Add parallel Print Page Options

Ao ước được ở trong đền thờ Chúa

Soạn cho nhạc trưởng để dùng với đàn ghi-tít. Bài ca của con cháu Cô-rê.

84 Lạy Chúa Toàn Năng, đền thờ Ngài thật đẹp!
Tôi chỉ ao ước được ở trong sân của đền thờ Ngài.
    Con người tôi chỉ muốn hát ca ngợi Thượng Đế hằng sống.
Con chim sẻ tìm được nơi ở,
    và chim én tìm được nơi xây tổ.
Chúng nó nuôi con gần bàn thờ Ngài.
Phúc cho người được sống trong đền thờ Ngài;
    họ sẽ luôn luôn ca ngợi Ngài. Xê-la

Phúc cho người nhận được sức lực từ nơi Ngài,
    tức những người muốn đi đến Giê-ru-sa-lem.
Đang khi họ đi qua thung lũng Ba-ca,
    họ sẽ biến nó ra suối nước.
Mưa thu làm ngập các vũng nước.
Họ càng bước tới Giê-ru-sa-lem càng sung sức,
    mỗi người ra mắt Thượng Đế
    tại đó.

Lạy Thượng Đế Toàn Năng,
    xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi,
Thượng Đế của Gia-cốp ôi, xin hãy lắng nghe tôi. Xê-la

Lạy Thượng Đế, Đấng che chở [a] chúng tôi;
    xin hãy đối xử nhân từ cùng vua mà Ngài đã bổ nhiệm.
10 Một ngày trong sân đền thờ Thượng Đế,
    quí hơn một ngàn ngày ở nơi khác.
Tôi thà giữ làm người gác cửa cho đền thờ Chúa,
    hơn là sống trong nhà kẻ ác.
11 Chúa là Thượng Đế giống như mặt trời và cái thuẫn;
Chúa ban nhân từ và vinh dự.
    Ngài không từ chối ban những điều tốt cho những ai ăn ở lương thiện.
12 Lạy Chúa Toàn Năng, phúc cho những ai tin cậy nơi Ngài.

Lời cầu nguyện cho quốc gia

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca ngợi của con cháu Cô-rê.

85 Lạy Chúa, Ngài đã tỏ lòng nhân từ cùng đất nước Ngài;
    Ngài mang con dân Gia-cốp
    trở về.
Ngài tha thứ lầm lỡ của họ
    và xóa bỏ tội lỗi họ. Xê-la

Ngài không còn tức giận;
    và thu hồi cơn thịnh nộ Ngài.
Lạy Thượng Đế là Đấng Cứu Chuộc chúng tôi,
    xin hãy mang chúng tôi trở về.
Xin đừng giận chúng tôi nữa.
Ngài sẽ giận chúng tôi mãi sao?
    Ngài vẫn còn tức giận từ đời nầy sang đời kia sao?
Ngài sẽ không khiến chúng tôi sống lại nữa sao?
    Dân Ngài sẽ vui mừng trong Ngài.
Lạy Chúa, xin hãy tỏ ra tình yêu Ngài và cứu chúng tôi.

Tôi sẽ lắng nghe lời Chúa là Thượng Đế tôi.
Ngài nói về sự an bình cho dân Ngài và những người thờ kính Ngài.
    Họ không nên trở lại con đường ngu dại nữa.
Thượng Đế sẽ sớm cứu những kẻ kính sợ Ngài,
    và đất nước chúng ta sẽ nhận được vinh hiển Ngài [b].
10 Tình yêu và lòng trung tín của Chúa sẽ gặp nhau;
    sự công chính và hoà bình sẽ chào nhau,
    để ban phúc cho dân Ngài.
11 Sự trung thành sẽ mọc lên từ đất,
    và sự công chính sẽ nhìn xuống từ trời [c].
12 Thật vậy, Chúa sẽ ban những điều tốt lành,
    đất đai chúng ta sẽ sinh sản hoa màu.
13 Sự công chính sẽ đi trước Thượng Đế để dọn đường cho Ngài.

