Añadir traducción en paralelo Imprimir Opciones de la página

Giô-áp quở trách Đa-vít

19 Dân chúng bảo Giô-áp, “Xem kìa! Vua buồn rầu và than khóc Áp-xa-lôm.” Hôm đó quân Đa-vít thắng trận. Nhưng ngày vui lại hóa ra buồn thảm cho mọi người vì họ nghe vua rất buồn bực vì con mình chết.

Mọi người lặng lẽ đi vào thành hôm đó. Ai nấy đều giống như một đạo quân thua trận bỏ chạy. Vua trùm mặt và khóc lớn, “Áp-xa-lôm, con ơi! Áp-xa-lôm, con ơi là con!”

Giô-áp đi vào cung và bảo, “Hôm nay bệ hạ đã sỉ nhục tất cả các người theo bệ hạ. Họ đã cứu mạng sống bệ hạ, mạng sống con trai, con gái, vợ và các hầu thiếp bệ hạ. Nhưng bệ hạ đã làm nhục họ vì bệ hạ thương những người ghét bệ hạ và ghét những người thương bệ hạ. Hôm nay bệ hạ đã cho mọi người thấy rõ là các cấp chỉ huy của bệ hạ và các người theo bệ hạ chẳng có nghĩa gì đối với bệ hạ cả. Nếu Áp-xa-lôm còn sống còn tất cả chúng tôi đây đều chết chắc bệ hạ hài lòng lắm phải không? Bây giờ xin bệ hạ đi ra ủy lạo các tôi tớ bệ hạ. Tôi chỉ danh CHÚA mà thề rằng nếu bệ hạ không bước ra thì đêm nay sẽ không còn người nào ở bên bệ hạ cả! Như thế còn tệ hại hơn những khốn đốn mà bệ hạ đã trải qua từ hồi trẻ cho đến hôm nay.”

Vì thế vua đi ra cửa thành [a]. Khi được tin vua ra cửa thành thì mọi người đi ra chào hỏi vua.

Đa-vít chiếm lại ngôi vua

Tất cả những người Ít-ra-en đi theo Áp-xa-lôm đều đã chạy trốn về nhà mình.

Dân chúng trong các chi tộc Ít-ra-en bắt đầu cãi nhau rằng, “Vua đã giải cứu chúng ta khỏi người Phi-li-tin và các kẻ thù khác nhưng phải bỏ xứ ra đi vì Áp-xa-lôm. 10 Chúng ta cử Áp-xa-lôm cai trị chúng ta nhưng bây giờ ông đã chết trong chiến trận. Chúng ta nên cử Đa-vít làm vua trở lại.”

11 Vua Đa-vít nhắn Xa-đốc và A-bia-tha là các thầy tế lễ rằng, “Hãy bảo các bô lão Giu-đa như sau, ‘Ngồi trong nhà ta cũng nghe dân Ít-ra-en bàn tán. Như thế tại sao các ngươi lại là chi tộc cuối cùng đưa ta về cung? 12 Các ngươi là anh em, thân tộc ta. Tại sao các ngươi là chi tộc cuối cùng mang vua trở về?’ 13 Hãy bảo A-ma-sa, ‘Ngươi là thân tộc ta. Nếu ta không cử ngươi làm chỉ huy quân đội thế cho Giô-áp, nguyện CHÚA phạt ta nặng nề!’”

14 Thế là Đa-vít được lòng toàn dân Giu-đa ngay. Họ sai người nhắn vua, “Xin bệ hạ hãy trở về cùng các người đi theo.”

15 Vậy Đa-vít trở về đến sông Giô-đanh. Người Giu-đa ra Ghinh-ganh đón vua đưa qua sông Giô-đanh.

Si-mê-i xin Đa-vít tha thứ

16 Si-mê-i, con Ghê-ra, người Bên-gia-min ở Ba-hu-rim, vội vàng cùng những người Giu-đa ra đón vua Đa-vít. 17 Cùng đi với Si-mê-i, có một ngàn người Bên-gia-min. Xi-ba, tôi tớ của nhà Sau-lơ cũng ra đón mang theo mười lăm con trai và hai mươi tôi tớ. Họ vội vàng đi đến sông Giô-đanh để đón vua.

18 Dân chúng đi qua sông Giô-đanh để giúp đưa gia đình vua trở về Giu-đa và làm những gì Đa-vít cần. Khi vua đi ngang qua sông thì Si-mê-i, con Ghê-ra đến gặp vua và cúi sấp mặt xuống đất trước mặt vua. 19 Hắn thưa với vua, “Thưa chúa, xin đừng kết tội tôi. Xin đừng nhớ lầm lỗi tôi khi vua rời Giê-ru-sa-lem. Xin đừng để bụng giận tôi. 20 Tôi biết mình có lỗi. Vì thế mà tôi là người đầu tiên từ nhà Giô-xép [b] xuống đón vua và chúa tôi hôm nay!”

21 Nhưng A-bi-sai, con Xê-ru-gia bảo, “Thằng Si-mê-i phải chết vì nó đã chửi rủa ngài, là vua được CHÚA bổ nhiệm [c]!”

22 Đa-vít bảo, “Con Xê-ru-gia ơi, việc nầy không can hệ gì đến ngươi! Đừng làm trái ý ta. Sẽ không có ai trong Ít-ra-en bị xử tử ngày hôm nay. Hôm nay ta sẽ làm vua trên Ít-ra-en!”

23 Rồi vua hứa cùng Si-mê-i, “Ngươi sẽ không chết đâu.” [d]

Mê-phi-bô-sết đến thăm Đa-vít

24 Mê-phi-bô-sết, cháu Sau-lơ [e], cùng đi xuống đón vua Đa-vít. Mê-phi-bô-sết không chăm sóc chân đau, không cạo râu và cũng không giặt áo quần từ ngày nhà vua rời Giê-ru-sa-lem cho đến khi vua trở về bình yên. 25 Khi Mê-phi-bô-sết từ Giê-ru-sa-lem ra đón vua thì vua hỏi, “Mê-phi-bô-sết, tại sao ngươi không đi với ta?”

26 Người đáp, “Thưa chúa, Xi-ba, kẻ tôi tớ tôi gạt tôi! Tôi bảo Xi-ba, ‘Tao bị liệt cho nên hãy chuẩn bị yên cương cho lừa để ta đi theo với vua.’ 27 Nhưng nó dối tôi về bệ hạ. Ngài, chúa và vua tôi, như thiên sứ của Thượng Đế. Ngài hãy làm điều gì ngài cho là phải. 28 Bệ hạ có thể giết cả gia đình ông nội [f] tôi. Nhưng bệ hạ lại cho tôi chung bàn với bệ hạ cho nên tôi đâu dám xin gì thêm nữa từ bệ hạ!”

29 Vua bảo ông, “Thôi đừng nói gì thêm nữa. Ta đã định rằng ngươi và Xi-ba sẽ chia nhau đất.”

30 Mê-phi-bô-sết thưa với vua, “Thôi hãy để cho Xi-ba lấy hết đất đi vì bây giờ vua đã trở về nhà bình yên rồi.”

Đa-vít muốn thưởng cho Bát-xi-lai

31 Bát-xi-lai người miền Ghi-lê-át cũng từ Rô-ghê-lim cũng đến giúp vua băng qua sông Giô-đanh. 32 Bát-xi-lai đã tám mươi tuổi, già lắm rồi. Ông đã chăm lo cho vua từ khi Đa-vít còn ở Ma-ha-na-im, vì Bát-xi-lai rất giàu. 33 Đa-vít bảo Bát-xi-lai, “Hãy băng qua sông ở với ta tại Giê-ru-sa-lem, ta sẽ lo cho ngươi.”

