Add parallel Print Page Options

Ni-cô-đem thăm Chúa Giê-xu

Trong nhóm người Pha-ri-xi, có Ni-cô-đem, là một trong những lãnh tụ Do-thái. Ban đêm ông đến thăm Chúa Giê-xu và nói rằng, “Thưa thầy, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Thượng Đế phái xuống vì không ai có thể làm được những phép lạ mà thầy đã làm nếu không có Thượng Đế ở cùng.”

Chúa Giê-xu đáp, “Tôi bảo thật: Không ai có thể vào Nước Trời nếu không sinh lại.”

Ni-cô-đem thắc mắc, “Người già rồi thì làm thế nào mà sinh lại được? Chẳng lẽ trở vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?”

Chúa Giê-xu đáp, “Tôi bảo thật, không ai có thể vào Nước Trời nếu không sinh bằng nước và Thánh Linh. Sự sống xác thể do con người theo phần thể xác sinh ra, nhưng sự sống thiêng liêng do Thánh Linh sinh ra. Đừng ngạc nhiên về điều tôi nói ‘Mọi người phải sinh lại.’ Gió muốn thổi đâu cũng được. Ông nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến rồi sẽ thổi đi đâu. Ai được sinh bởi Thánh Linh cũng giống như vậy.”

Ni-cô-đem hỏi, “Việc ấy làm thế nào được?”

10 Chúa Giê-xu đáp, “Ông là giáo sư nổi danh của người Ít-ra-en mà không hiểu những việc ấy sao? 11 Tôi bảo thật: Chúng tôi nói điều mình biết và thuật lại những gì mình thấy, nhưng các ông không chấp nhận những lời chứng của chúng tôi. 12 Tôi nói những việc dưới đất mà các ông còn không chịu tin, huống hồ khi tôi nói đến những việc trên trời thì làm sao các ông tin? 13 Người duy nhất đã từng lên trời là Đấng từ trời xuống. Đó là Con Người.

14 Xưa kia Mô-se treo con rắn lên trong sa mạc [a] thế nào thì Con Người cũng phải bị treo lên như thế, 15 để ai tin Ngài đều được sự sống đời đời. [b]

16 Vì Thượng Đế quá yêu nhân loại đến nỗi hi sinh Con Một của Ngài, để ai đặt niềm tin vào Con ấy sẽ không bị chết mất nhưng được sống đời đời. 17 Thượng Đế sai Con Ngài đến thế gian không phải để kết tội thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu. 18 Ai tin nhận Con Trời sẽ không bị kết tội, nhưng ai không chịu tin thì đã bị kết tội rồi, vì không tin nhận Con Một của Thượng Đế. 19 Họ bị kết tội vì lý do nầy: Ánh sáng [c] đã đến trong thế gian, nhưng họ không thích ánh sáng. Họ lại ưa bóng tối vì việc làm của họ xấu xa. 20 Ai làm ác thì ghét và không thích đến gần ánh sáng vì sợ bị phơi bày việc làm xấu xa của mình. 21 Nhưng ai đi theo sự thật thì thích đến với ánh sáng, để ánh sáng bày tỏ rằng việc mình làm là do Thượng Đế hướng dẫn.” [d]

Chúa Giê-xu và Giăng Báp-tít

22 Sau đó, Chúa Giê-xu cùng môn đệ đi đến miền Giu-đia. Ngài ở đó ít lâu với họ và làm lễ báp-têm. 23 Giăng cũng làm báp-têm ở Ê-nôn, gần Xa-lim vì nơi ấy có nhiều nước. Dân chúng kéo đến để chịu lễ báp-têm. 24 Lúc ấy Giăng chưa bị tù.

25 Vài môn đệ của Giăng cãi nhau với một người Do-thái về nghi lễ tẩy sạch. [e] 26 Họ đến báo với Giăng, “Người trước kia ở với thầy phía bên kia sông Giô-đanh mà thầy đã làm chứng cho, hiện nay cũng đang làm lễ báp-têm và ai nấy đều đến với ông ấy!”