Lời kêu cứu

Lời cầu nguyện của Đa-vít.

86 Chúa ôi, xin hãy nghe và đáp lời tôi,
    vì tôi khốn khổ và bị áp bức.
Xin hãy bảo vệ tôi vì tôi trung thành với Ngài.
    Xin hãy cứu tôi, kẻ tôi tớ
    hằng tin cậy nơi Ngài, là Thượng Đế tôi.
Lạy Chúa, xin hãy thương xót tôi vì suốt ngày tôi kêu cầu cùng Ngài.
Lạy Chúa, xin ban hạnh phúc cho tôi, kẻ tôi tớ Chúa,
    vì Chúa ôi, tôi dâng mạng sống tôi cho Ngài.
Lạy Chúa, Ngài nhân từ và hay tha thứ,
    Ngài hằng tỏ lòng yêu thương lớn lao cho những kẻ kêu xin Ngài.
Chúa ôi, xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi,
    lắng nghe khi tôi nài xin ơn thương xót.
Tôi kêu cầu Ngài đang khi gặp khốn khó vì Ngài đáp lời tôi.
Lạy Chúa, không có thần nào giống như Ngài,
    cũng không có công việc nào giống công việc Chúa làm.
Lạy Chúa, các nước mà Ngài đã lập sẽ đến thờ phụng Ngài.
    Họ sẽ tôn trọng Ngài.
10 Ngài là Đấng cao cả và hay làm những điều kỳ diệu.
    Chỉ một mình Chúa là Thượng Đế.
11 Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi biết
    ý muốn Ngài,
    thì tôi sẽ sống bằng chân lý Ngài.
Xin dạy cho đời tôi biết hết lòng kính sợ Ngài.
12 Lạy Chúa là Thượng Đế tôi,
    tôi sẽ hết lòng ca ngợi Ngài,
    và tôn kính danh Chúa muôn đời.
13 Ngài đã tỏ tình yêu lớn lao đối với tôi.
    Ngài đã cứu tôi khỏi chết.
14 Lạy Thượng Đế, bọn kiêu căng tấn công tôi;
    một lũ côn đồ tìm cách giết tôi.
Chúng không kính sợ Ngài.
15 Nhưng Chúa ơi, Ngài là Thượng Đế giàu lòng thương xót và nhân từ.
    Ngài chậm giận, dạt dào tình yêu và thành tín.
16 Xin hãy quay qua tôi và tỏ lòng thương xót.
Xin thêm sức cho kẻ tôi tớ Chúa.
    Xin hãy cứu vớt con trai [d] của tớ gái Ngài.
17 Xin hãy tỏ dấu hiệu rằng Ngài lo cho tôi.
Để các kẻ thù của tôi nhìn thấy
    thì chúng sẽ bị xấu hổ
    vì Ngài là Đấng giúp đỡ và an ủi tôi.

Footnotes

  1. Thánh Thi 84:9 Đấng che chở Hay “cái thuẫn” hoặc “cái khiên.”
  2. Thánh Thi 85:9 đất nước … vinh hiển Ngài Hay “Chúng ta sẽ sống vinh hiển trong đất nước.”
  3. Thánh Thi 85:11 Sự trung thành … xuống từ trời Nghĩa là “Mọi người trên đất sẽ trung thành với Ngài, còn Thượng Đế sẽ tỏ lòng nhân từ với họ.”
  4. Thánh Thi 86:16 con trai Hay “con trai trung thành của Ngài.”

Dâng đời sống mình cho Thượng Đế

12 Thưa anh chị em, vì Thượng Đế đã tỏ lòng từ ái lớn lao với chúng ta như thế nên tôi nài xin anh chị em hãy dâng đời mình [a] làm của lễ sống và thánh cho Ngài; đó chính là cách thờ phụng thiêng liêng của anh chị em. Đừng rập khuôn theo người thế gian, nhưng hãy thay đổi từ bên trong theo tư tưởng mới. Như thế anh chị em sẽ phân biệt được ý muốn của Thượng Đế, đồng thời sẽ biết những gì tốt đẹp, toàn hảo và vừa lòng Ngài.