34 Nhưng Bát-xi-lai thưa, “Bệ hạ có biết tôi bao nhiêu tuổi không? Bệ hạ có nghĩ rằng tôi có thể đi nổi với bệ hạ đến Giê-ru-sa-lem không? 35 Tôi đã tám mươi rồi! Ăn uống không còn biết mùi vị gì. Tôi già rồi đâu còn nghe tiếng hát của nam nữ ca sĩ được nữa. Sao bệ hạ bận tâm về tôi làm gì? 36 Tôi không đáng nhận phần thưởng gì từ bệ hạ nhưng tôi sẽ băng qua sông Giô-đanh với bệ hạ. 37 Xong rồi để tôi đi về chết trong thành tôi, gần mồ mả của cha mẹ tôi. Nhưng đây là Kim-ham, tôi tớ tôi. Để nó đi theo hầu vua chúa tôi. Bệ hạ cần dùng nó việc gì cũng được.”

38 Vua đáp, “Thôi được, Kim-ham sẽ đi với ta. Ta sẽ làm cho nó bất cứ điều gì ngươi muốn, và ta sẽ làm cho ngươi bất cứ điều gì ngươi ao ước.”

Đa-vít trở về nhà

39 Tất cả quân sĩ băng qua sông Giô-đanh trước, vua còn ở lại. Rồi vua hôn Bát-xi-lai và chúc phước cho ông. Bát-xi-lai trở về nhà mình.

40 Khi vua qua đến Ghinh-ganh thì Kim-ham đi theo. Tất cả các quân sĩ của Giu-đa và phân nửa quân sĩ Ít-ra-en hộ tống vua qua sông Giô-đanh.

Người Ít-ra-en và người Giu-đa cãi nhau

41 Người Ít-ra-en liền đến gặp vua hỏi, “Tại sao thân nhân chúng tôi là người Giu-đa, cướp vua đi? Tại sao họ mang bệ hạ và gia đình bệ hạ cùng những người theo bệ hạ băng qua sông Giô-đanh?”

42 Tất cả người Giu-đa trả lời người Ít-ra-en rằng, “Chúng tôi làm như thế nầy vì vua là thân nhân cật ruột của chúng tôi. Sao các ngươi tức giận làm gì? Chúng tôi không có ăn nhờ gì của vua hay lấy vật gì riêng cho chúng tôi cả!”

43 Người Ít-ra-en đáp với người Giu-đa, “Chúng tôi có mười chi tộc [g] của Đa-vít, cho nên chúng tôi có nhiều quyền đối với Đa-vít hơn các ngươi! Nhưng các ngươi không thèm đếm xỉa gì đến chúng tôi cả! Chính chúng tôi là những người đầu tiên bàn định việc mang vua trở về!”

Nhưng người Giu-đa ăn nói gay gắt hơn người Ít-ra-en.

Sê-ba xúi giục Ít-ra-en ly khai

20 Tình cờ có một kẻ gây rối tên Sê-ba, con trai Bích-ri từ chi tộc Bên-gia-min có mặt ở đó. Hắn thổi kèn và tuyên bố:

“Chúng ta không có phần gì với Đa-vít!
Chúng ta không liên quan gì đến con trai Gie-sê!
    Hỡi dân Ít-ra-en, hãy trở về nhà mình!”

Vậy toàn dân Ít-ra-en [h] ly khai Đa-vít và đi theo Sê-ba, con trai Bích-ri. Nhưng người Giu-đa theo Đa-vít suốt từ sông Giô-đanh cho đến Giê-ru-sa-lem.

Đa-vít trở về cung vua ở Giê-ru-sa-lem. Ông đã để lại mười cung nữ để chăm sóc cung vua. Sau khi về, ông bắt tất cả phải ở trong cung cấm [i]. Ông cho họ ăn uống nhưng không ăn nằm với họ nữa. Cho nên họ sống như góa phụ cho đến ngày qua đời.

Vua nói với A-ma-sa, “Hãy bảo người Giu-đa ba ngày nữa trình diện ta, ngươi cũng phải có mặt ở đây.”

Vậy A-ma-sa đi ra tập họp người Giu-đa nhưng làm chậm chạp hơn thời hạn vua dặn.

Đa-vít ra lệnh cho A-bi-sai giết Sê-ba

Đa-vít bảo A-bi-sai, “Sê-ba, con trai Bích-ri còn nguy hiểm cho chúng ta hơn cả Áp-xa-lôm nữa. Hãy mang quân lính ta đuổi theo nó trước khi nó tìm được các thành có vách kiên cố và trốn thoát khỏi tay chúng ta.”

Vậy những quân sĩ của Giô-áp, người Kê-rê-thít, và Phê-rê-thít [j], cùng tất cả binh sĩ đều đi theo A-bi-sai. Họ từ Giê-ru-sa-lem đổ ra rượt theo Sê-ba, con Bích-ri.

Giô-áp giết A-ma-sa

Khi Giô-áp và đạo quân đến tảng đá lớn ở Ghi-bê-ôn thì A-ma-sa đi ra gặp họ. Giô-áp đang mặc quân phục, bên hông mang cái đai xỏ cây gươm trong vỏ. Khi Giô-áp bước tới thì gươm tuột ra khỏi vỏ. Giô-áp hỏi A-ma-sa, “Anh ơi, mọi việc đều tốt đẹp cả chứ?”

Rồi ông giơ tay phải ra nắm râu A-ma-sa để hôn. 10 A-ma-sa không coi chừng cây giáo trong tay Giô-áp. Giô-áp liền đâm vào bụng A-ma-sa khiến ruột đổ ra trên đất. Giô-áp không phải đâm lại lần thứ nhì vì A-ma-sa chết rồi.

Quân của Đa-vít truy lùng Sê-ba

Sau đó Giô-áp và em mình là A-bi-sai rượt theo Sê-ba, con Bích-ri. 11 Một trong các chàng thanh niên theo Giô-áp đứng bên cạnh xác A-ma-sa bảo, “Ai theo phe Giô-áp và Đa-vít hãy đi theo Giô-áp!”

12 A-ma-sa đang nằm chết trong vũng máu giữa đường. Khi chàng thanh niên thấy ai nấy cũng dừng lại nhìn xác thì lôi xác ra khỏi đường, để nằm trong một đám ruộng, rồi lấy một miếng vải phủ lên. 13 Sau khi xác A-ma-sa được kéo ra khỏi đường cái thì tất cả người đi theo Giô-áp rượt đuổi Sê-ba, con Bích-ri.

Sê-ba chạy trốn đến A-bên Bết-Ma-a-ca

14 Sê-ba đi suốt hết các chi tộc Ít-ra-en cho đến A-bên Bết-Ma-a-ca. Tất cả dân Bê-ri [k] đều họp lại đi theo hắn.

15 Giô-áp và quân lính đi theo đến bao vây A-bên Bết-Ma-a-ca. Họ đắp đất sát vách thành và bắt đầu chọc phá vách để cho nó đổ xuống.

16 Nhưng có một người đàn bà khôn khéo từ trong thành kêu lên, “Nghe đây, nghe đây! Làm ơn bảo Giô-áp đến đây. Tôi muốn nói chuyện với ông ta!”

17 Vậy Giô-áp đến gần bà. Bà hỏi, “Ông phải Giô-áp không?”

Ông đáp, “Phải.”

