganan ang dalangin ng iyong lingkod, at ang kaniyang samo, Oh Panginoon kong Dios, na dinggin ang daing at ang dalangin na idinadalangin ng iyong lingkod sa harap mo:
20 Na anopa't ang iyong mga mata ay idilat sa dako ng bahay na ito araw at gabi, sa makatuwid baga'y sa gawi ng dakong iyong pinagsabihan na iyong ilalagay ang iyong pangalan doon: upang dinggin ang dalangin na idadalangin ng iyong lingkod sa dakong ito.
21 At dinggin mo ang mga samo ng iyong lingkod, at ng iyong bayang Israel, pagka sila'y dadalangin sa gawi ng dakong ito: oo, dinggin mo mula sa iyong tahanang dako, sa makatuwid baga'y mula sa langit; at pagka iyong narinig ay patawarin mo.
22 Kung ang isang tao ay magkasala laban sa kaniyang kapuwa, at papanumpain siya upang siya'y sumumpa, at siya'y pumarito at manumpa sa harap ng iyong dambana sa bahay na ito:
23 Dinggin mo nga sa langit, at iyong gawin, at hatulan mo ang iyong mga lingkod, na papagbayarin ang masama, upang iyong dalhin ang kaniyang lakad sa kaniyang sariling ulo: at patotohanan ang matuwid, upang bigyan siya ng ayon sa kaniyang katuwiran.
24 At kung ang iyong bayang Israel ay masaktan sa harap ng kaaway, dahil sa sila'y nagkasala laban sa iyo, at magbabalik-loob, at kikilalanin ang iyong pangalan, at mananalangin at mamamanhik sa harap mo sa bahay na ito:
25 Dinggin mo nga sa langit, at ipatawad mo ang sala ng iyong bayang Israel, at dalhin mo sila uli sa lupain na iyong ibinigay sa kanila at sa kanilang mga magulang.
26 Pagka ang langit ay nasarhan, at walang ulan, dahil sa sila'y nagkasala laban sa iyo: kung sila'y dumalangin sa gawi ng dakong ito, at kilalanin ang iyong pangalan, at talikdan ang kanilang kasalanan, pagka iyong pinagdadalamhati sila:
27 Dinggin mo nga sa langit, at ipatawad mo ang kasalanan ng iyong mga lingkod, at ng iyong bayang Israel, pagka iyong tinuturuan sila ng mabuting daan na kanilang lalakaran; at hulugan mo ng ulan ang iyong lupain na iyong ibinigay sa iyong bayan na pinakamana.
28 Kung magkaroon ng kagutom sa lupain, kung magkaroon ng salot, kung magkaroon ng pagkalanta o amag, balang o tipaklong; kung kubkubin sila ng kanilang mga kaaway sa lupain ng kanilang mga bayan; anomang salot o anomang sakit na magkaroon;
29 Anomang dalangin at samo na gawin ng sinomang tao, o ng iyong buong bayang Israel, pagka makikilala ng bawa't isa ang kaniyang sariling salot at ang kaniyang sariling sakit, at igagawad ang kaniyang mga kamay sa dako ng bahay na ito:
30 Dinggin mo nga sa langit na iyong tahanang dako, at iyong ipatawad, at gantihin mo ang bawa't tao, ng ayon sa lahat niyang mga lakad, na ang puso ay iyong natataho: (sapagka't ikaw, sa makatuwid baga'y ikaw lamang, ang nakatataho ng mga puso ng mga anak ng mga tao;)
31 Upang sila'y mangatakot sa iyo, upang magsilakad sa iyong mga daan, samantalang sila'y nangabubuhay sa lupain na iyong ibinigay sa aming mga magulang.
32 Bukod dito'y tungkol sa taga ibang lupa, na hindi sa iyong bayang Israel, pagka siya'y magbubuhat sa isang malayong lupain dahil sa iyong dakilang pangalan, at sa iyong makapangyarihang kamay, at sa iyong unat na bisig; pagka sila'y magsisiparito at magsisidalangin sa dako ng bahay na ito:
33 Dinggin mo nga sa langit, sa makatuwid baga'y sa iyong tahanang dako, at gawin mo ang ayon sa lahat na itawag sa iyo ng taga ibang lupa; upang makilala ng lahat ng mga bayan sa lupa ang iyong pangalan, at mangatakot sa iyo, na gaya ng iyong bayang Israel, at upang kanilang makilala na ang bahay na ito na aking itinayo ay tinatawag sa pamamagitan ng iyong pangalan.
