Add parallel Print Page Options

Cầu xin được bảo vệ

Thi thiên của Đa-vít. Soạn cho nhạc trưởng.

140 Chúa ôi, xin giải cứu tôi khỏi kẻ ác;
    bảo bọc tôi khỏi người hung bạo
là những kẻ lập mưu ác,
    lúc nào cũng gây hấn.
Lưỡi chúng chích như rắn;
    lời nói chúng như nọc rắn. Xê-la

Lạy Chúa, xin giữ gìn tôi khỏi quyền lực kẻ dữ;
    bảo vệ tôi khỏi những kẻ hung bạo chỉ lăm le đánh bẫy tôi.
Kẻ tự phụ lén gài bẫy hại tôi.
    Chúng giăng lưới bên đường;
Chúng gài bẫy cho tôi sụp. Xê-la

Tôi thưa cùng Chúa,
    “Ngài là Chúa tôi.”
Lạy Chúa, xin nghe tiếng
    kêu cứu của tôi.
Lạy Chúa là Thượng Đế,
    Đấng Cứu Chuộc mạnh mẽ của tôi,
Ngài gìn giữ tôi trong chiến trận.
Lạy Chúa, xin đừng ban cho kẻ ác điều chúng ao ước.
    Xin đừng để các mưu mô chúng thành tựu,
Nếu không chúng sẽ đâm ra tự phụ. Xê-la

Những kẻ quanh tôi âm mưu mờ ám.
    Nguyện âm mưu đó trở lại hãm hại chúng.
10 Nguyện than lửa rơi trên đầu chúng.
    Xin hãy ném chúng vào lửa hay vào hố không lối thoát.
11 Xin đừng để kẻ gian dối thành công.
    Nguyện tai họa theo đuổi chúng.
12 Tôi biết Chúa sẽ mang công lý đến cho kẻ nghèo,
    Ngài sẽ bênh vực kẻ khốn khó nơi tòa án.
13 Người nhân đức sẽ ca ngợi danh Ngài;
    Kẻ lương thiện sẽ sống trong sự hiện diện của Ngài.

Cầu xin được tránh xa tội lỗi

Thi thiên của Đa-vít.

141 Lạy Chúa, tôi kêu xin Ngài.
    Xin hãy mau mau đến cùng tôi.
Khi tôi kêu cầu, xin hãy lắng nghe.
Nguyện lời cầu nguyện tôi như trầm hương bay tỏa lên trước mặt Ngài,
    và lời ca ngợi tôi như của lễ buổi chiều.

Lạy Chúa, xin giúp tôi kiềm chế lưỡi tôi;
    giúp tôi thận trọng trong lời ăn tiếng nói.
Xin cất khỏi tôi ý muốn làm ác
    hay nhập bọn làm điều sái bậy.
Xin đừng để tôi ngồi ăn tiệc chung với kẻ ác.
Hãy để người chân chính sửa trị tôi,
    vì đó là điều tốt cho tôi.
Nếu người sửa dạy tôi, tôi sẽ vui mừng đón nhận.
Tôi sẽ mãi cầu xin được chống nghịch lại kẻ làm ác.
Nguyện các người lãnh đạo chúng bị xô xuống vực.
    Bấy giờ mọi người sẽ biết rằng tôi nói đúng:

“Đất đã bị cày lên và bể vụn ra.
    Cũng vậy, xương cốt chúng sẽ bị phân tán trong huyệt mả.”
Thượng Đế ôi, tôi trông đợi Ngài cứu giúp.
    Lạy Chúa, tôi tin cậy nơi Ngài.
    Xin đừng để tôi phải chết mất.
Xin bảo hộ tôi khỏi những cạm bẫy mà chúng gài để bắt tôi
    và khỏi lưới kẻ ác giăng ra.
10 Nguyện kẻ ác mắc vào lưới chúng nó đã giăng,
    Nhưng nguyện tôi đi qua vô sự.

Cầu xin được an toàn

Bài mạch kinh của Đa-vít khi ông trốn trong hang. Lời cầu nguyện.