Bà tiếp, “Nghe tôi nói đây.”

Giô-áp đáp, “Tôi nghe đây.”

18 Người đàn bà bảo, “Trước đây người ta hay nói, ‘Hãy đi hỏi ý kiến A-bên,’ thì vấn đề sẽ được giải quyết xong xuôi. 19 Tôi là một trong những người hiếu hòa, trung thành của Ít-ra-en. Ông đang tìm cách tiêu hủy một thành quan trọng của Ít-ra-en. Tại sao ông phải tiêu hủy tài sản của CHÚA?”

20 Giô-áp trả lời, “Ta đâu có muốn tiêu hủy hay phá hại vật gì đâu! 21 Đó không phải là ý định của ta. Nhưng ở đây có một người từ vùng núi Ép-ra-im tên Sê-ba, con Bích-ri. Hắn phản nghịch vua Đa-vít. Nếu các ngươi giải hắn đến cho ta, ta sẽ không đụng gì đến thành cả.”

Người đàn bà bảo Giô-áp, “Người ta sẽ ném đầu hắn qua vách thành cho ông.”

22 Người đàn bà liền khôn khéo đi nói chuyện với dân trong thành. Họ cắt đầu Sê-ba, con Bích-ri và ném qua vách thành cho Giô-áp.

Ông thổi kèn, quân lính liền rời bỏ thành. Ai nấy trở về nhà, còn Giô-áp đi trở về với vua ở Giê-ru-sa-lem.

Những người thuộc bộ tham mưu của Đa-vít

23 Giô-áp làm tư lệnh toàn quân Ít-ra-en. Bê-na-gia, con Giê-hô-gia-đa chỉ huy người Kê-rê-thít và Bê-lê-thít. 24 A-đô-ram coi sóc toán lao công. Giê-hô-sa-phát, con A-li-hút là lục sự. 25 Sê-ba là bí thư của vua. Xa-đốc và A-bia-tha làm thầy tế lễ, 26 còn Y-ra, người Giai-rít làm thầy tế lễ riêng [l] cho Đa-vít.

Notas al pie

  1. II Sa-mu-ên 19:8 cửa thành Nơi họp công cộng.
  2. II Sa-mu-ên 19:20 nhà Giô-xép Đây có thể là những người Ít-ra-en đã theo Áp-xa-lôm. Nhiều khi danh từ Ép-ra-im (một trong các con của Giô-xép) được dùng để chỉ tất cả các chi tộc miền Bắc Ít-ra-en.
  3. II Sa-mu-ên 19:21 vua được CHÚA bổ nhiệm Nguyên văn, “Vua được xức dầu.”
  4. II Sa-mu-ên 19:23 “Ngươi sẽ không chết đâu.” Đa-vít không giết Si-mê-i nhưng mấy năm sau đó Sô-lô-môn, con Đa-vít ra lệnh giết Si-mê-i. Xem I Vua 2:44-46.
  5. II Sa-mu-ên 19:24 cháu Sau-lơ Nguyên văn, “con.”
  6. II Sa-mu-ên 19:28 ông nội Nguyên văn, “cha.”
  7. II Sa-mu-ên 19:43 mười chi tộc Giu-đa và Bên-gia-min là hai chi tộc sau nầy lập thành vương quốc Giu-đa sau khi quốc gia bị phân đôi. Mười chi tộc kia thuộc vương quốc Ít-ra-en.
  8. II Sa-mu-ên 20:2 Ít-ra-en Đây là mười chi tộc không liên kết với Giu-đa.
  9. II Sa-mu-ên 20:3 ông bắt … trong cung cấm Áp-xa-lôm, con trai Đa-vít đã ăn nằm với các cung nữ ấy cho nên họ không còn được sủng ái nữa. Xem II Sam 16:21-22.
  10. II Sa-mu-ên 20:7 người Kê-rê-thít, và Phê-rê-thít Tức toán chiến sĩ tinh nhuệ của Đa-vít. Xem thêm câu 23.
  11. II Sa-mu-ên 20:14 dân Bê-ri Bản Hi-lạp và La-tinh ghi “dân Bích-ri.”
  12. II Sa-mu-ên 20:26 thầy tế lễ riêng Hay “quản gia” hoặc “cố vấn.”

Người Ghi-bê-ôn trừng phạt gia đình Sau-lơ

21 Vào thời Đa-vít trị xảy ra nạn đói trong ba năm. Cho nên Đa-vít cầu nguyện cùng CHÚA. CHÚA đáp, “Sau-lơ và gia đình người có nợ máu [a]. Đó là nguyên nhân của nạn đói nầy vì chúng nó giết hại người Ghi-bê-ôn.” Người Ghi-bê-ôn không phải là người Ít-ra-en, họ chỉ là một nhóm người A-mô-rít được cho sống sót. Người Ít-ra-en đã hứa không làm hại [b] người Ghi-bê-ôn nhưng Sau-lơ tìm cách giết họ vì ông ta muốn giúp người Ít-ra-en và Giu-đa.

Vua Đa-vít gọi người Ghi-bê-ôn lại nói chuyện. Ông hỏi, “Bây giờ các ngươi muốn ta làm gì đây? Làm sao ta có thể đền bù thiệt hại để các ngươi chúc phước cho dân CHÚA?”

Người Ghi-bê-ôn thưa với Đa-vít, “Chúng tôi không thể đòi bạc hay vàng từ Sau-lơ hay gia đình ông ta. Chúng tôi cũng không có quyền giết ai trong Ít-ra-en.”

Đa-vít liền hỏi, “Vậy các ngươi muốn ta làm gì cho các ngươi đây?”

Người Ghi-bê-ôn đáp, “Sau-lơ lập mưu nghịch và tìm cách giết hại những người chúng tôi còn sống sót trong xứ Ít-ra-en. Cho nên xin giao nộp bảy con trai Sau-lơ cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ giết chúng và treo trên các cây sào trước mặt CHÚA ở Ghi-bê-a, quê quán của Sau-lơ, vua được CHÚA chọn [c].”

Vua đáp, “Ta sẽ trao chúng nó cho các ngươi.” Nhưng vua che chở Mê-phi-bô-sết, con Giô-na-than, cháu Sau-lơ, vì lời vua đã hứa cùng Giô-na-than [d] trong danh CHÚA. Vua bắt Át-mô-ni và Mê-phi-bô-sết [e], các con trai của Rít-ba và Sau-lơ. Rít-ba là con gái của Ai-gia. Vua cũng bắt năm con trai của Mê-ráp, con gái Sau-lơ. A-ri-ên, con của Bát-xi-lai người Mê-hô-la là cha của năm đứa con trai, con của Mê-ráp. Đa-vít trao bảy người con đó cho dân Ghi-bê-ôn. Người Ghi-bê-ôn liền giết chúng treo thây trên các cây sào trên đồi trước mặt CHÚA. Bảy người đều cùng chết. Chúng bị xử tử vào những ngày đầu của mùa gặt lúa mạch.

Đa-vít và Rít-ba

10 Rít-ba, con gái Ai-gia lấy vải sô đã cũ làm khăn tang và trải trên một tảng đá [f]. Nàng ở đó từ lúc bắt đầu mùa gặt cho đến khi mưa rơi xuống trên thây của các con trai mình. Ban ngày nàng đuổi không cho chim trời đến rỉa xác, và ban đêm không cho muông thú đến gần.

