Add parallel Print Page Options

Thức ăn cúng cho thần tượng

Bây giờ tôi sẽ bàn đến vấn đề đồ cúng [a] cho thần tượng. Chúng ta biết rằng “Ai cũng hiểu biết.” Hiểu biết đâm ra kiêu căng, nhưng lòng yêu thương luôn gây dựng. Nếu anh chị em tưởng mình biết điều gì, thật ra anh chị em chưa biết đủ đâu. Nhưng nếu ai yêu mến Thượng Đế thì Ngài biết người ấy.

Còn về việc ăn đồ cúng cho thần tượng thì chúng ta biết rằng thần tượng chẳng là gì cả trong thế gian vì chúng ta cũng biết chỉ có một Thượng Đế mà thôi. Mặc dù có nhiều vật được người ta gọi là thần, trên trời hay dưới đất và có nhiều “thần” hoặc nhiều “chúa,” nhưng đối với chúng ta chỉ có một Thượng Đế mà thôi—là Cha. Mọi vật đều từ Ngài mà ra và chúng ta sống cho Ngài. Cũng chỉ có một Chúa—Chúa Cứu Thế Giê-xu. Mọi vật đều do Ngài sáng tạo và chúng ta sống là nhờ Ngài.

Nhưng không phải ai cũng biết điều ấy. Một số người quá quen thuộc với thần tượng cho nên khi họ ăn thịt, họ vẫn nghĩ là thịt ấy đang được dâng cho thần. Vì thế khi ăn họ cảm thấy có tội vì lương tâm họ yếu ớt. Nhớ rằng thức ăn không làm cho chúng ta gần hơn với Thượng Đế đâu. Không ăn cũng chẳng thiệt hại gì, mà ăn cũng chẳng thêm lợi lộc gì.

Cho nên anh chị em phải thận trọng đừng để sự tự do của mình gây cho những người yếu đức tin phạm tội. 10 Anh chị em là người có “sự hiểu biết” nên thản nhiên ăn uống trong đền thờ tà thần. Nhưng nếu người yếu đức tin nhìn thấy anh chị em ăn nơi ấy sẽ được thúc giục ăn thịt cúng cho thần trong khi vẫn tin rằng làm như thế là phạm tội. 11 Tín hữu yếu ớt ấy là người mà Chúa Cứu Thế đã chịu chết cho sẽ bị hư hỏng vì “sự hiểu biết” của anh chị em. 12 Khi phạm tội với anh chị em mình trong Chúa Cứu Thế như thế và làm tổn thương họ bằng cách dẫn họ làm điều mà họ cho là sai quấy tức là đã phạm tội cùng Ngài. 13 Cho nên nếu thức ăn tôi dùng mà khiến anh chị em tôi rơi vào tội lỗi thì tôi sẽ chẳng bao giờ ăn thịt nữa để khỏi khiến họ phạm tội.

Phao-lô cũng như các sứ đồ khác

Tôi là người tự do. Tôi làm sứ đồ. Tôi đã thấy Giê-xu, Chúa chúng ta. Các anh chị em là kết quả của công tác tôi trong Chúa Giê-xu. Nếu kẻ khác không chấp nhận tôi làm sứ đồ, anh chị em chắc vẫn chấp nhận tôi vì chính anh chị em là bằng cớ của chức sứ đồ tôi trong Chúa.

Đây là câu trả lời của tôi cho những người thắc mắc về chức sứ đồ của tôi: Chúng tôi không có quyền ăn uống sao? Chúng tôi không có quyền mang theo một nữ tín hữu làm vợ mình giống các sứ đồ khác, như anh em Chúa hay như Phia-rơ [b] đã làm sao? Hay chỉ một mình Ba-na-ba và tôi phải làm việc để sinh sống? Không có binh sĩ nào phục vụ trong quân ngũ mà lại tự trả lương cho mình. Chẳng ai trồng vườn nho mà không ăn trái. Không ai nuôi gia súc mà chẳng uống sữa của bầy gia súc.