142 Tôi kêu xin cùng Chúa;
    Tôi nài xin Chúa thương xót.
Tôi trút đổ tâm tư tôi cùng Ngài;
    Tôi trình bày cùng Chúa nỗi sầu khổ của tôi.
Chúa ôi, khi tôi lo sợ,
    thì Chúa chỉ cho tôi lối ra.
Trên đường tôi đi,
    Có cái bẫy gài kín.

Xin hãy nhìn quanh tôi.
    Chẳng ai lo lắng cho tôi.
Tôi chẳng tìm được chỗ nào an ninh cả.
    Nào có ai lo cho mạng sống tôi.
Chúa ôi, tôi kêu cầu cùng Ngài.
    Tôi thưa, “Ngài là nơi bảo vệ tôi.
Ngài là niềm mong ước tôi trên đời nầy.”
Xin hãy lắng nghe tiếng kêu của tôi.
    Vì tôi cô thế.
Xin giải cứu tôi khỏi những kẻ rượt đuổi tôi,
    Vì chúng mạnh hơn tôi.
Xin giải thoát tôi khỏi ngục tù,
    rồi tôi sẽ ca ngợi danh Ngài.
Những người nhân đức sẽ ở chung quanh tôi,
    vì Ngài chăm sóc tôi.

Cầu xin được thoát chết

Thi thiên của Đa-vít.

143 Lạy Chúa, xin nghe lời cầu xin tôi.
    Lắng nghe tiếng tôi kêu xin được cứu giúp.
Xin cho tôi thấy Ngài thành tín và nhân từ.
Xin đừng xét xử tôi,
    kẻ tôi tớ Chúa,
vì không có con người nào vô tội trước mặt Ngài.
Kẻ thù tôi đang rượt đuổi tôi;
    Chúng chà đạp tôi xuống đất.
Chúng bắt tôi sống trong tăm tối
    như kẻ đã chết lâu đời rồi.
Tôi quá run sợ; tôi hết can đảm rồi.
Tôi nhớ lại ngày xưa;
    Tôi xem xét mọi việc Chúa làm.
Tôi suy nghĩ những kỳ công của Ngài.
Tôi giơ tay lên cùng Ngài và cầu nguyện.
    Như đất khô hạn cần nước.
Tôi khao khát Ngài. Xê-la

Lạy Chúa, xin hãy mau mau trả lời tôi,
    vì tôi đang suy yếu.
Xin đừng tránh mặt tôi,
    Nếu không tôi sẽ giống như kẻ đã qua đời.
Buổi sáng xin tỏ cho tôi biết tình yêu Ngài,
    vì tôi tin cậy nơi Chúa.
Xin cho tôi biết điều tôi phải làm,
    Vì lời cầu xin tôi lên đến trước mặt Ngài.
Chúa ôi, xin giải cứu tôi khỏi kẻ thù tôi;
    Tôi ẩn núp trong Ngài.
10 Xin dạy tôi biết ý muốn Ngài,
    vì Ngài là Thượng Đế tôi.
Xin Thánh Linh nhân lành của Chúa
    đặt tôi đứng trên thế đất bằng phẳng.
11 Lạy Chúa, xin cho tôi được sống
    để người ta ca ngợi Ngài.
Vì sự nhân từ Chúa,
    xin hãy cứu tôi ra khỏi mọi gian nan.
12 Vì tình yêu Ngài,
    xin hãy đánh bại kẻ thù tôi.
Xin hãy tiêu diệt mọi kẻ quấy rối tôi,
    Vì tôi là tôi tớ Ngài.

Lời cầu xin được chiến thắng

Do Đa-vít sáng tác.

144 Tôi ca ngợi Chúa là Khối Đá tôi,
    Đấng dạy tôi đánh giặc,
Ngài dạy tôi chiến đấu.
Ngài yêu thương và bảo vệ tôi.
    Ngài là nơi ẩn náu an toàn của tôi trên núi cao.
    Ngài là Đấng bảo vệ và Đấng Cứu Chuộc tôi,
Là cái thuẫn [a] và nguồn che chở tôi.
    Ngài giúp tôi quản trị dân tộc tôi.