11 Dân chúng thuật lại cho Đa-vít hay việc Rít-ba, con gái Ai-gia, hầu thiếp của Sau-lơ làm. 12 Đa-vít liền thu nhặt hài cốt của Sau-lơ và Giô-na-than từ dân Gia-be ở Ghi-lê-át. Người Phi-li-tin đã treo xác Sau-lơ và Giô-na-than nơi phố chợ ở Bết-San [g] sau khi họ giết Sau-lơ ở Ghinh-bô-a. Sau đó dân Gia-be ở Ghi-lê-át đến lấy trộm xác họ ở đó. 13 Đa-vít mang hài cốt của Sau-lơ và Giô-na-than, con trai ông từ Ghi-lê-át về. Rồi dân chúng gom các thây của bảy con trai Sau-lơ bị treo trên cây sào. 14 Họ chôn hài cốt Sau-lơ và con trai ông là Giô-na-than ở Xê-la thuộc đất Bên-gia-min, trong mộ của Kích, cha Sau-lơ. Dân chúng làm y theo điều vua truyền dặn. Sau đó Thượng Đế nghe lời cầu nguyện cho xứ.

Chiến tranh với dân Phi-li-tin

15 Chiến tranh lại bùng nổ giữa dân Phi-li-tin và dân Ít-ra-en. Đa-vít và quân sĩ ông đi ra đánh dân Phi-li-tin, nhưng Đa-vít cảm thấy mệt mỏi lắm. 16 Ích-bi Bê-nốp, một trong các con cháu của Ra-pha [h] có một cây giáo đồng mà lưỡi nó nặng bảy cân rưỡi và các vũ khí mới. Hắn dọa giết Đa-vít, 17 nhưng A-bi-sai, con Xê-ru-gia giết người Phi-li-tin ấy, cứu sống Đa-vít.

Các quân sĩ của Đa-vít bảo ông rằng, “Xin bệ hạ đừng bao giờ ra trận với chúng tôi nữa vì nếu bệ hạ thiệt mạng, Ít-ra-en sẽ mất đi một lãnh tụ vĩ đại nhất.”

18 Sau đó có một trận đánh khác với dân Phi-li-tin ở Góp. Xíp-bê-cai người Hu-sa giết Xáp, một trong những con cháu khác của Ra-pha.

19 Sau đó lại có thêm một trận đánh nữa với dân Phi-li-tin ở Góp. Ên-ha-nan, con trai của Gia-rê Ô-rê-ghim ở Bết-lê-hem, giết La-mi, anh của Gô-li-át, người Gát [i]. Cái giáo hắn lớn như trục thợ dệt.

20 Ngoài ra cũng xảy ra một trận đánh nữa ở Gát. Ở đó có một người khổng lồ. Hắn có sáu ngón trên bàn tay và sáu ngón trên bàn chân, tức hai mươi bốn ngón tất cả. Hắn cũng là một trong những con cháu của Ra-pha. 21 Khi hắn sỉ nhục Ít-ra-en thì Giô-na-than, con Si-mê-a, anh Đa-vít, giết hắn.

22 Như thế bốn con cháu của Ra-pha miền Gát đều bị Đa-vít và binh sĩ ông giết chết.

Bài ca của Đa-vít

22 [j] Đa-vít ca bày nầy cho CHÚA sau khi Ngài đã giải cứu ông khỏi Sau-lơ và các thù nghịch khác.

Ông nói:
“CHÚA là tảng đá, nguồn che chở tôi,
    Đấng Cứu Rỗi tôi.
CHÚA là khối đá, nơi tôi chạy đến ẩn núp.
    Ngài là cái thuẫn và là sức mạnh cứu tôi, [k]
Đấng bênh vực và là nơi trú ẩn tôi.
    CHÚA cứu tôi khỏi mọi kẻ muốn làm hại tôi.
Tôi kêu cầu cùng CHÚA,
    Ngài là Đấng đáng được ca ngợi.
Tôi sẽ được giải thoát khỏi tay kẻ thù.

Các làn sóng chết vây quanh tôi;
    sông sự chết bao phủ tôi.
Các dây sự chết quấn chặt tôi.
    Bẫy sự chết ở trước tôi.
Trong cảnh khốn cùng, tôi kêu xin cùng CHÚA.
    Tôi van xin Ngài giúp đỡ.
Từ đền thờ Ngài, CHÚA nghe tiếng tôi;
    Lời kêu cứu tôi thấu đến tai CHÚA.
Đất rung chuyển mạnh.
    Các nền trời bị lay động.
Chúng rung chuyển vì CHÚA nổi giận.
Khói xịt ra từ lỗ mũi Ngài,
    miệng Ngài phát ra ngọn lửa hừng,
    than cháy đỏ đi trước mặt Ngài.
10 CHÚA xé toạc các từng trời và ngự xuống,
trong đám mây đen kịt dưới chân.
11 Ngài cỡi thú có cánh và bay.
Ngài lượn trên cánh gió.
12 CHÚA dùng bóng tối che phủ mình,
    nơi ở Ngài có mây mù vây kín.
13 Từ sự hiện diện rực rỡ của Ngài
phát ra sấm sét.
14 CHÚA làm sấm rền từ trời;
    Đấng Tối Cao gầm lên,
15 Ngài bắn tên làm quân thù chạy tán loạn.
    Sấm chớp khiến chúng lúng túng
    và kinh hãi.
16 CHÚA nạt một tiếng.
    Gió thổi ra từ lỗ mũi Ngài.
Các đáy biển sâu lộ ra,
và các nền lục địa phơi bày.

17 Từ trên cao CHÚA với tay đỡ tôi;
    Ngài kéo tôi lên khỏi đáy nước sâu.
18 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù mạnh hơn tôi,
    khỏi tay kẻ ghét tôi,
    vì chúng nó mạnh hơn tôi.
19 Trong cơn khốn khó chúng tấn công tôi,
    nhưng CHÚA nâng đỡ tôi.
20 Ngài đưa tôi đến chỗ an toàn.
    Vì ưa thích tôi nên Ngài cứu tôi.

21 Ngài để tôi sống vì tôi làm điều ngay thẳng.
    Ngài ban thưởng tôi vì tôi không làm điều gian ác.
22 Tôi đã đi theo đường lối CHÚA dạy;
    Tôi không làm điều ác bằng cách quay khỏi CHÚA.
23 Tôi không quên luật lệ CHÚA,
    không vi phạm qui tắc của Ngài.
24 Tôi trong sạch trước mặt CHÚA;
    tôi tránh không làm điều ác.
25 CHÚA thưởng tôi vì tôi làm điều ngay thẳng,
    vì tôi làm điều đẹp ý CHÚA.

26 Lạy CHÚA, người nào trung kiên,
    thì Ngài cũng trung kiên lại,
    người nào chính trực
    thì Ngài cũng tỏ lòng chính trực lại.
27 CHÚA thánh sạch đối với kẻ thánh sạch,
    nhưng Ngài nghịch lại kẻ gian ác.
28 Ngài cứu người khiêm nhường,
    nhưng hạ kẻ tự phụ xuống.
29 Lạy CHÚA, Ngài ban ánh sáng cho ngọn đèn của tôi.
    Thượng Đế chiếu sáng chỗ tối quanh tôi.
30 Nhờ Ngài giúp đỡ, tôi có thể tấn công cả đạo binh.
    Nhờ Ngài yễm trợ, tôi có thể nhảy qua tường thành.