Không phải tôi nói theo kiểu con người đâu; luật pháp của Thượng Đế cũng nói như thế nữa. Vì như luật Mô-se có viết: “Đừng khớp miệng con bò đang đạp lúa, không cho nó ăn.” [c] Khi Thượng Đế phán như thế có phải Ngài chỉ lo cho bò thôi sao? Không phải. 10 Ngài lo cho chúng ta nữa. Thánh Kinh viết về chúng ta như sau, “Người cày ruộng và người đạp lúa phải trông mong thu được mùa màng để đền bù công khó mình.” 11 Nếu chúng tôi đã gieo giống thiêng liêng giữa vòng anh chị em thì có gì quá đáng khi chúng tôi mong gặt hái ít nhiều về phần đời nầy từ anh chị em? 12 Nếu những người khác có quyền làm như thế từ anh chị em thì chúng tôi cũng vậy. Nhưng chúng tôi đã không sử dụng quyền ấy. Chúng tôi cam chịu mọi sự để khỏi làm nguyên nhân cản trở việc rao Tin Mừng của Chúa Cứu Thế. 13 Chắc hẳn anh chị em biết rằng ai phục vụ trong đền thờ thì lãnh thức ăn trong đền thờ, còn ai phục vụ nơi bàn thờ thì nhận được một phần của lễ dâng trên bàn thờ. 14 Cũng thế, Chúa chúng ta đã dạy rằng ai rao Tin Mừng thì sống bằng Tin Mừng.

15 Nhưng tôi chưa hề sử dụng những quyền ấy. Tôi viết những lời nầy không phải để mong nhận được gì từ anh chị em đâu. Tôi thà chết còn hơn đánh mất lý do kiêu hãnh nầy. 16 Rao truyền Tin Mừng không phải là dịp để tôi khoe khoang. Đó là nhiệm vụ của tôi—tôi buộc phải làm. Nếu tôi không rao Tin Mừng thì tôi sẽ vô cùng khốn khổ. 17 Nhưng nếu tôi tự chọn việc rao giảng thì tôi nhận được phần thưởng. Còn nếu tôi không tự chọn việc rao giảng thì tôi chỉ làm bổn phận Chúa giao cho. 18 Thế thì tôi nhận được phần thưởng gì? Phần thưởng tôi nhận như sau: Khi tôi giảng Tin Mừng thì tôi rao giảng không thù lao. Riêng tôi đã không sử dụng quyền nhận thù lao trong công tác rao Tin Mừng.

19 Tôi được tự do, chẳng bị ai ràng buộc. Nhưng tôi tự làm nô lệ cho mọi người để có thể cứu càng nhiều người càng tốt. 20 Đối với người Do-thái tôi trở nên như người Do-thái để cứu được người Do-thái. Chính tôi không ở dưới luật pháp. Nhưng đối với những người ở dưới luật pháp thì tôi trở nên giống như họ. Tôi làm như thế để cứu những người ở dưới luật pháp. 21 Đối với những người không có luật pháp, tôi sống như người không có luật pháp để cứu những người không có luật pháp. Thật ra tôi chưa thoát ly khỏi luật pháp của Thượng Đế—tôi bị luật pháp của Chúa Cứu Thế ràng buộc. 22 Đối với người yếu đuối tôi trở nên yếu đuối để cứu những người yếu đuối. Tôi đã trở nên như mọi người để có thể cứu một số người bằng mọi cách. 23 Tôi làm những điều ấy vì Tin Mừng để hi vọng được có phần ân phúc trong đó.

24 Anh chị em biết rằng trong một cuộc chạy đua, mọi người cùng chạy nhưng chỉ có một người thắng giải mà thôi. Cho nên hãy cố gắng chạy thế nào để thắng giải! 25 Ai thi đua trong các cuộc tranh tài đều phải hết sức tự chế để nhận được vương miện. Vương miện trần thế ấy sẽ khô héo sau một thời gian ngắn nhưng vương miện của chúng ta không bao giờ khô héo. 26 Cho nên, tôi chạy nhưng không phải chạy mông lung. Tôi đánh nhưng không phải đánh gió. 27 Tôi không dễ dãi với thân thể tôi, trái lại rất gắt gao với nó, bắt nó làm nô lệ cho tôi để tôi khỏi bị Thượng Đế gạt bỏ sau khi giảng cho kẻ khác.

Footnotes

  1. I Cô-rinh-tô 8:1 cúng Giết hay dâng lên làm của lễ để chứng tỏ lòng sùng bái. Xem câu 10.
  2. I Cô-rinh-tô 9:5 Phia-rơ Nguyên bản ghi “Xê-pha,” là tên Phia-rơ trong tiếng A-ram. Ông là một trong 12 môn đệ của Chúa Giê-xu.
  3. I Cô-rinh-tô 9:9 Đừng khớp … nó ăn Phục 25:4.

Bài học lịch sử của dân Ít-ra-en

10 Thưa anh chị em, tôi muốn anh chị em biết những gì xảy ra cho tổ tiên chúng ta là những người đi theo Mô-se. Họ đều ở dưới đám mây [a], băng qua biển. Việc ấy giống như lễ báp-têm [b] cho những người đi theo Mô-se. Họ đều ăn chung một thức ăn thiêng liêng, uống chung một thức uống thiêng liêng, từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ. Tảng đá ấy là Chúa Cứu Thế. Nhưng đa số người trong vòng họ không làm Thượng Đế vừa lòng nên đã bỏ xác trong sa mạc.