Lạy Chúa, loài người là gì mà Chúa lưu tâm?
    Tại sao Chúa lo nghĩ đến con người?
Loài người như hơi thở;
    sự sống con người như bóng thoảng qua.

Lạy Chúa, xin mở bầu trời và nhìn xuống.
    Xin đụng đến núi cho chúng bốc khói lên.
Xin sai sấm chớp xuống
    làm kẻ thù tôi chạy tán loạn.
    Xin hãy bắn tên để chúng bỏ chạy.
Xin hãy với tay xuống từ trời.
    Giải cứu tôi khỏi nước lũ,
    khỏi các kẻ thù nghịch,
    và khỏi tay bọn ngoại quốc.
Bọn chúng là đồ láo khoét và bất lương.

Lạy Thượng Đế, tôi sẽ hát một bài ca mới cho Ngài;
    Tôi sẽ khảy đờn cầm mười dây cho Ngài thưởng thức.
10 Ngài ban chiến thắng cho các vua.
    Ngài cứu Đa-vít kẻ tôi tớ Ngài khỏi lưỡi gươm hiểm độc.

11 Xin hãy giải cứu tôi khỏi bọn ngoại quốc nầy.
    Chúng nó toàn là dối trá và bất lương.
12 Xin cho các con trai thanh xuân của chúng tôi lớn lên như cây cối,
    và con gái chúng tôi như đá chạm trổ trong đền thờ.
13 Xin hãy cho các kho chứa chúng tôi
    tràn đầy hoa lợi đủ loại.
Xin cho bầy chiên chúng tôi ngoài đồng
    sinh sản hằng ngàn hằng vạn chiên con.
14 Xin khiến bầy gia súc chúng tôi sinh sôi nẩy nở.
    Nguyện không có kẻ trộm lẻn vào.
Không có tranh chiến hay tiếng la hãi hùng
    trên đường phố chúng tôi.

15 Phúc cho người nào được hưởng khung cảnh như vậy;
    Phúc cho dân tộc nào có Thượng Đế làm Chúa mình.

Ca ngợi Thượng Đế là vua

Thi thiên ca ngợi của Đa-vít.

145 Lạy Chúa là vua,
    tôi ca ngợi sự cao cả của Ngài;
Tôi sẽ ca ngợi Ngài mãi mãi.
Hằng ngày tôi sẽ ca ngợi Ngài.
    Tôi sẽ ca ngợi Ngài đời đời kiếp kiếp.
Chúa là Đấng cao cả đáng được tán tụng;
    không ai dò được sự cao cả của Ngài.
Cha mẹ thuật lại cho con cái điều Ngài đã làm.
    Họ sẽ thuật lại những kỳ công của Ngài,
sự oai nghi lạ lùng và vinh hiển Ngài.
    Tôi sẽ suy nghĩ về những phép lạ Ngài.
Họ sẽ thuật lại những việc diệu kỳ Ngài đã làm,
    còn tôi sẽ thuật lại sự cao cả của Ngài.
Họ sẽ nhớ lại sự nhân từ lớn lao của Ngài,
    và ca tụng sự công chính Ngài.
Chúa thật nhân từ, giàu lòng từ ái.
    Ngài chậm giận và đầy lòng yêu thương.
Chúa nhân từ đối với mọi người;
    Ngài luôn thương xót những vật Ngài tạo nên.
10 Lạy Chúa, mọi vật Ngài làm nên sẽ ca ngợi Ngài;
    những ai thuộc về Ngài sẽ chúc tụng Ngài.
11 Họ sẽ thuật lại sự vinh hiển của nước Ngài,
    và kể lại quyền năng Ngài.
12 Mọi người sẽ biết những việc lớn lao Ngài làm
    cùng quyền năng và sự oai nghi của nước Ngài.
13 Nước Ngài sẽ còn đời đời,
    Ngài sẽ mãi mãi cai trị.

