Add parallel Print Page Options

E-xơ-ra trở về Giê-ru-sa-lem

Sau các việc ấy, vào triều đại Ạc-ta-xét-xe, vua Ba-tư thì E-xơ-ra từ Ba-by-lôn trở về. Ông là con Sê-rai-gia, Sê-rai-gia con A-xa-ria, A-xa-ria con Hinh-kia, Hinh-kia con Sa-lum, Sa-lum con Xa-đốc, Xa-đốc con A-hi-túp, A-hi-túp con A-ma-ria, A-ma-ria con A-xa-ria, A-xa-ria con Mê-rai-giốt, Mê-rai-giốt con Xê-ra-hia, Xê-ra-hia con U-xi, U-xi con Búc-ki, Búc-ki con A-bi-sua, A-bi-sua con Phi-nê-ha, Phi-nê-ha con Ê-lê-a-xa, Ê-lê-a-xa con A-rôn là thầy tế lễ tối cao. E-xơ-ra từ Ba-by-lôn về Giê-ru-sa-lem. Ông là giáo sư luật [a] và rất rành về những điều giáo huấn của Mô-se do CHÚA, là Thượng Đế của Ít-ra-en truyền lại. E-xơ-ra nhận được đủ mọi thứ ông yêu cầu từ vua vì CHÚA là Thượng Đế giúp đỡ ông. Vào năm thứ bảy triều vua Ạc-ta-xét-xe, có thêm nhiều người Ít-ra-en nữa trở về Giê-ru-sa-lem. Trong số đó có các thầy tế lễ, người Lê-vi, các ca sĩ, người giữ cửa, và những người giúp việc trong đền thờ.

E-xơ-ra trở về Giê-ru-sa-lem vào tháng năm [b], năm thứ bảy triều vua. E-xơ-ra rời Ba-by-lôn vào ngày đầu tiên tháng giêng, và về đến Giê-ru-sa-lem vào ngày một tháng năm vì Thượng Đế giúp đỡ ông. 10 E-xơ-ra đã hết sức cố gắng học hỏi và vâng theo những lời Giáo Huấn của CHÚA để dạy các qui tắc và mệnh lệnh Ngài cho dân Ít-ra-en.

Bức thư của vua gởi E-xơ-ra

11 Vua gởi một thư cho E-xơ-ra, thầy tế lễ và giáo sư dạy các mệnh lệnh và luật lệ mà CHÚA cho dân Ít-ra-en. Nội dung bức thư như sau:

12 [c] “Ạc-ta-xét-xe, vua các vua, gởi E-xơ-ra, thầy tế lễ và giáo sư luật của Thượng Đế trên trời.

Chào thăm ông.

13 Ta ra lệnh sau: Bất cứ người Ít-ra-en nào sống trong vương quốc ta đều có thể theo ngươi về Giê-ru-sa-lem, kể cả các thầy tế lễ và người Lê-vi. 14 E-xơ-ra, ngươi được vua và bảy cố vấn vua phái đi để hỏi thăm người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem ra sao trong việc vâng theo Luật lệ của Thượng Đế mà ngươi đang mang theo mình. 15 Ngoài ra cũng hãy mang theo ngươi bạc và vàng mà vua và các cố vấn vua dâng hiến rộng rãi cho Thượng Đế của Ít-ra-en, Đấng có đền thờ ở Giê-ru-sa-lem. 16 Cũng hãy mang về bạc và vàng mà ngươi nhận từ vùng Ba-by-lôn. Hãy nhận những của lễ mà người Ít-ra-en và các thầy tế lễ họ dâng cho đền thờ của Thượng Đế các ngươi tại Giê-ru-sa-lem. 17 Dùng tiền đó mua bò đực, chiên đực, chiên con, ngũ cốc và các của lễ uống đi kèm theo các sinh tế đó. Rồi dâng các của lễ trên bàn thờ trong đền thờ của Thượng Đế các ngươi tại Giê-ru-sa-lem.