Những việc ấy xảy ra để làm gương răn dạy chúng ta đừng ham muốn những điều xấu xa như họ. Đừng thờ thần tượng như một số người trong họ đã làm. Như Thánh Kinh chép, “Họ ngồi xuống ăn uống rồi đứng dậy nhảy múa.” [c] Chúng ta không nên dâm dục như một số người trong họ mà chỉ trong một ngày, hai mươi ba ngàn người bỏ mạng vì tội ấy. Chúng ta cũng không nên thách thức Chúa Cứu Thế [d] như một vài người trong họ đã làm mà bị rắn cắn chết. 10 Cũng đừng phàn nàn oán trách như một số người trong họ đến nỗi bị thiên sứ giết.

11 Những gì xảy ra cho họ là để làm gương và được ghi lại để nhắc nhở chúng ta là những người sống trong thời kỳ cuối cùng nầy. 12 Ai tự đắc cho rằng mình đang đứng vững hãy coi chừng, kẻo ngã. 13 Những thử thách xảy đến cho anh chị em cũng đã xảy đến cho mọi người. Tuy nhiên, anh chị em có thể tin chắc nơi Thượng Đế vì Ngài không để cho anh chị em bị thử thách quá sức chịu đựng đâu. Trong cơn thử thách, Ngài sẽ mở lối thoát để anh chị em chịu đựng được.

14 Cho nên các bạn thân yêu của tôi ơi, hãy xa lánh việc thờ thần tượng. 15 Tôi nói với các anh chị em như với người hiểu biết; anh chị em hãy tự cân nhắc điều tôi nói đây. 16 Chúng ta cảm tạ về ly phước lành [e] tức dự phần với huyết của Chúa Cứu Thế. Bánh chúng ta cùng bẻ chung với nhau là cùng dự phần trong thân thể Ngài. 17 Vì chỉ có một ổ bánh thôi. Chúng ta dù nhiều người nhưng chỉ là một thân vì tất cả chúng ta đều cùng dự phần trong ổ bánh ấy.

18 Hãy xem người Do-thái: Có phải những ai ăn các sinh tế [f] nơi bàn thờ tức là dự phần vào bàn thờ không? 19 Tôi không nói rằng của lễ dâng cho thần tượng có giá trị gì hoặc thần tượng quan trọng gì cả. 20 Nhưng tôi nói rằng của lễ dâng cho thần tượng là cúng cho ma quỉ chứ không phải cho Thượng Đế. Tôi không muốn anh chị em dự phần với ma quỉ. 21 Anh chị em không thể vừa uống ly của Chúa mà đồng thời lại cũng uống ly của ma quỉ nữa. Không thể ngồi bàn ăn của Chúa mà cũng ngồi bàn ăn của ma quỉ. 22 Anh chị em muốn chọc tức [g] Chúa sao? Sức chúng ta tới đâu?

Cách dùng sự tự do trong Chúa Cứu Thế

23 “Chúng ta được tự do làm mọi điều,” nhưng không phải điều nào cũng tốt. “Chúng ta được tự do làm mọi điều,” nhưng không phải điều nào cũng giúp người khác lớn mạnh. 24 Đừng chỉ lo cho mình mà phải nghĩ đến lợi ích người khác nữa.

25 Những gì bán ở hàng thịt thì cứ ăn. Đừng thắc mắc có nên hay không nên ăn. 26 Anh em được phép ăn, “vì đất và những gì trong đó đều thuộc về Thượng Đế.” [h]

27 Nếu có người ngoại đạo mời anh chị em ăn chung với họ và anh chị em nghĩ nên nhận lời thì hễ những gì họ dọn ra trước mặt cứ việc ăn, đừng thắc mắc tự hỏi có nên ăn hay không. 28 Nhưng nếu có ai bảo với anh chị em, “Món nầy đã cúng cho thần tượng,” thì không nên ăn để tránh làm tổn thương lương tâm của người đã bảo cho anh chị em biết. 29 Tôi không nói lương tâm anh chị em nhưng lương tâm của người kia. Tại làm sao sự tự do của tôi mà bị lương tâm người khác phê phán? 30 Nếu tôi tạ ơn mà dùng bữa thì tại sao tôi bị lên án về món ăn mà tôi đã cảm tạ ơn Chúa?

31 Cho nên dù anh chị em ăn, uống hay làm bất cứ điều gì, hãy làm vì vinh hiển Chúa. 32 Đừng gây tổn thương phần thiêng liêng của người khác, dù là người Do-thái, Hi-lạp hay hội thánh của Thượng Đế. 33 Cũng như tôi đã cố gắng làm vừa lòng mọi người bằng mọi cách. Tôi không tìm cách làm ích lợi cho cá nhân tôi mà làm ích lợi cho hầu hết mọi người để họ được cứu.