27 Giăng đáp, “Chẳng ai nhận được gì mà không phải Trời cho. 28 Chính các anh công nhận lời tôi nói, ‘Tôi không phải là Đấng Được Lựa Chọn, mà chỉ là người được sai đến trước để dọn đường cho Ngài mà thôi.’” 29 Cô dâu thuộc về chú rể; nhưng người bạn giúp đỡ chú rể đứng chờ và lắng nghe, lòng khấp khởi vui mừng khi nghe tiếng chú rể. Hiện tại tôi cũng vui mừng như thế. 30 Ngài phải càng trổi hơn, còn tôi phải càng kém đi.

Đấng từ trời xuống

31 “Đấng từ trên xuống cao trọng hơn tất cả. Ai từ đất ra là thuộc về đất, nói những điều thuộc về đất, nhưng Đấng từ trời xuống cao trọng hơn mọi loài. 32 Ngài nói những điều mình nghe thấy, nhưng không ai chịu tiếp nhận lời làm chứng của Ngài. 33 Nhưng ai tin nhận lời làm chứng của Ngài thì chứng tỏ rằng Thượng Đế là chân thật. 34 Đấng mà Thượng Đế sai đến nói ra những lời của Thượng Đế vì Thượng Đế ban cho Ngài đầy dẫy Thánh Linh. 35 Cha yêu Con nên giao tất cả mọi sự cho Con. 36 Ai tin Con thì được sống đời đời; còn ai không vâng phục Con thì sẽ chẳng có sự sống, trái lại cơn thịnh nộ của Thượng Đế hiện đang đè nặng trên người ấy.”

Chúa Giê-xu nói chuyện với người đàn bà Xa-ma-ri

Khi Chúa Giê-xu biết việc người Pha-ri-xi nghe đồn Ngài chiêu mộ và làm lễ báp-têm cho nhiều người hơn Giăng, thật ra không phải Chúa Giê-xu mà là các môn đệ Ngài làm lễ báp-têm, thì liền rời miền Giu-đia trở về miền Ga-li-lê. Trên đường về Ngài phải băng qua xứ Xa-ma-ri.

Đến một thị trấn thuộc xứ Xa-ma-ri gọi là Xi-kha, gần thửa ruộng mà Gia-cốp cho Giô-xép, con mình. Ở đó có cái giếng Gia-cốp. Mỏi mệt vì đi đường xa, nên Chúa Giê-xu ngồi nghỉ chân bên giếng. Lúc ấy khoảng giữa trưa. Có một người đàn bà Xa-ma-ri đến giếng để lấy nước. Chúa Giê-xu nói với chị, “Chị làm ơn cho tôi xin chút nước uống.” Chuyện xảy ra khi các môn đệ Ngài đang vào phố mua thức ăn.

Người đàn bà Xa-ma-ri trả lời, “Ơ kìa, ông là đàn ông Do-thái mà tại sao lại xin nước uống ở tôi là đàn bà Xa-ma-ri?” Người Do-thái không thích tiếp xúc với người Xa-ma-ri [f].

10 Chúa Giê-xu đáp, “Nếu chị biết được ơn lành từ Thượng Đế là gì và biết người xin chị nước uống là ai, chắc hẳn chị sẽ xin và người ấy sẽ cho chị nước sống.”

11 Chị hỏi, “Thưa ông, giếng thì sâu mà ông lại không có gàu để múc, vậy ông lấy nước sống ấy ở đâu? 12 Tổ tiên chúng tôi là Gia-cốp đã để lại cho chúng tôi giếng nầy; chính ông ấy cùng con cháu và bầy gia súc đều uống nước từ đó. Ông lớn hơn Gia cốp à?”

13 Chúa Giê-xu đáp, “Ai uống nước nầy rồi sẽ còn khát mãi, 14 nhưng người nào uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho người ấy sẽ trở thành một suối nước tuôn trào từ bên trong và dẫn đến sự sống đời đời.”