31 Đường lối Thượng Đế vô cùng hoàn hảo.
    Lời CHÚA rất tinh sạch.
    Ngài là thuẫn đỡ cho kẻ nào tin cậy nơi Ngài.
32 Ai là Thượng Đế? Chỉ một mình CHÚA thôi.
    Ai là Khối Đá? Chỉ một mình Thượng Đế của chúng ta thôi.
33 Thượng Đế là nơi bảo vệ tôi.
    Ngài khiến các lối đi của tôi không vấp ngã.
34 Ngài khiến tôi chạy nhanh như nai
    mà không vấp ngã;
    Ngài giúp tôi đứng trên các núi cao.
35 Ngài luyện tay tôi chiến đấu
    cho nên cánh tay tôi
    có thể giương nổi cung đồng.

36 Ngài che chở tôi bằng cái thuẫn cứu rỗi của Ngài.
    Ngài cúi xuống để đỡ tôi lên, khiến tôi trở nên mạnh mẽ.
37 Ngài mở rộng đường tôi đi,
    để tôi không bước lảo đảo.
38 Tôi rượt đuổi theo kẻ thù và tiêu diệt chúng.
    Tôi không ngưng tay cho đến khi
    chúng nó hoàn toàn bị tiêu diệt.
39 Tôi chà đạp chúng đến nỗi
    chúng không ngóc đầu dậy được.
    Chúng nằm mọp dưới chân tôi.
40 Ngài thêm sức cho tôi trong chiến trận.
    Ngài khiến kẻ thù phải quì lạy trước mặt tôi.
41 Ngài khiến kẻ thù lui bước,
    tôi tiêu diệt những kẻ ghét tôi.
42 Chúng kêu cứu nhưng không ai đến giúp.
    Chúng kêu cầu CHÚA nhưng Ngài chẳng thèm trả lời.
43 Tôi đánh tan nát các kẻ thù tôi,
    giống như bụi bị gió thổi.
Tôi trút chúng ra và dẫm lên chúng
    như bùn trên đường.

44 Khi người ta tấn công tôi thì Ngài đến cứu tôi.
    Ngài lập tôi làm lãnh tụ các quốc gia.
    Những dân tôi chưa hề biết sẽ thần phục tôi.
45 Các người ngoại quốc cũng sẽ vâng theo tôi.
    Khi nghe đến tôi, họ tuân phục tôi.
46 Chúng vô cùng sợ hãi
    và run rẩy trong nơi trú ẩn của mình.

47 CHÚA muôn năm!
    Khối Đá tôi đáng được ca ngợi.
    Đáng ca ngợi Thượng Đế là Đấng cứu tôi!
48 Thượng Đế giúp tôi đắc thắng kẻ thù tôi,
    Ngài đặt mọi dân dưới quyền tôi.
49 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù.
    Ngài đặt tôi lên trên kẻ ghét tôi.
    Ngài cứu tôi khỏi kẻ hung ác.
50 Cho nên, CHÚA ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài
    giữa các dân.
    Tôi sẽ hát khen danh Ngài.
51 CHÚA ban chiến thắng cho vua của Ngài.
    Ngài thành tín đối với vua mà Ngài đã lập [l],
    với Đa-vít và dòng dõi người
    cho đến mãi mãi.”

Notas al pie

  1. II Sa-mu-ên 21:1 gia đình … nợ máu Nguyên văn, “gia đình khát máu.”
  2. II Sa-mu-ên 21:2 Người Ít-ra-en … làm hại Truyện nầy bắt đầu vào thời Giô-suê khi người Ghi-bê-ôn phỉnh gạt người Ít-ra-en. Xem Giôs 9:3-15.
  3. II Sa-mu-ên 21:6 vua được CHÚA chọn Nguyên văn, “người chịu xức dầu.”
  4. II Sa-mu-ên 21:7 vì lời vua … Giô-na-than Đa-vít và Giô-na-than cam kết rằng hai bên sẽ không làm hại gia đình của nhau. Xem I Sam 20:12-13, 42.
  5. II Sa-mu-ên 21:8 Mê-phi-bô-sết Đây là một người khác trùng tên chứ không phải Mê-phi-bô-sết, con Giô-na-than.
  6. II Sa-mu-ên 21:10 tảng đá Đây có thể là Tảng Đá Lớn ở Ghi-bê-ôn (xem II Sam 20:8), tảng đá mà người ta phơi thây chết, hay tảng đá đánh dấu nơi chôn cất các con trai của bà ta.
  7. II Sa-mu-ên 21:12 Bết-San Hay có thể là “Bết-sê-an.”
  8. II Sa-mu-ên 21:16 một trong các con cháu của Ra-pha Hay “một trong những người khổng lồ.” Xem các câu 18, 20, 22.
  9. II Sa-mu-ên 21:19 La-mi … người Gát Xem I Sử 20:5.
  10. II Sa-mu-ên 22:1 Chương 22 Bài ca nầy cũng có trong Thi 18.
  11. II Sa-mu-ên 22:3 sức mạnh cứu tôi Nguyên văn, “Ngài là sừng cứu rỗi của tôi.”
  12. II Sa-mu-ên 22:51 vua mà Ngài đã lập Nguyên văn, “Người chịu xức dầu của Ngài.”

15 Vậy Giô-suê đồng ý lập hòa ước với người Ghi-bê-ôn và để họ sống. Các lãnh tụ Ít-ra-en tuyên thệ giữ giao ước.

Read full chapter

Lời từ giã của Đa-vít

23 Sau đây là những lời từ giã của Đa-vít.

Đây là tuyên ngôn của Đa-vít,
    con trai Gie-xê.
    Người được Đấng Tối Cao nâng lên bậc vĩ đại lên tiếng.
Người là vua được Thượng Đế của Gia-cốp chỉ định;
    người là ca sĩ dịu dàng trong Ít-ra-en [a]:
“Thần linh CHÚA phán qua ta,
    đặt lời Ngài trên lưỡi ta.
Thượng Đế của Ít-ra-en phán;
    Khối Đá của Ít-ra-en bảo ta:
Ai cai trị công minh trên dân ta,
    ai cai trị trong sự kính sợ Thượng Đế,
giống như ánh sáng bình minh,
    như buổi sáng trời trong, quang đãng.
    Người như tia sáng mặt trời sau cơn mưa,
    khiến cỏ non mọc lên từ đất.

Thượng Đế chăm nom gia đình ta như thế nầy.
    Ngài lập giao ước đời đời với ta, giao ước phải lẽ và vững chắc mọi mặt. [b]
    Ngài sẽ hoàn tất sự cứu rỗi cho ta, thỏa mãn mọi ước vọng ta.

Nhưng những kẻ ác sẽ bị ném đi
    như gai gốc
    không ai dám nắm trong tay.
Không ai đám đụng đến
    nếu không dùng kềm sắt hay kẹp gỗ.
    Chúng sẽ bị ném vào lửa và cháy phừng trong đó.”

Ba chiến sĩ anh dũng

Sau đây là tên của những chiến sĩ của Đa-vít:

Giô-sép Bát-sê-bết, người Ta-kê-mô-nít [c] là trưởng toán đặc biệt của vua [d]. Trong một cuộc chạm trán anh ta giết tám trăm người. [e]

Kế đến là Ê-lê-a-xa, con Đô-đai [f], người A-hô-hít. Ê-lê-a-xa là một trong ba chiến sĩ đi với Đa-vít khi ông thách thức người Phi-li-tin. Người Phi-li-tin dàn trận ra còn quân Ít-ra-en rút lui. 10 Nhưng Ê-lê-a-xa ở lại chiến đấu chống dân Phi-li-tin cho đến khi tay rã rời dính chặt vào gươm. Trong ngày đó CHÚA ban chiến thắng lớn cho dân Ít-ra-en. Quân sĩ quay lại sau khi Ê-lê-a-xa đã thắng để cướp lấy vũ khí và áo giáp quân thù.