Vì Thượng Đế đã cho tôi một ân tứ đặc biệt, cho nên tôi khuyên mỗi một người trong anh chị em: Đừng tự đánh giá mình quá cao hơn con người thật của mình mà phải hiểu rõ mình đúng theo lượng đức tin mà Thượng Đế đã cho. Mỗi người chúng ta có một thân thể gồm nhiều bộ phận. Mỗi bộ phận làm một nhiệm vụ riêng. Cũng thế, chúng ta tuy gồm nhiều người nhưng trong Đấng Cứu Thế cũng chỉ cùng một thân mà thôi. Mỗi người trong chúng ta là một bộ phận trong thân thể ấy, và mỗi bộ phận lệ thuộc vào những bộ phận khác. Chúng ta có nhiều ân tứ khác nhau theo ân phúc mà Thượng Đế cho chúng ta. Ai được ân tứ nói tiên tri hãy dùng ân tứ ấy cho hợp với đức tin. Ai có ân tứ phục vụ hãy chuyên tâm phục vụ. Ai có ân tứ dạy dỗ hãy sốt sắng dạy dỗ. Ai có ân tứ khích lệ người khác hãy khích lệ. Ai có ân tứ dâng hiến hãy dâng hiến rộng rãi. Ai có ân tứ lãnh đạo hãy lãnh đạo hết mình. Còn ai có ân tứ tỏ lòng nhân đức đối với người khác hãy hớn hở tỏ lòng nhân đức.

Tình yêu của anh chị em phải chân thật. Hãy ghét điều ác mà mến điều thiện. 10 Hãy yêu nhau như anh chị em trong gia đình. Hãy coi trọng người khác hơn mình. 11 Đừng biếng nhác nhưng hãy siêng năng, hết lòng phục vụ Chúa. 12 Hãy vui lên vì anh em đầy hi vọng. Lúc gặp khó khăn, hãy nhẫn nhục, phải luôn luôn khẩn nguyện. 13 Hãy san sẻ đồ cần dùng với các con cái Chúa đang gặp thiếu thốn. Hãy tiếp khách lạ vào nhà.

14 Hãy chúc lành cho người làm hại mình; hãy chúc lành, đừng nguyền rủa. 15 Hãy vui với kẻ vui, buồn với kẻ buồn. 16 Hãy sống hòa thuận với nhau. Đừng tự phụ nhưng hãy thân thiện với người kém hơn mình. Đừng tự cho mình là khôn ngoan.

17 Ai làm hại mình điều gì, đừng trả đũa. Hãy cố gắng làm điều phải trước mặt mọi người. 18 Nếu có thể được, hãy cố gắng sống hòa thuận đối với mọi người. 19 Các bạn thân mến của tôi ơi, đừng trả thù kẻ làm hại mình nhưng hãy chờ Thượng Đế trừng phạt họ trong cơn giận của Ngài, như có viết rằng, “Ta sẽ phạt người làm ác; ta sẽ báo trả,” [b] Chúa phán vậy.

20 Nhưng các anh chị em phải làm thế nầy,

“Nếu kẻ thù mình đói, hãy cho họ ăn;
    nếu họ khát, hãy cho họ uống.
Làm như thế sẽ khiến họ xấu hổ. [c](A)

21 Đừng để điều ác thắng mình mà hãy lấy thiện thắng ác.

Footnotes

  1. Rô-ma 12:1 đời mình Nguyên văn, “thân thể.” Phao-lô dùng hình ảnh của sinh tế trong thời Cựu Ước để trình bày một sự tận hiến chính mình cho Chúa.
  2. Rô-ma 12:19 Ta sẽ … báo trả Phục 32:35.
  3. Rô-ma 12:20 sẽ khiến họ xấu hổ Nguyên văn, “đổ than lửa hồng trên đầu họ.” Dân chúng thời Cựu Ước thường rắc tro lên đầu để chứng tỏ sự hối hận hay đau buồn.