15 Chị thưa, “Xin ông làm ơn cho tôi nước ấy đi để tôi không khát nữa và khỏi cần đến đây lấy nước.”

16 Chúa Giê-xu bảo, “Chị về gọi chồng chị đến đây.”

17 Chị đáp, “Tôi không có chồng.”

Chúa Giê-xu tiếp, “Chị nói không có chồng là đúng lắm. 18 Thật ra chị đã có năm đời chồng rồi, còn người đàn ông mà chị đang chung sống cũng chẳng phải là chồng chị. Chị đã nói thật.”

19 Chị đáp, “Thưa ông, tôi nhận thấy ông là nhà tiên tri. 20 Tổ tiên chúng tôi thờ phụng trên núi nầy, còn người Do-thái các ông thì lại cho rằng nơi phải thờ phụng là Giê-ru-sa-lem.”

21 Chúa Giê-xu bảo, “Chị tin tôi đi. Đến lúc người ta không còn thờ phụng Cha trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem nữa. 22 Người Xa-ma-ri không biết điều mình thờ phụng; nhưng chúng tôi biết điều chúng tôi thờ phụng vì sự cứu rỗi đến từ người Do-thái. 23 Đã đến lúc mọi người thờ phụng chân thật sẽ thờ phụng Cha bằng tâm linh và sự thật. Thời điểm đó đã đến rồi. Chị thấy không, Cha đang tìm kiếm những kẻ thờ phụng như thế. 24 Thượng Đế là linh thần nên ai thờ phụng Ngài phải dùng tâm linh và lòng thành thật.”

25 Người đàn bà thưa, “Tôi biết Đấng Mê-si sắp đến.” Mê-si có nghĩa là Đấng Cứu Thế. “Khi Ngài đến, Ngài sẽ giải thích mọi việc cho chúng ta.”

26 Chúa Giê-xu bảo, “Đấng ấy chính là tôi đây, người đang nói chuyện với chị.”

27 Lúc đó các môn đệ Ngài cũng từ phố vừa về tới. Họ sửng sốt khi thấy Ngài nói chuyện với một người đàn bà. Tuy nhiên không ai hỏi Ngài, “Thầy cần gì?” hoặc “Sao thầy nói chuyện với chị ấy?”

28 Chị bỏ bầu nước lại, trở vào thành bảo dân chúng, 29 “Ra mà xem một người đã nói vanh vách hết tất cả những gì tôi làm. Biết đâu chừng ông ta là Đấng Cứu Thế?” 30 Do đó dân chúng lũ lượt từ thành kéo nhau ra gặp Chúa Giê-xu.

31 Trong khi ấy các môn đệ nài nỉ Chúa Giê-xu, “Mời thầy ăn một chút.”

32 Nhưng Chúa Giê-xu đáp, “Ta có một thức ăn mà các con không biết.”

33 Các môn đệ hỏi nhau, “Có ai mang thức ăn cho thầy rồi sao?”

34 Chúa Giê-xu đáp, “Thức ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến và làm xong công việc Ngài. 35 Các con hay nói, ‘Còn bốn tháng nữa là tới mùa gặt.’ Nhưng ta bảo các con, hãy mở mắt nhìn cánh đồng; lúa đã chín, sẵn sàng để gặt rồi! 36 Thợ gặt được trả công và đang thu góp mùa màng vào sự sống đời đời. Vì thế mà cả người trồng lẫn người gặt đều vui chung. 37 Câu ngạn ngữ nói đúng, ‘Người nầy gieo, kẻ kia gặt.’ 38 Ta sai các con đến gặt một loại hoa màu mà các con không phải bỏ công lao. Người khác đã ra sức, còn các con vào hưởng công lao của họ.”