Chúa sẽ luôn luôn giữ lời hứa Ngài;
    Ngài thành tín đối với những vật Ngài tạo nên.
14 Chúa giúp những ai đang bị thất thế
    và chăm sóc những kẻ đang lâm cảnh khó khăn.
15 Mọi sinh vật đều trông đợi Chúa ban thức ăn.
    Ngài cho chúng đồ ăn đúng giờ.
16 Chúa xòe tay ra, thoả mãn muôn vật.
17 Mọi điều Chúa làm đều đúng.
    Ngài thành tín đối với những vật Ngài tạo nên.
18 Chúa ở gần những kẻ cầu xin Ngài,
    tức những ai thật lòng tìm kiếm Ngài.
19 Ngài ban cho những kẻ tôn kính Ngài
    điều họ ao ước.
Ngài nghe tiếng họ khi họ kêu cứu và giải cứu họ.
20 Chúa bảo vệ những ai yêu mến Ngài,
    nhưng Ngài tiêu diệt kẻ ác.
21 Tôi sẽ ca ngợi Chúa.
Tất cả mọi người hãy ca ngợi danh thánh của Ngài
    cho đến đời đời.

Footnotes

  1. Thánh Thi 144:2 thuẫn Hay “mộc” hoặc “khiên.”

Cầu Xin Chúa Bảo Vệ Khỏi Kẻ Gian Ác

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Chúa ôi, cầu xin Ngài giải cứu con khỏi những kẻ gian ác;
Xin bảo vệ con khỏi những kẻ hung tàn;
Ðó là những kẻ trong lòng cứ toan mưu hiểm độc;
Chúng hội họp liên miên để gây sự với người ta.
Chúng chuốc mài lưỡi chúng bén nhọn như lưỡi rắn;
Dưới môi chúng là nọc độc chờ nhả chất độc ra. (Sê-la)

Chúa ôi, xin gìn giữ con khỏi tay những kẻ gian ác;
Xin bảo vệ con khỏi những kẻ hung tàn,
Những kẻ cố tình muốn làm chân con vấp ngã.
Những kẻ kiêu ngạo gài bẫy và giăng dây để hại con;
Chúng giăng bẫy lưới dọc bên đường con đi;
Chúng đặt bẫy để bắt con. (Sê-la)

Con thưa với Chúa rằng: Ngài là Ðức Chúa Trời của con;
Chúa ôi, xin lắng tai nghe tiếng cầu xin của con.
Lạy Chúa là Chúa của con,
Ðấng Giải Cứu quyền năng của con,
Ngài từng che chở đầu con trong ngày chiến trận.
Chúa ôi, xin đừng để kẻ ác được toại nguyện;
Xin đừng để ý đồ của kẻ ác được nên, kẻo chúng sẽ tự cao. (Sê-la)

Nguyện đầu của những kẻ bao vây con
Bị phủ bằng tai họa do môi chúng nói ra.
10 Nguyện các than lửa hừng đổ xuống đầu chúng;
Nguyện chúng bị quăng vào lò lửa,
Bị ném vào vực sâu, và không trồi lên được nữa.
11 Nguyện kẻ vu khống không được vững lập trên đất;
Nguyện điều dữ săn đuổi kẻ bạo tàn để tiêu diệt nó đi.

12 Con biết Chúa sẽ binh vực duyên cớ của kẻ khốn cùng,
Và thi hành công lý cho người nghèo khó.
13 Chắc chắn người ngay lành sẽ cảm tạ danh Ngài;
Người ngay thật sẽ ở trước thánh nhan Ngài.

Lời Cầu Nguyện Buổi Tối

Xin Chúa Thánh Hóa và Bảo Vệ

Thơ của Ða-vít

Chúa ôi, con kêu cầu Ngài, xin mau mau đến với con.
Xin lắng tai nghe tiếng con khi con van xin Ngài.
Nguyện lời cầu nguyện của con như hương thơm trước mặt Ngài;
Nguyện đôi tay con đưa lên như của lễ dâng lên lúc chiều tàn.