18 Ngươi và các đồng bào Do-thái ngươi có thể tùy tiện dùng bạc và vàng còn lại và theo ý muốn Thượng Đế. 19 Hãy mang về cho Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem tất cả các đồ dùng cho việc thờ phụng trong đền thờ Thượng Đế các ngươi, 20 những đồ dùng mà chúng ta đã cho các ngươi. Hãy dùng ngân khố hoàng gia đài thọ những điều khác ngươi cần cho đền thờ Thượng Đế các ngươi.

21 Nay ta, vua, ra lệnh sau đây cho tất cả các viên chức quản thủ ngân khố vùng Xuyên Ơ-phơ-rát: Hãy cấp cho E-xơ-ra, thầy tế lễ và giáo sư luật của Thượng Đế trên trời bất cứ điều gì người yêu cầu. 22 Hãy cấp cho người tới mức ba ngàn bốn trăm năm mươi kí [d] bạc, 600 hộc [e] lúa mì, 2.200 lít [f] rượu, và 2.200 lít dầu ô-liu. Còn muối thì người cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu. 23 Hãy cẩn thận cấp cho người bất cứ những gì mà Thượng Đế trên trời cần cho đền thờ của Ngài. Chúng ta không muốn Thượng Đế nổi giận cùng vua và các hoàng tử. 24 Nên nhớ các ngươi không được phép đánh bất cứ loại thuế nào trên những người sau đây: các thầy tế lễ, người Lê-vi, ca sĩ, người giữ cửa, người giúp việc trong đền thờ và các nhân công khác trong đền thờ của Thượng Đế.

25 Còn ngươi, hỡi E-xơ-ra, hãy dùng sự khôn ngoan mà Thượng Đế ban cho ngươi để chọn những quan án và các nhà làm luật để cai trị dân Do-thái sống trong vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Họ biết luật lệ của Thượng Đế các ngươi, và ngươi có thể dạy cho những ai không biết luật. 26 Ai không tuân theo luật của Thượng Đế các ngươi hay của vua phải bị trừng phạt. Nó phải bị giết hay bị tù đày, tịch thu gia sản hay bị cầm tù.”

E-xơ-ra ca ngợi Thượng Đế

27 Chúc tụng CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên chúng tôi.
    Ngài khiến vua có lòng tôn trọng đền thờ của CHÚA ở Giê-ru-sa-lem.
28 CHÚA đã tỏ ra cho tôi, E-xơ-ra,
    tình yêu Ngài trước mặt vua, những cố vấn vua,
    và các quần thần.
Nhờ CHÚA là Thượng Đế tôi giúp đỡ,
    tôi thêm can đảm nên tôi triệu tập các lãnh tụ Ít-ra-en
    cùng hồi hương với tôi.

Danh sách các trưởng gia đình cùng hồi hương với E-xơ-ra

Sau đây là các trưởng tộc và những người cùng được liệt kê với họ trở về cùng tôi từ Ba-by-lôn trong đời vua.

Từ con cháu Phi-nê-ha: Ghẹt-sôn. Từ con cháu Y-tha-ma: Đa-niên. Từ con cháu Đa-vít: Hát-túc thuộc con cháu Sê-cai-gia.

Từ con cháu Ba-rốt: Xa-cha-ri, với một trăm năm mươi người.

Từ con cháu Ba-hát Mô-áp: Ê-li-hô-ê-nai, con Xa-ra-hia, với hai trăm người.

Từ con cháu Xát-tu: Sê-ca-nia, con Gia-ha-xiên, với ba trăm người.

Từ con cháu A-đinh: Ê-bết, con Giô-na-than, với năm mươi người.

Từ con cháu Ê-lam: Giê-sai-gia, con A-tha-lia, với bảy mươi người.

Từ con cháu Sê-pha-tia: Xê-ba-đia, con Mi-chên, với tám mươi người.

Từ con cháu Giô-áp: Áp-đia, con Giê-hi-ên, với hai trăm mười tám người.