39 Có nhiều người Xa-ma-ri ở thành ấy tin Chúa Giê-xu qua lời làm chứng của người đàn bà rằng, “Người kể vanh vách mọi điều tôi làm.” 40 Lúc các người Xa-ma-ri ra gặp Ngài thì nài nỉ Ngài ở lại với họ, nên Chúa Giê-xu nhận lời và ở lại tại đó hai ngày. 41 Có thêm nhiều người nữa tin, sau khi nghe những lời dạy của Ngài.

42 Họ bảo chị, “Lúc đầu chúng tôi tin, vì lời làm chứng của chị, nhưng bây giờ chúng tôi tin vì chúng tôi đã nghe Ngài tận tai và biết chắc rằng người nầy quả thật là Đấng Cứu Thế của nhân loại.”

Chữa lành con trai của một sĩ quan(A)

43 Hai ngày sau, Chúa Giê-xu rời nơi ấy đi đến miền Ga-li-lê. 44 Ngài đã từng nói là chẳng có nhà tiên tri nào được tôn trọng nơi quê hương mình cả. 45 Khi đến miền Ga-li-lê, dân chúng nơi ấy tiếp đón Ngài, vì họ đã chứng kiến mọi việc Ngài làm trong lễ Vượt Qua, và họ cũng có mặt tại đó.

46 Chúa Giê-xu trở lại viếng thành Ca-na thuộc Ga-li-lê, nơi Ngài đã biến nước thành rượu. Một sĩ quan cao cấp của nhà vua ở thành Ca-bê-nâm có đứa con trai đang lâm bệnh. 47 Khi nghe Chúa Giê-xu từ Giu-đia đã trở về Ga-li-lê, ông liền đi đón và van xin Ngài đến Ca-bê-nâm chữa lành cho con mình đang hấp hối. 48 Chúa Giê-xu bảo, “Tại sao các ông luôn luôn phải thấy dấu kỳ và phép lạ thì mới chịu tin?”

49 Viên sĩ quan nài nỉ, “Xin Ngài làm ơn đến trước khi con tôi chết.”

50 Chúa Giê-xu bảo, “Ông cứ về đi. Con của ông sẽ sống.”

Viên sĩ quan đó tin lời Chúa Giê-xu bảo và đi về. 51 Trên đường về thì các đầy tớ ra đón và báo tin, “Con của chủ khỏi bệnh rồi!”

52 Ông hỏi họ, “Con tôi bắt đầu hết bệnh vào giờ nào?”

Họ đáp, “Khoảng một giờ trưa hôm qua, cơn sốt dứt.”

53 Người cha liền nhớ lại đó chính là giờ mà Chúa Giê-xu bảo, “Con của ông sẽ sống!” Nên ông và cả nhà đều tin nhận Ngài.

54 Đó là phép lạ thứ nhì mà Chúa Giê-xu làm sau khi từ miền Giu-đia trở về Ga-li-lê.

Footnotes

  1. Giăng 3:14 Mô-se treo … sa mạc Khi dân Chúa đang sắp chết vì bị rắn cắn thì Ngài bảo Mô-se làm một con rắn bằng đồng treo lên một cây sào để cho ai nhìn nó thì được sống. Xem Dân 21:4-9.
  2. Giăng 3:15 để ai … đời đời Một số học giả cho rằng câu nầy của Chúa Giê-xu nói chấm dứt ở các câu 16-21.
  3. Giăng 3:19 Ánh sáng Đây có nghĩa là Đấng Cứu thế, Thiên Ngôn, Đấng mang sự hiểu biết về Thượng Đế đến cho thế gian.
  4. Giăng 3:21 Nhưng ai … hướng dẫn Vài học giả cho rằng các câu 16–21 là lời Chúa Giê-xu nói. Còn một số học giả khác thì cho rằng đó là lời của Giăng.
  5. Giăng 3:25 nghi lễ tẩy sạch Người Do-thái có những qui tắc về việc rửa ráy theo một cách riêng trước khi ăn, trước khi thờ phụng trong đền thờ, hay vào các dịp khác.
  6. Giăng 4:9 Người Do-thái … Xa-ma-ri Hay “Người Do-thái không dùng những món đồ mà người Xa-ma-ri đã dùng.”