11 Kế đến là Sam-ma, con A-ghi, người Ha-ra-rít. Quân Phi-li-tin đến đánh nhau trong vườn rau [g]. Quân Ít-ra-en chạy trốn khỏi người Phi-li-tin, 12 Nhưng Sam-ma đứng giữa ruộng đánh nhau dành miếng ruộng đó và giết người Phi-li-tin. CHÚA ban đắc thắng lớn.

13 Có lần, ba trong số ba mươi chiến sĩ cận vệ [h] Đa-vít đi xuống gặp ông ở hang A-đu-lam nhằm lúc mùa gặt. Người Phi-li-tin đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im [i]. 14 Lúc đó Đa-vít đang ở trong mật khu, và một số người Phi-li-tin đang ở Bết-lê-hem.

15 Đa-vít rất muốn uống nước. Ông nói, “Ôi, ước gì có ai lấy nước cho ta nơi giếng gần cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Vậy ba chiến sĩ [j] đó xông qua hàng rào quân Phi-li-tin và lấy nước nơi giếng gần cổng thành Bết-lê-hem. Khi họ mang nước về cho Đa-vít thì ông không chịu uống. Ông đổ nước ra trước mặt CHÚA 17 và nói rằng, “Nguyện CHÚA chớ để tôi uống nước nầy! Như thế chẳng khác nào uống máu của những người vì đi lấy nước mà liều chết!” Đa-vít không chịu uống nước đó. Đó là những hành vi dũng cảm mà ba chiến sĩ đó làm.

Các chiến sĩ anh dũng khác

18 A-bi-sai, em Giô-áp, con Xê-ru-gia chỉ huy đám cận vệ. A-bi-sai dùng giáo đánh giết ba trăm lính. Ông nổi danh như ba người kia 19 nhưng được tôn trọng hơn họ. Ông làm chỉ huy họ nhưng không thuộc trong đám họ.

20 Bê-na-gia, con Giê-hô-gia-đa từ Cáp-xi-ên là một chiến sĩ gan dạ [k] đã thực hiện nhiều kỳ công. Ông giết hai trong số những lính thiện chiến nhất của Mô-áp. Ông cũng đi xuống hố và giết một con sư tử trong lúc tuyết đang rơi. 21 Bê-na-gia cũng giết một người Ai-cập đang cầm cây giáo trong tay. Bê-na-gia chỉ có một cây dùi cui nhưng ông giựt cây giáo khỏi tay người Ai-cập và giết hắn bằng chính cây giáo của hắn. 22 Đó là những điều Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa làm. Ông cũng nổi danh như ba người kia. 23 Ông nhận nhiều vinh dự hơn ba mươi người kia nhưng ông không thuộc vào nhóm Ba Người thân cận. Đa-vít cử ông làm chỉ huy toán hộ vệ mình.

Ba mươi chiến sĩ dũng cảm

24 Các người sau đây thuộc vào nhóm Ba Mươi người: A-sa-ên, em Giô-áp; Ên-ha-nan, con Đô-đô ở Bết-lê-hem; 25 Sam-ma người Ha-rô-đít; Ê-li-ca người Ha-rô-đít; 26 Hê-lê người Ban-thít; Y-ra, con Ích-kê miền Tê-cô-a; 27 A-bi-ê-xe người A-na-thốt; Mê-bun-nai người Hu-sa-thít; 28 Xanh-môn, người A-lô-hít; Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thít; 29 Hê-lết con Ba-a-na, người Nê-tô-pha-thít; Y-tai con Ri-bai miền Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-min; 30 Bê-na-gia người Bi-ra-thô-nít; Hích-đai từ vùng hố của Ga-ách; 31 A-bi Anh-bôn người Ác-ba-thít; Ách-ma-vết người Ba-hu-mít; 32 Ê-li-a-ba người Sanh-bô-nít; các con trai của Gia-sen; Giô-na-than 33 con trai của Sam-ma người Ha-ra-rít; A-hi-am con Sa-ra người Ha-ra-rít; 34 Ê-li-phê-lết con A-hát-bai, người Ma-a-ca-thít; Ê-li-am con A-hi-tô-phên, người Ghi-lôn; 35 Hết-rô người Cạt-mên; Ba-a-rai người Ạc-bít; 36 Y-ganh con Na-than ở Xô-ba; con của Hát-ri; 37 Xê-léc người Am-môn; Na-ha-rai người Bê-e-rô-thít, vác áo giáp cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia; 38 Y-ra người Ít-rít; Ga-rép người Ít-rít, 39 và U-ri người Hê-tít. Tất cả là ba mươi bảy người.

Notas al pie

  1. II Sa-mu-ên 23:1 ca sĩ dịu dàng trong Ít-ra-en Hay “bài ca hay nhất của Ít-ra-en.”
  2. II Sa-mu-ên 23:5 Ngài lập … mọi mặt Hay “Có phải Ngài làm cho gia đình tôi vững chắc không?”
  3. II Sa-mu-ên 23:8 Giô-sép Bát-sê-bết, người Ta-kê-mô-nít Hay “Gia-hô-bim người Hạc-mô-nít.” Xem thêm I Sử 11:11.
  4. II Sa-mu-ên 23:8 toán đặc biệt của vua Một toán binh sĩ đặc biệt gồm ba người để thi hành những nhiệm vụ đặc biệt mà vua giao phó.
  5. II Sa-mu-ên 23:8 Giô-sép … tám trăm người Bản Hê-bơ-rơ ở chỗ nầy không rõ nghĩa. Câu nầy được dịch theo I Sử 11:11 và bản cổ Hi-lạp.
  6. II Sa-mu-ên 23:9 Ê-lê-a-xa, con Đô-đai Hay “Ê-lê-a-xa, bà con của anh ta.”
  7. II Sa-mu-ên 23:11 vườn rau Hay “vườn đậu.”
  8. II Sa-mu-ên 23:13 ba mươi chiến sĩ cận vệ Hay “lực lượng đặc biệt của vua.” Đây là những người thuộc toán chiến sĩ anh dũng của Đa-vít. Xem câu 23, 24.
  9. II Sa-mu-ên 23:13 ba trong số … Rê-pha-im Bản Hê-bơ-rơ hơi khó hiểu ở chỗ nầy. Xem I Sử 11:15.
  10. II Sa-mu-ên 23:16 ba chiến sĩ Đây là ba chiến sĩ gan dạ nhất của Đa-vít. Xem câu 18, 22.
  11. II Sa-mu-ên 23:20 chiến sĩ gan dạ Nghĩa là ông thuộc vào hàng chiến sĩ sẵn sàng bảo vệ dân tộc trong chiến tranh.

Đa-vít kiểm điểm quân đội

24 CHÚA lại nổi giận cùng dân Ít-ra-en. Ngài giục Đa-vít nghịch dân Ít-ra-en. Ngài bảo, “Hãy đi kiểm tra dân Ít-ra-en và Giu-đa.”

Nên Đa-vít bảo Giô-áp, tư lệnh quân đội, “Hãy đi khắp các chi tộc Ít-ra-en, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba [a], kiểm tra dân chúng để ta biết số dân là bao nhiêu.”