11 Hãy noi gương tôi vì tôi noi theo gương Chúa Cứu Thế.

Dưới quyền người khác

Tôi khen anh chị em vì anh chị em luôn luôn nhớ đến tôi và vâng theo những điều mà tôi khuyên dạy. Nhưng tôi muốn anh chị em biết điều nầy: Chúa Cứu Thế là đầu người đàn ông, đàn ông [i] là đầu người đàn bà, và Thượng Đế là đầu của Chúa Cứu Thế. Đàn ông nào mà trùm đầu trong khi cầu nguyện hay nói tiên tri là làm nhục đầu mình. Còn đàn bà mà cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà không trùm đầu cũng làm nhục đầu mình vì chẳng khác nào bị cạo trọc đầu. Nếu đàn bà không trùm đầu thì cũng như cạo đầu. Nhưng nếu người nào cảm thấy xấu hổ khi hớt tóc ngắn hay cạo trọc thì nên trùm đầu lại. Đàn ông không nên trùm đầu vì đàn ông được dựng nên theo hình ảnh và vinh hiển của Thượng Đế. Còn đàn bà mang vinh hiển cho đàn ông. Không phải đàn ông ra từ đàn bà mà đàn bà ra từ đàn ông. Không phải đàn ông được dựng nên vì đàn bà, mà đàn bà được dựng nên vì đàn ông. 10 Vì thế mà đàn bà phải có dấu hiệu uy quyền trên đầu mình [j], vì tôn trọng thiên sứ.

11 Nhưng trong Chúa, đàn bà lệ thuộc đàn ông, và đàn ông cũng lệ thuộc đàn bà. 12 Vì nếu đàn bà sinh ra từ đàn ông, thì đàn ông cũng được sinh ra từ đàn bà. Mọi vật đều ra từ Thượng Đế. 13 Anh chị em hãy tự xét xem: Đàn bà để đầu trần khi cầu nguyện với Thượng Đế có thích nghi không? 14 Ngay cả thiên nhiên cũng dạy anh chị em rằng đàn ông để tóc dài là điều xấu hổ. 15 Nhưng tóc dài là vinh hiển Thượng Đế ban cho đàn bà để dùng như khăn trùm đầu. 16 Có vài người sẽ tranh luận về vấn đề nầy, nhưng tôi xin thưa là chúng tôi cũng như các hội thánh của Thượng Đế không có tập tục nào khác.

Bữa Ăn của Chúa

17 Có mấy điều tôi không thể nào khen anh chị em được vì khi họp lại anh chị em làm chuyện xấu hơn là tốt. 18 Trước hết, tôi nghe rằng khi nhóm họp lại thì có chia rẽ, tôi hơi tin điều ấy. 19 Thật ra phải có khác biệt trong vòng anh chị em để chứng tỏ người nào thuộc về Chúa thật. 20 Khi họp lại không phải anh chị em thật sự dự Bữa Ăn của Chúa [k] nữa. 21 Là vì mạnh ai nấy ăn, không chờ đợi nhau cho nên người thì không đủ ăn còn người thì say sưa quá độ. 22 Anh chị em có thể ăn uống ở nhà mình được chứ? Hình như anh chị em xem thường hội thánh của Thượng Đế vì anh chị em làm nhục người nghèo. Tôi phải nói gì với anh chị em đây? Khen sao? Tôi không thể nào khen anh chị em trong chuyện nầy được.

23 Tôi truyền cho anh chị em điều tôi đã nhận lãnh từ nơi Chúa: Trong đêm Chúa Giê-xu bị phản, Ngài lấy bánh 24 cảm tạ rồi bẻ ra và nói, “Đây là thân thể ta hi sinh vì các con. Hãy làm điều nầy để tưởng nhớ ta.” 25 Cũng vậy, sau khi ăn, Ngài cầm ly và nói, “Ly nầy là giao ước lập bằng huyết ta. Khi nào các con uống hãy tưởng nhớ ta.” 26 Vì thế lúc ăn bánh và uống ly tức là anh chị em rao truyền cho người khác biết về sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến.

27 Ai ăn bánh hay uống ly của Chúa không xứng đáng với ý nghĩa của bữa ăn ấy sẽ phạm tội với thân và huyết của Ngài. 28 Hãy tự xét lòng mình trước khi ăn bánh và uống ly, 29 vì người nào ăn bánh và uống ly mà không ý thức rằng chúng ta là thân thể Chúa thì ăn uống án phạt cho mình. 30 Vì thế mà trong anh em có nhiều người đau yếu và qua đời. 31 Nếu chúng ta biết tự xét mình thì Thượng Đế sẽ không xét xử chúng ta. 32 Nhưng khi Ngài xét xử chúng ta thì Ngài sửa dạy để chúng ta không bị kết án chung với thế gian.