10 Từ con cháu Ba-ni: Sê-lô-mít, con Giô-si-phia, với một trăm sáu mươi người.

11 Từ con cháu Bê-bai: Xa-cha-ri, con Bê-bai, với hai mươi tám người.

12 Từ con cháu A-gát: Giô-ha-nan, con Hác-ca-tan, với một trăm mười người.

13 Từ con cháu A-đô-ni-cam, sau đây là những người cuối cùng: Ê-li-phê-lết, Giê-u-ên, và Sê-mai-gia với sáu mươi người.

14 Từ con cháu Bích-vai: U-thai và Xa-cua, với bảy mươi người.

Cuộc hành trình về Giê-ru-sa-lem

15 Tôi gọi tất cả những người đó lại nơi kênh đào chảy ra A-ha-va, rồi chúng tôi dựng trại ba ngày tại đó. Tôi kiểm điểm dân chúng và các thầy tế lễ, nhưng không thấy có người Lê-vi nào. 16 Cho nên tôi gọi các lãnh tụ sau đây lại: Ê-li-ê-xe, A-ri-ên, Sê-mai-gia, Ên-na-than, Gia-ríp, Ên-na-than, Na-than, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam. Tôi cũng gọi Giô-a-ríp và Ên-na-than là hai giáo sư. 17 Tôi sai họ đến Y-đô, lãnh tụ ở Ca-xi-phia, và dặn họ phải nói gì với Y-đô cùng thân nhân ông. Những người đó giúp việc trong đền thờ ở Ca-xi-phia. Tôi bảo họ mang các người giúp việc đến cho tôi để phục vụ trong đền thờ Thượng Đế. 18 Vì được Thượng Đế chúng tôi giúp đỡ nên các thân nhân của Y-đô giao Sê-rê-bia, một người rất khôn ngoan thuộc dòng họ Ma-li, con Lê-vi, cháu Ít-ra-en. Họ cũng mang các con trai Sê-rê-bia và anh em ông đến, tổng cộng mười tám người. 19 Rồi họ mang đến cho chúng tôi Ha-sa-bia và Giê-sai-gia thuộc dòng họ Mê-ra-ri cùng với anh em và cháu ông. Tổng cộng hai mươi người. 20 Họ cũng mang đến hai trăm hai mươi người giúp việc trong đền thờ, tức nhóm người mà Đa-vít và các quần thần lập nên để giúp đỡ người Lê-vi. Tất cả những người đó đều được liệt kê theo từng tên.

21 Nơi kênh đào A-ha-va, tôi loan báo mọi người cữ ăn và hạ mình xuống trước mặt Thượng Đế. Chúng tôi cầu xin Thượng Đế gìn giữ chúng tôi, con cháu và tài sản chúng tôi đi đường bình yên. 22 Tôi ngại không dám xin vua cho binh sĩ và lính cỡi ngựa hộ tống bảo vệ chúng tôi khỏi kẻ thù dọc đường vì chúng tôi đã thưa với vua, “Thượng Đế chúng tôi sẽ giúp những ai vâng lời Ngài, nhưng nổi thịnh nộ cùng ai từ bỏ Ngài.” 23 Vậy chúng tôi cữ ăn và cầu nguyện cùng Thượng Đế xin Ngài gìn giữ chúng tôi khi đi đường, Ngài nghe lời cầu xin của chúng tôi.

24 Rồi tôi chọn mười hai thầy tế lễ làm lãnh tụ: Sê-rê-bia, Ha-sa-bia, và mười thân nhân của họ. 25 Tôi cân các của dâng hiến bằng bạc và vàng cùng những đồ dùng dâng cho đền thờ Thượng Đế chúng tôi và trao cho mười hai thầy tế lễ mà tôi đã chọn. Nhà vua, các cố vấn, các quần thần, và tất cả những người Ít-ra-en có mặt với chúng tôi đã dâng hiến những vật đó cho đền thờ. 26 Tôi cân và trao cho họ khoảng năm mươi ngàn cân [g] bạc, khoảng bảy ngàn năm trăm cân các vật dụng bằng bạc, và khoảng bảy ngàn năm trăm cân [h] vàng. 27 Tôi trao cho họ hai mươi cái chén vàng cân nặng khoảng mười chín cân [i], và hai miếng đồng đánh bóng quí giá như vàng.

28 Rồi tôi bảo các thầy tế lễ, “Các ngươi và những vật dụng nầy thuộc về CHÚA để phục vụ Ngài. Bạc và vàng là vật dâng hiến cho CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên các ngươi. 29 Hãy canh giữ các món nầy cho cẩn thận. Đến Giê-ru-sa-lem, hãy cân chúng trước mặt các thầy tế lễ lãnh đạo, người Lê-vi, các trưởng gia đình của Ít-ra-en trong phòng của đền thờ Thượng Đế.”