Giô-áp thưa với vua, “Nguyện CHÚA là Thượng Đế của bệ hạ ban cho dân của bệ hạ đông gấp trăm lần, và nguyện bệ hạ được sống để nhìn thấy điều đó. Nhưng tại sao bệ hạ lại muốn làm việc nầy?”

Tuy nhiên vua ra lệnh cho Giô-áp và các cấp chỉ huy quân đội nên họ ra đi kiểm tra dân Ít-ra-en.

Sau khi băng qua sông Giô-đanh, họ đóng trại gần A-rô-e về phía nam của thành nằm trong hố. Họ đi qua Gát rồi đến Gia-xe. Sau đó họ đi đến Ghi-lê-át và đất Ta-tim Hốt-si và đến Đan-Gia-an và vùng quanh Xi-đôn. Họ đi đến thành có vách kiên cố là Tia và tất cả các thành của người Hê-vít và người Ca-na-an. Sau cùng họ vào vùng nam Giu-đa, đến Bê-e-sê-ba. Sau chín tháng hai mươi ngày, họ đã đi qua khắp xứ rồi trở về Giê-ru-sa-lem.

Giô-áp trao cho vua danh sách dân chúng. Có tám trăm ngàn người nam trong Ít-ra-en có thể cầm gươm và năm trăm ngàn người nam trong Giu-đa.

Chúa trừng phạt Đa-vít

10 Đa-vít cảm thấy hổ thẹn sau khi kiểm tra dân số. Ông thưa cùng CHÚA, “Con đã phạm tội rất lớn về điều con làm. Lạy CHÚA xin tha thứ cho con, kẻ tôi tớ Ngài vì con đã hành động điên rồ.”

11 Sáng sớm khi Đa-vít thức dậy thì CHÚA phán như sau với Gát, nhà tiên tri và tiên kiến của Đa-vít. 12 CHÚA bảo Gát, “Hãy đi nói với Đa-vít, ‘CHÚA phán như sau: Ta cho ngươi ba lựa chọn. Hãy chọn một để ta phạt ngươi.’”

13 Vậy Gát đi bảo Đa-vít, “Bệ hạ có muốn ba năm [b] đói kém xảy đến cho bệ hạ và xứ của bệ hạ không? Hay bệ hạ phải trốn chạy trước kẻ thù trong ba tháng? Hoặc ba ngày dịch hạch trong xứ? Hãy suy nghĩ cho kỹ đi rồi cho tôi biết vua chọn điều nào để tôi thưa lại cùng CHÚA là Đấng đã sai tôi.”

14 Đa-vít thưa cùng Gát, “Ta bị khốn đốn lớn. Thôi chẳng thà để CHÚA phạt chúng ta vì Ngài đầy lòng từ bi. Đừng để loài người phạt ta!”

15 Vì thế CHÚA sai một nạn dịch kinh khiếp đến trên Ít-ra-en. Nó bắt đầu từ sáng và kéo dài tới thời gian đã định. Từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba có bảy mươi ngàn người chết. 16 Khi thiên sứ giơ tay ra trên Giê-ru-sa-lem để hủy diệt thành thì CHÚA ân hận về những sự thiệt hại Ngài gây ra. Ngài phán cùng thiên sứ đang tiêu diệt dân chúng rằng, “Thôi đủ rồi! Hãy bỏ tay ngươi xuống!” Thiên sứ của CHÚA đang đứng bên sân đập lúa của A-rau-na [c] người Giê-bu-sít. [d]

Đa-vít mua sân đập lúa của A-rau-na

17 Khi Đa-vít nhìn thấy thiên sứ đã giết hại dân chúng thì ông thưa với CHÚA, “Con mới là người phạm tội và có lỗi chớ còn những người nầy chỉ là chiên đi theo con thôi. Họ đâu có lỗi gì? Xin CHÚA trừng phạt con và gia đình con.”

18 Ngày đó Gát đến cùng Đa-vít và nói, “Hãy đi xây một bàn thờ cho CHÚA trên sân đập lúa của A-rau-na người Giê-bu-sít.” 19 Vậy Đa-vít làm điều Gát dặn theo mệnh lệnh của CHÚA.

20 A-rau-na ngước lên thấy vua và các tôi tớ đi đến. Ông liền bước ra sấp mặt xuống đất chào vua. 21 Ông hỏi, “Tại sao vua chúa tôi đến cùng tôi?”

Đa-vít đáp, “Để mua sân đập lúa của ngươi đặng ta xây một bàn thờ cho CHÚA. Rồi nạn dịch sẽ chấm dứt.”

22 A-rau-na thưa cùng Đa-vít, “Vua chúa tôi ơi, bệ hạ cứ việc lấy gì cũng được để làm của lễ hi sinh. Đây có mấy con bò để làm của lễ thiêu, mấy tấm ván của sàn đạp lúa và ách để làm củi. 23 Tâu bệ hạ, tôi xin dâng cho ngài tất cả mọi thứ.” A-rau-na thưa tiếp với vua, “Nguyện CHÚA là Thượng Đế hài lòng về bệ hạ.”

24 Nhưng vua bảo A-rau-na, “Không, ta sẽ trả tiền miếng đất đó. Ta không muốn dâng của lễ cho CHÚA mà không tốn kém gì.”

Vậy Đa-vít mua sân đập lúa và các con bò với giá một cân một phần tư bạc. 25 Ông xây bàn thờ cho CHÚA ở đó và dâng của lễ toàn thiêu cùng của lễ thân hữu. Rồi CHÚA nghe lời cầu nguyện cho xứ, cơn dịch hạch trong Ít-ra-en liền chấm dứt.

Notas al pie

  1. II Sa-mu-ên 24:2 Đan cho đến Bê-e-sê-ba Tức toàn xứ Ít-ra-en từ Bắc đến Nam. Đan là một thị trấn cực Bắc của Ít-ra-en, còn Bê-e-sê-ba là thị trấn cực Nam của Giu-đa. Xem câu 15.
  2. II Sa-mu-ên 24:13 ba năm I Sử 21:12 và bản cổ Hi-lạp ghi “ba năm.”
  3. II Sa-mu-ên 24:16 A-rau-na Ông ta cũng có tên “Ọt-nan.” Xem thêm các câu 18, 22, 24.
  4. II Sa-mu-ên 24:16 Giê-bu-sít Dân cư sống ở Giê-ru-sa-lem trước khi dân Ít-ra-en chiếm thành nầy. “Giê-bu” là tên cũ của Giê-ru-sa-lem.

Đa-vít phạm tội vì kiểm kê dân Ít-ra-en

21 Sa-tăng [a] nổi lên nghịch Ít-ra-en nên xúi giục Đa-vít kiểm kê dân Ít-ra-en. Đa-vít bảo Giô-áp và các viên chỉ huy quân đội, “Hãy đi kiểm kê toàn dân Ít-ra-en từ Bê-e-sê-ba cho đến Đan rồi cho ta biết con số là bao nhiêu.”

Giô-áp thưa, “Nguyện CHÚA gia tăng dân số ta thêm hàng trăm lần. Thưa vua và chúa tôi, tất cả dân Ít-ra-en đều là tôi tớ ngài. Tại sao ngài muốn làm điều nầy, thưa chủ? Ngài sẽ khiến cho dân Ít-ra-en mắc tội.”

Nhưng vì là lệnh vua nên Giô-áp đi khắp Ít-ra-en rồi trở về Giê-ru-sa-lem. Giô-áp trao danh sách toàn dân cho Đa-vít. Có một triệu một trăm ngàn người đàn ông trong khắp Ít-ra-en là những người có thể dùng gươm, và trong Giu-đa có bốn trăm bảy mươi ngàn người đàn ông có thể dùng gươm. Nhưng Giô-áp không kiểm kê các chi tộc Lê-vi và Bên-gia-min vì ông không thích lệnh của vua Đa-vít. Đa-vít làm điều CHÚA cho là quấy nên Ngài trừng phạt Ít-ra-en.