33 Anh chị em của tôi ơi, khi họp chung lại để ăn, hãy chờ đợi nhau. 34 Người nào quá đói thì nên ăn trước ở nhà để khi họp lại anh chị em không chuốc lấy án phạt cho mình. Còn những việc khác khi tôi đến sẽ hướng dẫn thêm.

Footnotes

  1. I Cô-rinh-tô 10:1 đám mây Đám mây hướng dẫn và che chở dân Ít-ra-en trong cuộc hành trình của họ sau khi ra khỏi Ai-cập, băng qua Hồng hải, và qua sa mạc. Xem Xuất 13:20-22; 14:19, 20.
  2. I Cô-rinh-tô 10:2 báp-têm Xem Bảng Giải Thích Từ Ngữ. Ở đây Phao-lô hình như muốn nói đến những gì xảy ra cho người Do-thái vào thời ông Mô-se. Có thể so sánh với lễ báp-têm của tín hữu trong Chúa Cứu Thế.
  3. I Cô-rinh-tô 10:7 Họ ngồi xuống … nhảy múa Xuất 32:6.
  4. I Cô-rinh-tô 10:9 Chúa Cứu Thế Một vài bản Hi-lạp ghi “Chúa.”
  5. I Cô-rinh-tô 10:16 ly phước lành Ly nước nho mà các tín hữu cảm tạ Thượng Đế uống trong khi dự Bữa Ăn của Chúa.
  6. I Cô-rinh-tô 10:18 sinh tế Những thú vật bị giết và dâng làm của lễ cho Thượng Đế.
  7. I Cô-rinh-tô 10:22 chọc tức Hay “khiến Chúa ganh tị.” Xem Phục 32:16, 17.
  8. I Cô-rinh-tô 10:26 vì đất … Thượng Đế Thi 24:1; 50:12; 89:11.
  9. I Cô-rinh-tô 11:3 đàn ông Danh từ nầy cũng có nghĩa “chồng.”
  10. I Cô-rinh-tô 11:10 uy quyền trên đầu mình Câu nầy có thể dịch, “kiểm soát trên đầu mình,” nghĩa là “làm điều gì khiến người khác hiểu lầm vì không trùm đầu.”
  11. I Cô-rinh-tô 11:20 Bữa Ăn của Chúa Bữa ăn Chúa Giê-xu dặn các môn đồ phải nhớ đến Ngài khi dự (Lu 22:14–20).

Ân tứ Thánh Linh

12 Thưa anh chị em, tôi muốn anh chị em hiểu về ân tứ thiêng liêng. Anh chị em biết lối sống cũ của mình trước khi tin nhận Chúa. Anh chị em bị hướng dẫn lầm lạc mà thờ thần tượng câm. Nên tôi muốn anh chị em biết là không một ai cảm nhận Thánh Linh của Thượng Đế lại nói rằng “Chúa Giê-xu đáng rủa.” Và cũng không ai có thể thốt lên, “Giê-xu là Chúa,” nếu không cảm nhận Thánh Linh.

Mặc dù có nhiều ân tứ khác nhau nhưng tất cả đều cùng một Thánh Linh ban cho. Có nhiều lối phục vụ khác nhau nhưng chung qui chỉ phục vụ cùng một Chúa thôi. Thượng Đế hành động trên mỗi người một khác nhưng tất cả đều do một Thượng Đế thôi. Những gì chúng ta làm là do Thượng Đế hành động. Một số ân tứ có thể thấy được từ mỗi người qua Thánh Linh để làm ích lợi chung. Thánh Linh cho người nầy ân tứ nói điều khôn ngoan và cũng Thánh Linh ấy cho người khác nói điều thông sáng. Cùng một Thánh Linh cho người nầy có đức tin, người khác được ân tứ chữa bệnh. 10 Thánh Linh cho người nầy quyền năng làm phép lạ, người kia có khả năng nói tiên tri, còn người khác nữa có khả năng phân biệt thần thật và thần giả. Thánh Linh cho người nầy khả năng nói được nhiều loại ngôn ngữ lạ, người khác có khả năng diễn giải những ngôn ngữ ấy. 11 Những ân tứ đó đều do cùng một Thánh Linh mà ra. Ngài phân phát mỗi người một ân tứ riêng theo ý Ngài.