30 Vậy các thầy tế lễ và người Lê-vi nhận bạc, vàng và các đồ dùng đã được cân để mang về đền thờ của Thượng Đế chúng tôi tại Giê-ru-sa-lem.

31 Vào ngày mười hai tháng giêng [j], chúng tôi rời kênh A-ha-va khởi hành về Giê-ru-sa-lem. Thượng Đế chúng tôi giúp đỡ và che chở chúng tôi khỏi các kẻ thù và trộm cướp dọc đường. 32 Sau cùng chúng tôi về đến Giê-ru-sa-lem và nghỉ ngơi ba ngày ở đó.

33 Đến ngày thứ tư chúng tôi cân bạc, vàng và những đồ dùng cho đền thờ Thượng Đế. Chúng tôi trao tất cả cho thầy tế lễ Mê-rê-mốt, con U-ri. Ê-lê-a-xa, con Phi-nê-ha cũng có mặt đó với người cùng với các người Lê-vi như Giô-xa-bát, con Giê-sua, và Nô-a-đia, con Bin-nui. 34 Chúng tôi kiểm kê mọi thứ theo số món và theo trọng lượng, rồi ghi lại tổng số.

35 Sau đó những tù binh vừa hồi hương dâng của lễ thiêu lên cho Thượng Đế của Ít-ra-en. Họ dâng mười hai con bò đực, chín mươi sáu con chiên đực, và bảy mươi bảy con chiên con. Còn về của lễ chuộc tội thì họ dâng mười hai con dê đực. Tất cả các con thú đó được dâng lên làm của lễ thiêu cho CHÚA. 36 Họ trình sắc lệnh của vua cho các sĩ quan hoàng gia và cho các tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Rồi những người đó giúp đỡ dân chúng và đền thờ của Thượng Đế.

Lời cầu nguyện của E-xơ-ra

Sau các việc ấy thì các lãnh tụ đến trình với tôi, “E-xơ-ra ơi, dân Ít-ra-en, kể cả các thầy tế lễ và người Lê-vi, không biệt mình riêng ra khỏi các dân tộc xung quanh chúng ta. Các dân đó làm ác, như dân Ca-na-an, Hê-tít, Phê-ri-xít, Giê-bu-sít, A-môn, Mô-áp, Ai-cập, và A-mô-rít. Các người đàn ông Ít-ra-en cùng con trai họ đã cưới các người đàn bà đó. Họ đã pha trộn dân Thượng Đế với các dân sống quanh mình. Các lãnh tụ và các viên chức Ít-ra-en đã hướng dẫn toàn dân Ít-ra-en làm điều bất trung nầy.”

Khi tôi nghe vậy thì giận dữ xé áo dài và áo choàng tôi, nhổ tóc và râu rồi ngồi xuống mà kinh hoảng. Người nào nghe lời Thượng Đế của Ít-ra-en và run sợ đều tụ tập quanh tôi vì sự bất trung mà các tù binh vừa hồi hương phạm. Tôi ngồi đó kinh hoảng cho đến giờ dâng của lễ buổi chiều.

Đến giờ dâng của lễ buổi chiều tôi đứng dậy khỏi nơi tôi ngồi để bày tỏ sự hổ nhục. Áo dài và áo choàng tôi rách tả tơi, tôi quì xuống giơ hai tay lên hướng về CHÚA là Thượng Đế tôi. Tôi cầu nguyện,

“Lạy Thượng Đế, tôi quá nhục nhã và xấu hổ không dám ngước mặt lên cùng Ngài, là Thượng Đế tôi vì tội lỗi chúng tôi quá nhiều. Chúng cao hơn đầu chúng tôi. Tội lỗi chúng tôi lên đến tận trời. Từ thời tổ tiên chúng tôi đến nay, tội lỗi chúng tôi nhiều lắm. Vì tội lỗi chúng tôi mà chúng tôi, các vua và các thầy tế lễ chúng tôi đã bị trừng phạt bằng gươm và bị tù đày. Các vua ngoại quốc đã cướp của cải chúng tôi và làm nhục chúng tôi cho đến ngày nay.