Chúa ôi, xin canh giữ miệng con;
Xin canh giữ cửa môi con.
Xin đừng để lòng con hướng về bất cứ điều ác nào;
Xin đừng để con tham dự vào việc gian ác với kẻ tội lỗi;
Xin đừng để con ăn cao lương mỹ vị của chúng.

Nguyện người ngay lành đánh con, ấy là làm ơn cho con;
Nguyện người ấy quở trách con, đó là xức dầu cho đầu con.
Xin đừng để đầu con từ chối nhận lãnh điều ấy;
Vì con hằng cầu nguyện chống lại việc gian tà của những kẻ làm ác.

Khi những kẻ cầm quyền của chúng bị ném xuống từ gành đá,
Bấy giờ chúng sẽ nghe những lời con nói, vì lời con dịu dàng.
Nguyện chúng nói, “Như các miểng đá bị đập vỡ và văng tứ tung trên mặt đất thể nào,
Xương chúng tôi nằm rải rác ở cửa mồ cũng thể ấy.”

Lạy Chúa, Chúa của con, mắt con hướng về Ngài;
Con tin cậy nơi Ngài; xin đừng bỏ con trơ trọi.
Xin giữ con không sa vào gọng kẹp của bẫy chúng gài,
Chẳng rơi vào cạm bẫy của những kẻ làm điều tội lỗi.
10 Nguyện những kẻ gian ác sa vào lưới chúng giăng,
Trong khi con vượt qua bình yên vô sự.

Xin Chúa Giúp Ðỡ Khi Gặp Hoạn Nạn

Thơ giáo huấn của Ða-vít khi ông trốn trong hang đá.

Ðây là lời cầu nguyện của ông:

Tôi hướng về Chúa và cất tiếng kêu cầu;
Tôi cất tiếng dâng lên Chúa lời cầu nguyện của tôi.
Tôi dốc đổ phiền muộn của lòng tôi ra trước mặt Ngài;
Tôi trình dâng nỗi khổ của tôi lên trước thánh nhan Ngài.

Khi tâm linh con nao sờn ở trong con,
Thì chính Ngài biết rõ lối con đi.
Trong con đường con tiến bước,
Chúng đã âm thầm gài bẫy hại con.
Xin Ngài nhìn bên phải con và xem;
Chẳng ai ngó ngàng gì đến con cả.
Con chẳng còn một lối thoát nào;
Thật chẳng ai quan tâm gì đến linh hồn con cả.

Chúa ôi, con kêu cầu Ngài;
Con nói, “Ngài là nơi ẩn náu của con;
Ngài là phần của con trong cõi nhân sinh.
Xin đoái đến tiếng kêu cầu của con,
Vì con khốn khổ vô cùng;
Xin cứu con khỏi những kẻ bách hại con,
Vì chúng mạnh hơn con.
Xin đem linh hồn con ra khỏi chốn ngục tù,
Ðể con có thể ca ngợi danh Ngài;
Rồi những người ngay lành sẽ tụ lại quanh con,
Vì Ngài hậu đãi con.”

Xin Chúa Giải Cứu và Dẫn Dắt

Thơ của Ða-vít

Chúa ôi, xin lắng nghe lời cầu nguyện của con;
Xin nghiêng tai nghe tiếng cầu xin của con.
Xin lấy đức thành tín và đức công chính của Ngài nhậm lời con.
Cầu xin Ngài đừng đem con, đầy tớ Ngài, ra xét đoán,
Vì trước mặt Ngài, chẳng người sống nào là ngay lành.

Kẻ thù của con đã làm khổ con biết bao;
Nó giày đạp mạng sống con dưới đất;
Nó làm cho con phải sống trong tối tăm,
Chẳng khác gì những kẻ đã chết từ lâu.
Bởi thế tâm linh con nao sờn trong con;
Lòng con buồn rũ rượi trong con.