Thân thể Chúa Cứu Thế hợp tác với nhau

12 Thân thể con người chỉ là một nhưng gồm nhiều bộ phận. Mặc dù thân thể gồm nhiều bộ phận nhưng tất cả đều họp thành một thân. Chúa Cứu Thế cũng vậy. 13 Mặc dù trong chúng ta gồm người Do-thái, Hi-lạp, nô lệ và tự do nhưng tất cả chúng ta đều chịu lễ báp-têm để trở thành một thân qua một Thánh Linh. Tất cả chúng ta đều nhận [a] cùng một Thánh Linh ấy.

14 Thân thể con người gồm nhiều bộ phận chứ không phải chỉ có một. 15 Chân có thể nói, “Vì tôi không phải là tay nên tôi không thuộc về thân.” Nhưng không phải vì nói như thế mà chân không thuộc về thân. 16 Lỗ tai có thể nói, “Vì tôi không phải là mắt nên tôi không thuộc về thân.” Cũng không phải vì nói thế mà lỗ tai không thuộc về thân nữa. 17 Nếu toàn thân đều là mắt thì làm sao nghe được? Hay nếu toàn thân đều là lỗ tai làm sao ngửi được? 18-19 Còn nếu toàn thân chỉ có một bộ phận thì làm thế nào gọi là thân được? Nhưng chúng ta thấy Thượng Đế đã đặt mỗi bộ phận theo vai trò của nó trong thân thể như ý Ngài muốn. 20 Cho nên dù có nhiều bộ phận nhưng chỉ có một thân mà thôi.

21 Mắt không thể nói với tay, “Tao không cần mầy!” Và đầu không thể nói với chân, “Tao không cần mầy.” 22 Trái lại những phần nào trông có vẻ yếu ớt trong cơ thể lại là tối cần. 23 Những phần ít được tôn trọng thì chúng ta lại chăm sóc. Chúng ta trọng những phần chúng ta che giấu. 24 Những phần đáng trọng trong thân thì không cần chăm sóc nhiều. Nhưng Thượng Đế đã xếp đặt thân thể và cho những phần nào đáng trọng thì được tôn trọng 25 để thân thể chúng ta không bị phân hóa. Thượng Đế muốn mỗi bộ phận lo nghĩ đến nhau. 26 Nếu phần nào bị đau đớn thì những phần khác cùng chịu chung. Nếu phần nào được tôn trọng thì những phần khác cùng chung hưởng.

27 Cho nên anh chị em đều là thân thể Chúa Cứu Thế, mỗi người là một phần của thân thể ấy. 28 Trong hội thánh, Thượng Đế đã sắp đặt trước hết là sứ đồ, thứ nhì là các nhà tiên tri, thứ ba là giáo sư. Ngài cũng đặt để người làm phép lạ, kẻ được ân tứ chữa bệnh, người có ân tứ giúp đỡ, kẻ có tài quản trị, người có tài nói ngôn ngữ lạ. 29 Đâu phải ai cũng là sứ đồ, ai cũng là nhà tiên tri, ai cũng làm giáo sư, ai cũng làm phép lạ, 30 đâu phải ai cũng có ân tứ chữa bệnh, ai cũng nói ngôn ngữ lạ, ai cũng diễn giải ngôn ngữ ấy? 31 Nhưng các anh chị em nên ao ước ân tứ tốt nhất.

Tình yêu thương là ân tứ cao quí nhất

Và giờ đây tôi sẽ chỉ cho anh chị em đường lối tốt nhất.

13 Dù tôi có thể nói được các ngôn ngữ loài người và thiên sứ nhưng nếu không có tình yêu thương thì tôi chẳng khác nào tiếng chuông vang hay chập chỏa ồn ào. Dù tôi có ân tứ nói tiên tri, hiểu biết mọi điều nhiệm mầu của Thượng Đế và thông biết đủ thứ, dù tôi có đức tin có thể dời núi được nhưng nếu không có tình yêu thương thì tôi chẳng ra gì. Tôi có thể bố thí hết của cải, hi sinh thân mình để làm của lễ thiêu [b] nhưng nếu không có tình yêu thương thì chẳng ích gì cho tôi.

Tình yêu thương nhẫn nại và nhân từ. Tình yêu thương không đố kỵ, không khoe khoang, không tự phụ. Tình yêu thương không cộc cằn, không ích kỷ, không nóng nảy. Tình yêu thương bỏ qua các tổn thương đã chịu. Tình yêu thương không vui về điều ác nhưng vui trong sự thật. Tình yêu thương chấp nhận mọi điều. Lúc nào cũng tin tưởng, lúc nào cũng hi vọng, lúc nào cũng chịu đựng.