Nhưng nay, trong một thời gian ngắn, CHÚA là Thượng Đế đã tỏ lòng nhân từ cùng chúng tôi. Ngài đã cho phép một số chúng tôi trở về từ chốn lưu đày và cho chúng tôi sống an ninh trong nơi thánh của Ngài. Ngoài ra Thượng Đế chúng tôi đã ban cho chúng tôi hi vọng và giải thoát khỏi cảnh nô lệ. Mặc dù chúng tôi là nô lệ nhưng Thượng Đế không lìa bỏ chúng tôi. Ngài khiến cho các vua Ba-tư nhân từ cùng chúng tôi và ban cho chúng tôi một cuộc đời mới. Chúng tôi có thể xây lại đền thờ và sửa chữa những nơi đổ nát của nó. Ngài cũng ban cho chúng tôi một tường thành để bảo vệ chúng tôi trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.

10 Nhưng bây giờ thưa Thượng Đế, chúng tôi sẽ nói gì sau khi Ngài đã làm những điều đó? Chúng tôi đã không vâng phục mệnh lệnh 11 mà Ngài đã truyền lại qua các tôi tớ và các nhà tiên tri của Ngài. Ngài phán, ‘Xứ mà các ngươi vào nhận làm sản nghiệp đã hư hỏng rồi; dân sống ở đó đã làm hư hỏng đất đó vì những điều ác chúng làm. Sự gian ác chúng nó tràn ngập đất, nhơ nhớp đầy dẫy từ đầu nầy đến đầu kia. 12 Vì thế đừng cho con gái các ngươi kết hôn với con trai chúng nó, cũng đừng cưới con gái chúng nó cho con trai các ngươi. Đừng mong ước hòa bình hay thành công cho chúng nó. Như thế các ngươi sẽ hùng mạnh và hưởng những điều tốt lành trong xứ. Rồi các ngươi sẽ để lại xứ nầy cho dòng dõi các ngươi đời đời.’

13 Chúng tôi đã tự gây ra những thảm họa cho mình. Chúng tôi đã làm những điều ác, tội lỗi chúng tôi rất lớn. Nhưng Ngài là Thượng Đế chúng tôi, đã không trừng phạt chúng tôi tương xứng với tội lỗi chúng tôi; Ngài đã để cho một số chúng tôi còn sống sót. 14 Chúng tôi không nên phạm mệnh lệnh Ngài bằng cách kết hôn với những dân độc ác nầy. Nếu không Ngài sẽ nổi giận tiêu diệt chúng tôi, rồi sẽ không còn ai sống sót. 15 Lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, vì lòng nhân từ Ngài mà một số ít chúng tôi còn sống sót hôm nay. Chúng tôi nhìn nhận mình có tội. Không ai trong chúng tôi xứng đáng đứng trước mặt Ngài.”

Dân chúng xưng tội

10 Trong khi E-xơ-ra đang cầu nguyện xưng tội, khóc lóc vật vã trước mặt đền thờ thì một nhóm đông người Ít-ra-en gồm đàn ông, đàn bà, trẻ con tụ tập xung quanh ông khóc lóc thảm thiết. Rồi Sê-ca-nia, con Giê-hi-ên, người Ê-lam nói cùng E-xơ-ra rằng, “Chúng ta đã bất trung cùng Thượng Đế chúng ta bằng cách kết hôn với những đàn bà thuộc các dân tộc quanh ta. Dù vậy, vẫn còn hi vọng cho Ít-ra-en. Bây giờ chúng ta hãy lập giao ước trước mặt Thượng Đế chúng ta. Chúng ta sẽ đuổi tất cả những người đàn bà đó cùng con cái họ theo như ông và những người tôn trọng mệnh lệnh Thượng Đế chỉ bảo. Chúng ta phải làm như thế theo lời Giáo Huấn của Ngài. Vậy, E-xơ-ra ơi, hãy đứng lên. Ông là người chịu trách nhiệm, chúng tôi sẽ ủng hộ ông. Hãy can đảm làm điều đó.”