Con nhớ lại những ngày xa xưa;
Con suy gẫm mọi việc Ngài đã làm;
Con chiêm nghiệm những việc tay Ngài thực hiện.
Con đưa hai tay lên hướng về Ngài cầu nguyện;
Linh hồn con khao khát Ngài như đất khô khao khát nước. (Sê-la)

Xin mau đáp lời con, Chúa ôi, vì tâm linh con đang sờn ngã.
Xin đừng ẩn mặt Ngài khỏi con,
Kẻo con như những kẻ sắp xuống huyệt mả chăng.
Xin cho con nghe tình thương của Ngài khi bình minh ló dạng,
Vì con tin cậy nơi Ngài;
Xin dạy con đường lối con nên đi,
Vì linh hồn con ngưỡng vọng Ngài.

Chúa ôi, xin giải cứu con khỏi những kẻ thù ghét con,
Vì con nương náu mình nơi Ngài.
10 Xin dạy con làm theo ý Ngài, vì Ngài là Ðức Chúa Trời của con;
Nguyện Thần Linh thánh thiện của Ngài dẫn con vào đất phẳng bằng.

11 Vì cớ danh Ngài, Chúa ôi, xin phục hồi sinh lực cho con.
Vì đức công chính của Ngài, xin đem linh hồn con ra khỏi cảnh gian truân.
12 Vì lòng thương xót của Ngài, xin tiêu diệt kẻ thù của con,
Và diệt mất tất cả những kẻ làm khổ linh hồn con,
Vì con là tôi tớ Ngài.

Xin Chúa Cứu và Ban Phước

Thơ của Ða-vít

Chúc tụng Chúa, Vầng Ðá của con,
Ðấng dạy tay con đánh trận và ngón tay con chiến đấu.
Ngài là Ðấng yêu thương và đồn lũy của con;
Ngài là thành trì và Ðấng Giải Cứu của con;
Ngài là thuẫn khiên của con và Đấng con nương náu;
Ngài đã bắt các dân[a] phải phục tùng dưới quyền con.

Chúa ôi, loài người là gì mà Ngài quan tâm đến?
Con của loài người là chi mà Ngài phải bận lòng?
Loài người mong manh như hơi thở;
Ðời người qua nhanh như chiếc bóng thoáng qua.

Chúa ôi, xin nghiêng các tầng trời và ngự xuống;
Xin đụng các núi non để chúng bốc khói mịt mù.
Xin ban chớp nhoáng ra, khiến quân thù chạy tán loạn;
Xin phát sấm sét ra, làm cho chúng tiêu tan.
Từ trời cao xin tay Ngài vói xuống,
Cứu vớt con và giải thoát con khỏi các dòng nước mạnh,
Tức khỏi tay các dân ngoại,[b]
Những kẻ có miệng chuyên nói dối,
Tay phải chúng là tay phải dối lừa.

Ðức Chúa Trời ôi, con sẽ hát dâng Ngài một bài ca mới;
Hòa với nhạc khí bằng dây,[c] con sẽ hát tôn ngợi Ngài,
10 Hầu dâng lên Ðấng ban chiến thắng[d] cho các vua,
Ðấng giải cứu Ða-vít tôi tớ Ngài khỏi lưỡi gươm ác nghiệt.
11 Xin giải cứu con và giải thoát con khỏi tay các dân ngoại,
Những kẻ có miệng chuyên nói dối,
Tay phải chúng là tay phải dối lừa.

12 Nguyện các con trai chúng con dũng mãnh trong tuổi thanh xuân như những cây xanh mạnh mẽ;
Nguyện các con gái chúng con xinh đẹp tựa những tảng đá góc chạm khắc tuyệt mỹ trong cung đình.

13 Nguyện các kho của chúng con đầy tràn mọi lương thực;
Nguyện các đàn chiên của chúng con sinh sản hằng ngàn hằng vạn trong các cánh đồng.
14 Nguyện các đàn bò của chúng con sinh đẻ thật nhiều.
Nguyện không có gì đổ vỡ và không có gì thất thoát.
Nguyện không có tiếng khóc than nào trong các đường phố của chúng con.