34 Kung ang iyong bayan ay lumabas sa pakikipagbaka laban sa kanilang mga kaaway, saan mo man sila suguin, at manalangin sa iyo sa dako ng bayang ito na iyong pinili, at sa dako ng bahay na aking itinayo na ukol sa iyong pangalan:
35 Dinggin mo nga sa langit ang kanilang dalangin at ang kanilang samo, at alalayan mo ang kanilang usap.
36 Kung sila'y magkasala laban sa iyo, (sapagka't walang tao na di nagkakasala,) at ikaw ay magalit sa kanila, at ibigay mo sila sa kaaway, na anopa't sila'y dalhing bihag sa isang lupaing malayo o malapit;
37 Gayon ma'y kung sila'y magbulay sa kanilang sarili sa lupain na pagdadalhang bihag sa kanila, at magbalik-loob, at sumamo sa iyo sa lupain ng kanilang pagkabihag, na sasabihin, Kami ay nangagkasala, kami ay nagsigawa ng kalikuan, at nagsigawa ng kasamaan;
38 Kung sila'y nangagbalik-loob sa iyo ng buong puso nila at ng buong kaluluwa nila sa lupain ng kanilang pagkabihag, saan man sila dalhing bihag, at manalangin sa dako ng kanilang lupain na iyong ibinigay sa kanilang mga magulang, at ng bayan na iyong pinili, at sa dako ng bahay na aking itinayo na ukol sa iyong pangalan:
39 Dinggin mo nga sa langit, sa makatuwid baga'y sa iyong tahanang dako, ang kanilang dalangin at ang kanilang mga pamanhik, at alalayan mo ang kanilang usap; at patawarin mo ang iyong bayan na nagkasala laban sa iyo.
40 Ngayon, Oh Dios ko, isinasamo ko sa iyo na iyong idilat ang iyong mga mata, at pakinggan ng iyong mga pakinig ang dalangin na gawin sa dakong ito.
41 Ngayon nga'y bumangon ka, Oh Panginoong Dios, sa iyong pahingahang dako, ikaw, at ang kaban ng iyong kalakasan: suutan mo ng kaligtasan, Oh Panginoong Dios, ang iyong mga saserdote, at ang iyong mga banal ay mangagalak sa kabutihan.
42 Oh Panginoon, Dios, huwag mong papihitin ang mukha ng iyong pinahiran ng langis: alalahanin mo ang iyong mga kaawaan kay David na iyong lingkod.
II Sử Ký 6
Bản Dịch 2011
Cung Hiến Ðền Thờ
6 Bấy giờ Sa-lô-môn nói, “Chúa đã phán rằng, Ngài ngự giữa mây mù đen mịt, 2 và con thật được vinh dự xây cho Ngài một Ðền Thờ tráng lệ, làm một nơi để Ngài ngự đời đời.”
Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân
3 Kế đó vua quay lại và chúc phước cho toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng I-sơ-ra-ên đang đứng. 4 Ông nói, “Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng đã dùng tay Ngài làm trọn mọi điều miệng Ngài đã hứa với Ða-vít cha tôi rằng, 5 ‘Từ ngày Ta đem dân Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn thành nào của bất cứ chi tộc nào trong dân I-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ, hầu danh Ta có thể ngự tại đó, và Ta cũng đã không chọn ai để làm người lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta. 6 Nhưng Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để danh Ta ngự tại đó, và đã chọn Ða-vít làm người lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta.’
7 Lúc ấy Ða-vít cha tôi có ý xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, 8 nhưng Chúa đã phán với Ða-vít cha tôi rằng, ‘Ngươi quả có ý tốt, khi lòng ngươi muốn xây một Ðền Thờ cho danh Ta. 9 Tuy nhiên ngươi sẽ không xây Ðền Thờ ấy cho Ta đâu, nhưng con trai ngươi, kẻ do ngươi sinh ra, sẽ xây Ðền Thờ ấy cho danh Ta.’
10 Chúa đã làm thành những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên kế vị của Ða-vít cha tôi và được ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên như Chúa đã phán, và tôi cũng đã xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 11 Ðây nầy tôi đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có đựng giao ước Chúa đã lập với dân I-sơ-ra-ên.”
Sa-lô-môn Cầu Nguyện Cung Hiến Ðền Thờ
(1 Vua 6:22-51)
12 Bấy giờ ông đứng trước bàn thờ Chúa, trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, và đưa hai tay lên trời. 13 Số là Sa-lô-môn đã làm một bục bằng đồng, chiều ngang hai mét rưỡi, chiều dọc hai mét rưỡi, và chiều cao bảy tấc rưỡi, và đặt bục đó ở giữa sân. Ông đứng trên bục ấy; rồi trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên ông quỳ xuống, đưa hai tay lên trời, 14 và cầu nguyện rằng:
“Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay ở dưới đất thấp nầy. Ngài giữ giao ước và bày tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài, những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 15 Ngài đã giữ những lời Ngài đã phán với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con. Ðiều miệng Ngài đã phán thì ngày nay chính tay Ngài đã thực hiện. 16 Vậy bây giờ, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Ða-vít cha con rằng, ‘Ngươi sẽ không bao giờ thiếu một kẻ kế vị để ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên trước mặt Ta, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận trong đường lối chúng, bước đi trước mặt Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 17 Vì vậy, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, cầu xin Ngài thực hiện những lời Ngài đã hứa với Ða-vít tôi tớ Ngài.