Tình yêu thương không bao giờ dứt. Ân tứ nói tiên tri có lúc sẽ ngưng. Ân tứ nói ngôn ngữ lạ có lúc sẽ không còn. Ân tứ hiểu biết sẽ chấm dứt. Vì rằng sự hiểu biết và khả năng nói tiên tri của chúng ta không hoàn toàn. 10 Nhưng khi cái hoàn hảo đến thì những gì không hoàn hảo phải chấm dứt. 11 Khi tôi còn nhỏ, tôi nói như trẻ con, lý luận như trẻ con. Nhưng khi tôi trưởng thành, tôi không làm những việc trẻ con nữa. 12 Chúng ta cũng thế. Điều chúng ta hiện đang thấy chỉ là phản ảnh mờ mờ thôi, giống như đang nhìn trong gương nhưng đến lúc ấy chúng ta sẽ thấy rõ. Hiện giờ tôi chỉ biết có một phần, nhưng đến lúc ấy tôi sẽ biết hết như Thượng Đế đã biết tôi. 13 Cho nên chỉ có ba điều nầy là còn mãi: đức tin, hi vọng và tình yêu thương. Mà điều cao quí hơn cả là tình yêu thương.

Hãy ao ước các ân tứ thiêng liêng

14 Các anh chị em hãy tìm kiếm tình yêu thương và hãy thật lòng ao ước các ân tứ thiêng liêng, nhất là ân tứ nói tiên tri. Tôi sẽ giải thích tại sao. Những người nói ngôn ngữ lạ không phải nói với người ta mà là nói với Thượng Đế. Không ai hiểu họ vì họ nói những điều bí ẩn qua Thánh Linh. Nhưng những người nói tiên tri là nói với người ta để gây dựng, khuyến khích và an ủi. Người nói ngôn ngữ lạ chỉ giúp ích cho chính mình thôi còn người nói tiên tri giúp ích toàn thể hội thánh. Tôi mong tất cả anh chị em đều có ân tứ nói ngôn ngữ lạ nhưng tôi mong hơn nữa là anh chị em có ân tứ nói tiên tri. Những người nói tiên tri ích lợi hơn những người nói ngôn ngữ lạ mà không có ai diễn giải để hội thánh được gây dựng.

Thưa các anh chị em, nếu tôi đến thăm mà nói ngôn ngữ lạ thì có ích gì cho anh chị em không? Chắc là không. Chỉ ích lợi là khi tôi mang đến một chân lý mới, kiến thức mới, lời tiên tri mới hay một sự dạy dỗ mới mà thôi. Đối với những vật vô tri phát ra tiếng cũng thế—chẳng hạn như sáo hay đờn cầm. Nếu những nhạc khí ấy trổi lên không theo âm điệu nào thì có ai biết chúng đang trổi bản gì. Còn khi chiến tranh, nếu kèn không thổi lớn tiếng rõ ràng thì ai biết mà chuẩn bị ra trận? Đối với anh chị em cũng vậy. Nếu anh chị em không nói rõ ràng thì đâu ai hiểu anh chị em nói cái gì. Chẳng khác nào anh chị em nói với không khí. 10 Đành rằng trên thế gian có nhiều ngôn ngữ và ngôn ngữ nào cũng có nghĩa. 11 Nhưng nếu ai nói với tôi bằng một ngôn ngữ mà tôi không hiểu thì đối với người ấy tôi chẳng khác nào người ngoại quốc, còn người ấy thì cũng như người ngoại quốc đối với tôi. 12 Đối với anh chị em cũng thế. Vì anh chị em rất mong mỏi nhận được các ân tứ thiêng liêng nên hãy tìm ân tứ nào có thể gây dựng hội thánh thêm lớn mạnh.

13 Người được ân tứ nói ngôn ngữ lạ nên cầu xin có ân tứ diễn giải ngôn ngữ ấy. 14 Nếu tôi cầu nguyện bằng ngôn ngữ lạ thì tâm linh tôi cầu nguyện nhưng trí óc tôi thụ động. 15 Thế thì tôi phải làm sao? Tôi phải cầu nguyện bằng tâm linh nhưng cũng bằng trí óc nữa. Tôi sẽ hát bằng tâm linh nhưng cũng hát bằng trí óc nữa. 16 Nếu anh chị em chỉ ca ngợi Thượng Đế bằng tâm linh thì những người ngồi nghe không hiểu anh chị em nói gì, làm sao họ nói A-men cùng với lời cầu nguyện tạ ơn của anh chị em được? 17 Có thể lời cảm tạ Thượng Đế của anh chị em rất tốt nhưng người khác không được gây dựng.

18 Tôi cảm tạ Thượng Đế vì tôi có ân tứ nói được nhiều ngôn ngữ lạ hơn tất cả anh chị em. 19 Nhưng trong các cuộc nhóm họp chung, chẳng thà tôi nói năm lời mà tôi hiểu để dạy dỗ gây dựng người khác hơn là nói hàng ngàn lời bằng ngôn ngữ lạ.