15 Phước cho dân nào được như vậy.
Phước cho dân nào có Chúa là Đức Chúa Trời[e] của mình!

Ca Tụng Lòng Tốt của CHÚA

Thơ chúc tụng của Ða-vít

(Theo mẫu tự Hê-bơ-rơ)

Ôi Vua, Ðức Chúa Trời của con, con tôn ngợi Ngài;
Con sẽ chúc tụng danh Ngài đời đời vô cùng.
Mỗi ngày con sẽ chúc tụng Ngài;
Con sẽ ca ngợi danh Ngài đời đời vô cùng.
Chúa thật vĩ đại và rất đáng ca ngợi;
Sự vĩ đại Ngài không sao dò thấu được.

Thế hệ này ca ngợi công việc của Ngài cho thế hệ kia;
Họ sẽ rao truyền các việc quyền năng của Ngài.
Con sẽ ca ngợi sự vinh hiển huy hoàng của uy nghi Ngài;
Con sẽ rao ra các việc diệu kỳ của Ngài.
Rồi người ta sẽ nói đến các việc kinh hoàng của quyền năng Ngài;
Và con sẽ mãi cao rao sự vĩ đại của Ngài.
Họ sẽ hăm hở thuật lại những kinh nghiệm về lòng tốt vô biên của Ngài,
Và lớn tiếng hoan ca đức công chính của Ngài.

Chúa thật khoan dung độ lượng và giàu lòng thương xót,
Chậm nóng giận và đầy dẫy tình thương.
Chúa thật tốt với mọi người;
Ơn thương xót của Ngài bao trùm mọi vật Ngài đã dựng nên.

10 Chúa ôi, mọi vật Ngài đã dựng nên sẽ cảm tạ Ngài;
Các thánh đồ của Ngài sẽ chúc tụng Ngài.
11 Họ sẽ nói về vinh hiển của vương quốc Ngài,
Và ca tụng quyền năng Ngài,
12 Ðể con cái loài người biết các việc quyền năng Ngài,
Và vinh hiển uy nghi của vương quốc Ngài.
13 Vương quốc Ngài là vương quốc đời đời;
Quyền thống trị của Ngài kéo dài mọi thế hệ.
( Chúa rất thành tín về những lời Ngài đã hứa;
Ngài thương yêu mọi vật Ngài đã dựng nên.)[f]
14 Chúa đỡ dậy mọi người bị ngã quỵ;
Ngài nâng lên những ai bị bắt phải sấp mình.

15 Mắt của mọi loài ngóng trông nơi Ngài;
Ngài ban cho chúng thức ăn đúng lúc.
16 Ngài sè tay ra,
Mọi sinh vật được no nê.

17 Trong mọi đường lối Ngài, Chúa lúc nào cũng đúng;
Ngài rất nhân từ với mọi vật Ngài dựng nên.

18 Chúa ở gần mọi người cầu khẩn Ngài;
Ngài ở gần mọi người chân thành cầu khẩn Ngài.
19 Ngài làm thỏa nguyện những người kính sợ Ngài;
Và Ngài cũng nghe tiếng kêu cầu của họ và giải cứu cho.
20 Chúa gìn giữ mọi người yêu kính Ngài,
Nhưng Ngài tiêu diệt mọi kẻ gian ác.

21 Miệng tôi sẽ nói lên những lời ca ngợi Chúa.
Nguyện mọi loài xác thịt sẽ chúc tụng danh thánh của Ngài đời đời vô cùng.

Footnotes

  1. Thánh Thi 144:2 nt: dân tộc con (Masoretic Text)
  2. Thánh Thi 144:7 ctd: các thế lực ngoại bang thờ thần tượng hư không (tương tự, c. 11)
  3. Thánh Thi 144:9 nt: hạc cầm mười dây
  4. Thánh Thi 144:10 ctd: Ðấng ban ơn cứu rỗi
  5. Thánh Thi 144:15 ctd: Thần
  6. Thánh Thi 145:13 Một số bản cổ thiếu câu trong hai móc ngoặc nầy