Vậy E-xơ-ra đứng dậy và buộc các thầy tế lễ, người Lê-vi, cùng toàn dân Ít-ra-en hứa làm theo lời đề nghị trên. Mọi người đều hứa. Rồi E-xơ-ra rời đền thờ và đi vào phòng của Giê-hô-ha-nan, con Ê-li-a-xíp. Trong khi ở đó, E-xơ-ra không ăn uống gì vì ông vẫn còn buồn bực về sự bất trung của những tù binh vừa hồi hương.

Họ ra lệnh cho tất cả các tù binh trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vừa hồi hương phải tập họp tại Giê-ru-sa-lem. Trong vòng ba ngày ai không đến Giê-ru-sa-lem sẽ bị tịch thu gia sản và bị loại ra khỏi cộng đồng của những tù binh hồi hương. Đó là quyết định của các viên chức và các bô lão.

Vì thế trong vòng ba ngày tất cả các người Giu-đa và Bên-gia-min tập họp lại tại Giê-ru-sa-lem. Đó là ngày hai mươi tháng chín [k]. Tất cả dân chúng ngồi trong sân trống trước đền thờ, bực tức vì vụ họp và vì trời mưa. 10 Thầy tế lễ E-xơ-ra đứng lên nói với họ, “Các ngươi đã bất trung khi lấy những người đàn bà không phải Do-thái làm vợ. Các ngươi đã làm cho dân Ít-ra-en mắc tội thêm. 11 Bây giờ hãy xưng tội cùng CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên các ngươi. Hãy làm theo ý muốn Ngài và tách ra khỏi các dân tộc sống quanh các ngươi và khỏi các vợ không phải Do-thái của mình.”

12 Tất cả nhóm đều lớn tiếng đáp với E-xơ-ra, “E-xơ-ra, ông nói phải! Chúng tôi phải làm theo như ông nói. 13 Nhưng ở đây có đông người mà trời mưa nữa. Chúng tôi không thể đứng ngoài trời vì vấn đề nầy không thể giải quyết trong một hai ngày được, vì chúng tôi đã phạm tội rất nặng. 14 Bây giờ hãy để các viên chức quyết định cho toàn thể. Rồi mỗi người trong thành chúng tôi ai đã cưới vợ không phải Do-thái gặp riêng các bô lão hay quan án của từng thị trấn theo thời gian ấn định trước cho đến khi cơn giận phừng của Thượng Đế qua khỏi chúng tôi.”

15 Chỉ có Giô-na-than, con A-sa-hên, Gia-xê-gia, con Tích-va, Mê-su-lam và Sa-bê-thai người Lê-vi phản đối đề nghị đó.

16 Vậy những tù binh hồi hương làm theo lời đề nghị. Thầy tế lễ E-xơ-ra chọn những trưởng tộc và chỉ định một người từ mỗi họ hàng. Ngày một tháng mười [l] họ ngồi xuống cứu xét từng trường hợp. 17 Đến ngày một tháng giêng [m] thì họ đã kiểm kê xong những đàn ông đã kết hôn với các phụ nữ không phải Do-thái.

Danh sách những người kết hôn với các thiếu nữ ngoại quốc

18 Sau đây là con cháu các thầy tế lễ đã kết hôn với các thiếu nữ ngoại lai:

Trong con cháu Giê-sua, con Giô-xa-đác, và anh em Giê-sua: Ma-a-sê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia. 19 Tất cả những người nầy đều hứa ly dị vợ mình, mỗi người mang một con chiên đực trong bầy để làm của lễ chuộc lỗi.

20 Trong con cháu Im-mê: Ha-na-ni và Xê-ba-đia.

21 Trong con cháu Ha-rim: Ma-a-sê-gia, Ê-li, Sê-mai-gia, Giê-hi-ên, và Ô-xia.

22 Trong con cháu Ba-sua: Ê-li-nô-ê-ai, Ma-a-sê-gia, Ích-ma-ên, Nê-tha-nên, Giô-xa-bát, và Ê-la-xa.

23 Trong vòng người Lê-vi: Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-lai-gia (cũng có tên là Kê-li-ta), Bê-tha-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe.

24 Trong vòng ca sĩ: Ê-li-a-síp.

Trong vòng các người giữ cửa: Sa-lum, Tê-lem, và U-ri.