20 Anh chị em ơi, về tư tưởng thì không nên như trẻ con nữa. Về việc gian ác thì nên ngây thơ như trẻ con nhưng còn về tư tưởng thì nên như người trưởng thành. 21 Thánh Kinh [c] có chép:

“Ta sẽ nhờ những người dùng tiếng lạ
    và ngôn ngữ lạ để nói với họ.
Dù vậy họ cũng chẳng thèm nghe.” (A)

Chúa phán vậy.

22 Cho nên ân tứ nói ngôn ngữ lạ là bằng chứng cho người không tin chứ không phải cho người đã tin. Còn lời tiên tri dành cho người đã tin chứ không phải cho người chưa tin. 23 Giả sử toàn thể hội thánh nhóm họp lại, người nào cũng nói tiếng khác nhau. Nếu có người ngoại cuộc hoặc chưa tin bước vào, có phải họ sẽ tưởng rằng anh chị em điên khùng rồi không? 24 Nhưng giả sử mọi người đều nói tiên tri mà có người ngoại cuộc hay chưa tin bước vào, họ không hiểu nhưng nếu mọi người đều nói tiên tri thì tội lỗi họ sẽ bị phơi bày ra và họ sẽ bị xét xử về những điều họ nghe. 25 Những điều bí ẩn trong lòng họ sẽ bị phơi ra. Họ sẽ bái lạy Thượng Đế và xưng rằng, “Thượng Đế đang ở với anh chị em.” [d]

Những buổi nhóm họp để giúp hội thánh

26 Như thế, thưa anh chị em phải làm sao? Khi họp lại, người thì hát, người thì dạy, người thì có chân lý mới từ Thượng Đế, người nói ngôn ngữ lạ, người diễn giải ngôn ngữ ấy. Tất cả đều phải làm để gây dựng hội thánh lớn mạnh. 27 Khi nhóm họp lại, nếu có ai nói ngôn ngữ lạ thì chỉ cần chừng hai chứ không nên quá ba người nói. Phải thay phiên nhau mà nói và phải có người diễn giải. 28 Nếu không có ai diễn giải thì người nói ngôn ngữ lạ nên im lặng trong giờ nhóm họp. Họ chỉ nên nói thầm với mình và với Thượng Đế mà thôi.

29 Chỉ nên có hai hoặc ba người nói tiên tri còn người khác cân nhắc điều họ nói. 30 Nếu có sứ điệp do Thượng Đế đến với một trong những người ngồi đó thì người nói đầu tiên phải ngưng. 31 Tất cả anh chị em có thể tuần tự nói tiên tri. Như thế mọi người sẽ được dạy dỗ và nâng đỡ. 32 Thần linh của các tiên tri ở dưới quyền kiểm soát của các người nói tiên tri. 33 Thượng Đế không phải là Chúa của sự rối loạn mà là Chúa của sự hòa bình. Trong tất cả các hội thánh của Thượng Đế 34 đàn bà phải im lặng trong các buổi nhóm họp, không được lên tiếng, nhưng phải tuân theo luật pháp qui định. 35 Nếu họ muốn học điều gì thì phải hỏi chồng mình ở nhà. Đàn bà lên tiếng trong các buổi nhóm họp là không phải lẽ. 36 Có phải lời dạy dỗ của Thượng Đế đến từ anh chị em không? Hay là chỉ có một mình anh chị em là có sự dạy dỗ ấy?

37 Ai cho mình là nhà tiên tri hay người thiêng liêng thì phải hiểu rằng lời tôi viết cho anh chị em đây là mệnh lệnh của Chúa. 38 Ai gạt bỏ lời dạy nầy sẽ bị Thượng Đế gạt bỏ lại.

39 Thưa anh chị em, hãy thật lòng ao ước nói tiên tri. Tuy nhiên không nên ngăn cản việc nói ngôn ngữ lạ. 40 Nhưng việc nào cũng phải làm cho đúng cách và theo thứ tự.

Footnotes

  1. I Cô-rinh-tô 12:13 nhận Nguyên văn, “uống.”
  2. I Cô-rinh-tô 13:3 hi sinh thân mình để làm của lễ thiêu Vài bản Hi-lạp khác ghi “trao thân tôi để tôi có thể khoe khoang.”
  3. I Cô-rinh-tô 14:21 Thánh Kinh Nguyên văn, “luật lệ,” đôi khi có nghĩa là Cựu Ước.
  4. I Cô-rinh-tô 14:25 Thượng Đế … anh chị em Xem Ê-sai 45:14 và Xa 8:23.