Thượng Đế trừng phạt dân Ít-ra-en

Đa-vít liền thưa cùng Thượng Đế, “Tôi đã phạm tội rất lớn về điều tôi làm! Bây giờ xin hãy tha tội cho tôi, kẻ tôi tớ CHÚA, vì tôi đã hành động rất ngu xuẩn.”

CHÚA phán cùng Gát, người tiên kiến của Đa-vít, 10 “Hãy đi bảo Đa-vít, ‘CHÚA phán như sau: Ta cho ngươi ba sự chọn lựa. Chọn một trong ba rồi ta sẽ thực hiện.’”

11 Vì thế, Gát đi đến bảo Đa-vít, “CHÚA phán như sau: ‘Ngươi hãy chọn cho mình một trong các điều sau: 12 ba năm đói kém, ba tháng chạy trốn khỏi kẻ thù mình khi chúng dùng gươm rượt đuổi ngươi hoặc ba ngày bị CHÚA trừng phạt bằng một bệnh dịch khủng khiếp lan tràn khắp xứ. Thiên sứ của CHÚA sẽ đi qua khắp Ít-ra-en đặng tiêu diệt dân chúng.’ Bây giờ, vua Đa-vít, xin hãy quyết định một trong ba điều nầy để tôi phải thưa lại cùng CHÚA là Đấng đã sai tôi.”

13 Đa-vít nói với Gát, “Tôi bị rắc rối lớn. Xin CHÚA trừng phạt tôi vì CHÚA rất nhân từ. Đừng để tôi bị loài người trừng phạt.”

14 Vậy CHÚA sai một trận dịch khủng khiếp đến trên Ít-ra-en giết bảy mươi ngàn người. 15 Thượng Đế sai một thiên sứ đến tiêu diệt Giê-ru-sa-lem, nhưng khi thiên sứ bắt đầu ra tay thì CHÚA trông thấy và ân hận về những việc khủng khiếp đã xảy ra nên Ngài bảo thiên sứ đang hủy diệt rằng, “Thôi đủ rồi! Hãy bỏ tay ngươi xuống!” Thiên sứ của CHÚA đang đứng nơi sân đập lúa của A-rau-na [b] người Giê-bu-sít [c].

16 Đa-vít ngước lên nhìn thấy thiên sứ của CHÚA đang đứng giữa trời, giơ gươm ra chỉ về hướng Giê-ru-sa-lem. Đa-vít và các bô lão liền cúi sấp mặt xuống đất. Họ đang mặc quần áo vải sô để tỏ sự buồn rầu. 17 Đa-vít thưa cùng Thượng Đế, “Tôi là người phạm tội và làm quấy vì ra lệnh kiểm kê. Những người nầy chỉ đi theo tôi như chiên. Họ không làm gì quấy. Thưa CHÚA là Thượng Đế tôi, xin hãy trừng phạt tôi và gia đình tôi, nhưng hãy ngưng bệnh dịch khủng khiếp đang giết hại dân sự Ngài.”

18 Thiên sứ của CHÚA nói với Gát bảo Đa-vít xây một bàn thờ cho CHÚA nơi sân đập lúa của A-rau-na người Giê-bu-sít. 19 Vậy Đa-vít làm theo điều Gát nhân danh CHÚA bảo ông làm.

20 A-rau-na đang đập lúa. Khi ông quay lại thì thấy thiên sứ. Bốn con trai đang ở với ông liền chạy trốn. 21 Đa-vít đến gặp A-rau-na. Khi A-rau-na thấy vua liền bước khỏi sân đập lúa và cúi sấp mặt xuống đất trước mặt Đa-vít.

22 Đa-vít bảo ông, “Hãy bán cho ta sân đập lúa ngươi để ta xây bàn thờ cho CHÚA ở đó rồi cơn dịch khủng khiếp sẽ ngưng lại. Hãy bán cho ta nguyên giá.”

23 A-rau-na thưa cùng Đa-vít, “Xin vua hãy lấy sân đập lúa đi. Thưa vua chúa tôi, xin ngài hãy làm điều gì ngài muốn. Nầy, tôi sẽ biếu vua các con bò để làm của lễ toàn thiêu, ván trên sàn đạp lúa để làm củi, và lúa mì để làm của lễ chay. Tôi xin dâng cho vua hết.”

24 Nhưng vua Đa-vít bảo A-rau-na, “Không, ta muốn trả nguyên giá đất cho ngươi. Ta không muốn lấy không vật gì của ngươi mà dâng cho CHÚA. Ta không muốn dâng của lễ thiêu mà chẳng tốn kém gì.”

25 Vậy Đa-vít trả cho A-rau-na khoảng mười lăm cân [d] vàng cho sân đập lúa. 26 Đa-vít xây một bàn thờ cho CHÚA tại đó và dâng của lễ toàn thiêu cùng của lễ thân hữu. Đa-vít cầu nguyện cùng CHÚA thì Ngài trả lời ông bằng cách sai lửa từ trời xuống trên bàn thờ của lễ thiêu. 27 Sau đó CHÚA truyền cho thiên sứ bỏ gươm vào vỏ.

28 Khi Đa-vít thấy CHÚA đã trả lời cho mình nơi sân đập lúa của A-rau-na thì liền dâng sinh tế cho Ngài tại đó. 29 Lều Thánh mà Mô-se làm trong khi dân Ít-ra-en đang lưu lạc trong sa mạc và bàn thờ của lễ thiêu đang ở tại Ghi-bê-ôn là nơi thờ phụng. 30 Nhưng Đa-vít không thể đi đến Lều Thánh để thưa chuyện cùng Thượng Đế vì ông sợ thiên sứ và lưỡi gươm của thiên sứ CHÚA.

Notas al pie

  1. I Sử Ký 21:1 Sa-tăng Hay “Kẻ Đối Nghịch,” nghĩa là người chống lại vua.
  2. I Sử Ký 21:15 A-rau-na Hay “Ọt-nan” trong tiếng Hê-bơ-rơ.
  3. I Sử Ký 21:15 người Giê-bu-sít Dân Giê-bu-sít sống ở Giê-ru-sa-lem trước khi dân Ít-ra-en chiếm thành ấy. Tên cũ của Giê-ru-sa-lem là “Giê-bu.”
  4. I Sử Ký 21:25 mười lăm cân Nguyên văn, “600 sê-ken” (khoảng 7 kí-lô).

12 “Khi con kiểm tra dân Ít-ra-en thì mỗi người phải chuộc mạng mình từ nơi CHÚA để không có điều bất hạnh nào xảy đến cho họ khi con kiểm tra họ.

Read full chapter

13 Khi bị cám dỗ thì không nên nói, “Thượng Đế cám dỗ tôi.” Thượng Đế không bị điều ác nào cám dỗ, mà chính Ngài cũng không cám dỗ ai. 14 Người ta bị cám dỗ khi dục vọng xấu xa bên trong thúc đẩy họ lầm lạc và khiến họ sập bẫy. 15 Dục vọng đó đưa đến tội lỗi, tội lỗi sinh sôi nẩy nở và dẫn đến sự chết.

16 Các anh chị em yêu dấu, chớ mắc lừa về điều nầy.

Read full chapter