25 Và trong vòng các người Ít-ra-en khác thì những người sau đây kết hôn với các phụ nữ không phải Do-thái:

Trong con cháu Ba-rốt: Ra-mai-gia, Ích-xai-gia, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, và Bê-nai-gia.

26 Trong vòng con cháu Ê-lam: Ma-ta-nia, Xa-cha-ri, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li.

27 Trong vòng con cháu Xát-tu: Ê-li-ô-ê-nai, Ê-li-a-síp, Ma-ta-nia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa.

28 Trong vòng con cháu Bê-bai: Giê-hô-ha-nan, Ha-na-nia, Xa-bai, và Át-lai.

29 Trong vòng con cháu Ba-ni: Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đai-gia, Gia-súp, Sê-an, và Giê-rê-mốt.

30 Trong vòng con cháu Ba-hát Mô-áp: Ách-na, Kê-lanh, Bê-nai-gia, Ma-a-sê-gia, Ma-ta-nia, Bê-xa-lên, Binh-nui, và Ma-na-xe.

31 Trong vòng con cháu Ha-rim: Ê-li-ê-xe, Ích-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-mai-gia, Xi-mê-ôn, 32 Bê-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ria.

33 Trong vòng con cháu Ha-sum: Mát-tê-nai, Mát-ta-tha, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mai, Ma-na-xe, và Si-mê-i.

34 Trong vòng con cháu Ba-ni: Ma-A-đai, Am-ram, U-ên, 35 Bê-nai-gia, Bê-đê-gia, Kê-lu-hi, 36 Va-nai-gia, Mê-rê-mốt, Ê-li-a-síp, 37 Mát-ta-nia, Mát-tê-nai, và Gia-a-xu.

38 Trong vòng con cháu Binh-nui: Si-mê-i, 39 Sê-lê-mia, Na-than, A-đai-gia, 40 Mạc-na-đê-bai, Sa-sai, Sa-rai, 41 A-xa-rên, Sê-lê-mia, Sê-ma-ria, 42 Sa-lum, A-ma-ria, và Giô-xép.

43 Trong vòng con cháu Nê-bô: Giê-Y-ên, Mát-ti-thia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai, Giô-ên, và Bê-nai-gia.

44 Tất cả những người đó lấy vợ không phải Do-thái và một số đã có con với họ.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 7:6 giáo sư luật Nguyên văn, “học giả.” Đây là những người chuyên biên chép, nghiên cứu sách vở và trở thành giáo sư.
  2. Ê-xơ-ra 7:8 tháng năm Lịch Do-thái tức khoảng tháng 7-8 dương lịch, năm 458 trước Công nguyên.
  3. Ê-xơ-ra 7:12 Ạc-ta-xét-xe … Ở đây bản văn chuyển từ Hê-bơ-rơ sang ngôn ngữ A-ram.
  4. Ê-xơ-ra 7:22 ba ngàn bốn trăm năm mươi kí Nguyên văn, “100 ta-lâng.”
  5. Ê-xơ-ra 7:22 hộc Nguyên văn, “100 co” (khoảng 22.000 lít).
  6. Ê-xơ-ra 7:22 2.200 lít Nguyên văn, “100 bát.”
  7. Ê-xơ-ra 8:26 năm mươi ngàn cân Nguyên văn, “650 ta-lâng” (khoảng 22.425 kí-lô).
  8. Ê-xơ-ra 8:26 bảy ngàn năm trăm cân Nguyên văn, “100 ta-lâng” (khoảng 3.450 kí-lô).
  9. Ê-xơ-ra 8:27 mười chín cân Nguyên văn, “1.000 đa-rích” (khoảng 8,60 kí-lô).
  10. Ê-xơ-ra 8:31 tháng giêng Lịch Do-thái tức khoảng tháng 3-4 dương lịch, năm 458 trước Công nguyên.
  11. Ê-xơ-ra 10:9 tháng chín Theo lịch Do-thái tức tháng 11-12 dương lịch.
  12. Ê-xơ-ra 10:16 tháng mười Theo lịch Do-thái tức tháng 12-1 dương lịch.
  13. Ê-xơ-ra 10:17 tháng giêng Theo lịch Do-thái tức tháng 3-4 dương lịch.