18 Nhưng Ðức Chúa Trời có ở với người phàm trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa được Ngài thay, huống chi Ðền Thờ con xây cất cho Ngài đây. 19 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin lắng nghe lời cầu xin và khẩn nguyện tôi tớ Ngài dâng lên trước thánh nhan Ngài. 20 Nguyện mắt Ngài ngày đêm đoái xem Ðền Thờ nầy, nơi Ngài phán, ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây mà cầu nguyện. 21 Cầu xin Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và của I-sơ-ra-ên dân Ngài, mỗi khi họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. Từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
22 Khi có ai phạm tội đối với người khác, và người ta bắt kẻ ấy phải thề, nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong Ðền Thờ nầy, 23 thì từ thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động, và xét xử các tôi tớ Ngài. Xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu nhận lấy hậu quả tội lỗi của nó, và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho người ấy vì sự ngay lành của người ấy.
24 Khi dân I-sơ-ra-ên của Ngài phạm tội đối với Ngài và bị đánh bại trước mặt quân thù, nhưng nếu họ biết quay về với Ngài, xưng nhận danh Ngài, cầu nguyện, và van xin Ngài trong Ðền Thờ nầy, 25 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội của dân I-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ trở về xứ sở Ngài đã ban cho họ và cho tổ tiên họ.
26 Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất, vì họ phạm tội đối với Ngài, nhưng sau đó họ biết hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xưng nhận danh Ngài, lìa bỏ tội lỗi của họ, vì Ngài đã sửa phạt họ, 27 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, tức dân I-sơ-ra-ên của Ngài, xin chỉ dạy họ con đường tốt họ phải đi, và xin ban mưa xuống xứ sở Ngài ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
28 Khi trong xứ gặp nạn đói, khi họ gặp phải ôn dịch, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù đến vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị ôn dịch nào, bất cứ họ bị chứng bịnh gì, 29 nhưng có cá nhân nào hay toàn dân I-sơ-ra-ên của Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của họ, đưa tay ra hướng về Ðền Thờ nầy mà cầu nguyện và nài xin, 30 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, và báo trả mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng họ, và tùy theo các đường lối của họ –vì chỉ một mình Ngài biết rõ mọi sự trong lòng người– 31 hầu họ sẽ kính sợ Ngài và bước đi trong đường lối Ngài trọn đời của họ, trong xứ Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con.
32 Ngoài ra khi có người ngoại quốc nào, không phải là dân I-sơ-ra-ên của Ngài, từ một xứ xa xăm đến đây vì đã được nghe về đại danh của Ngài, về tay quyền năng của Ngài, và về cánh tay Ngài đã đưa ra, khi họ đến và hướng về Ðền Thờ nầy mà cầu nguyện, 33 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và đoái nhậm mọi điều người ngoại quốc đó cầu xin với Ngài, hầu mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân I-sơ-ra-ên của Ngài đã làm, và thiên hạ sẽ biết rằng Ðền Thờ nầy mà con đã xây được gọi bằng danh Ngài.
34 Khi dân Ngài phải ra chiến trận đối phó với quân thù ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đến, khi họ hướng về thành nầy, thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 35 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ.
36 Khi họ phạm tội đối với Ngài –vì chẳng ai là không phạm tội– khiến Ngài giận họ và phó họ cho quân thù; chúng bắt họ đem đi lưu đày biệt xứ, bất kể xa hay gần; 37 nhưng nếu đang lúc ở trong xứ lưu đày, họ biết tỉnh ngộ, ăn năn, và kêu cầu với Ngài trong xứ họ bị lưu đày, mà rằng, ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai lầm, chúng con đã làm việc gian tà,’ 38 nếu họ hết lòng và hết linh hồn ăn năn quay về với Ngài trong xứ họ bị lưu đày, và từ nơi họ bị đem đi lưu đày, họ hướng về xứ Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về thành Ngài đã chọn, và về Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 39 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ của họ, và xin Ngài tha thứ cho dân Ngài, những người đã phạm tội đối với Ngài.
40 Bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của con, cầu xin Ngài luôn để mắt nhìn và để tai nghe những lời cầu nguyện dâng lên từ nơi nầy.
41 Vậy bây giờ, lạy Chúa Hằng Hữu,[a] xin trỗi dậy và ngự đến nơi nghỉ ngơi của Ngài,
Xin Ngài và Rương quyền năng của Ngài.
Lạy Chúa Hằng Hữu, nguyện các tư tế của Ngài mặc lấy ơn cứu rỗi,
Nguyện những người trung tín tin thờ Ngài được vui vẻ vì phước hạnh Ngài ban.
42 Lạy Chúa Hằng Hữu, xin đừng loại bỏ người được xức dầu của Ngài,
Xin nhớ lại tình thương vô đối Ngài dành cho Ða-vít đầy tớ Ngài.”
Footnotes
- II Sử Ký 6:41 nt: Adonai Yahweh
© 2010 Bible League International
Copyright © 2011 by Bau Dang