Chúa và Ni-cô-đem Ðàm Ðạo

Trong vòng những người Pha-ri-si có một người tên là Ni-cô-đem, một người lãnh đạo dân Do-thái. Ban đêm ông đến gặp Ngài và nói với Ngài, “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là giáo sư đến từ Ðức Chúa Trời, vì không ai có thể làm những phép lạ Thầy làm nếu Ðức Chúa Trời không ở cùng người ấy.”

Ðức Chúa Jesus trả lời và nói với ông, “Quả thật, quả thật, Ta nói với ngươi, nếu một người chẳng được sinh lại, người ấy không thể thấy vương quốc Ðức Chúa Trời.”

Ni-cô-đem nói với Ngài, “Làm sao một người già có thể sinh lại được? Có thể nào người ấy trở vào lòng mẹ lần thứ hai để được sinh ra sao?”

Ðức Chúa Jesus đáp, “Quả thật, quả thật, Ta nói với ngươi, nếu một người không được sinh ra bởi nước và Ðức Thánh Linh, người ấy không thể vào vương quốc Ðức Chúa Trời. Hễ chi sinh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sinh bởi Ðức Thánh Linh là linh. Chớ ngạc nhiên về điều Ta nói với ngươi rằng các ngươi phải được sinh lại. Gió muốn thổi đi đâu thì thổi; ngươi nghe tiếng gió nhưng không biết gió đến từ đâu và sẽ đi đâu. Ai được sinh ra bởi Ðức Thánh Linh thì cũng như vậy.”

Ni-cô-đem đáp lời và nói với Ngài, “Làm sao những điều ấy có thể xảy ra được?”

10 Ðức Chúa Jesus trả lời và nói với ông, “Ngươi là giáo sư của dân I-sơ-ra-ên mà không biết những điều ấy sao? 11 Quả thật, quả thật, Ta nói với ngươi, Chúng Ta nói điều Chúng Ta biết và làm chứng điều Chúng Ta thấy, nhưng các ngươi không chấp nhận những lời chứng của Chúng Ta. 12 Nếu Ta nói với các ngươi những việc dưới đất mà các ngươi không tin, làm sao các ngươi sẽ tin được nếu Ta nói những việc trên trời? 13 Chưa ai lên trời bao giờ ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống. 14 Như Môi-se treo con rắn lên trong đồng vắng thế nào, Con Người cũng bị treo lên thể ấy, 15 để ai tin Người sẽ có sự sống đời đời. 16 Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin Con ấy không bị chết mất nhưng có sự sống đời đời. 17 Vì Ðức Chúa Trời sai Con Ngài đến thế gian không để lên án thế gian, nhưng để thế gian được cứu nhờ Con ấy. 18 Ai tin Con ấy không bị lên án, nhưng ai không tin đã bị kết án rồi, vì đã không tin đến danh của Con Một Ðức Chúa Trời. 19 Bản án đó là thế này: ánh sáng đã vào thế gian, nhưng người ta yêu chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc làm của họ là gian tà. 20 Phàm ai hành động gian tà đều ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng, vì sợ các việc làm của mình bị lộ ra. 21 Nhưng ai làm điều chân thật thì đến với ánh sáng, để các việc làm của mình có thể được tỏ ra, vì đã được thực hiện trong Ðức Chúa Trời.”

Giăng Báp-tít Làm Chứng về Chúa

22 Sau những việc ấy Ðức Chúa Jesus và các môn đồ Ngài đến miền Giu-đê. Ngài và các môn đồ Ngài ở lại đó và làm báp-têm. 23 Khi ấy Giăng cũng đang làm báp-têm tại Ê-nôn, gần Sa-lim, vì chỗ đó có nhiều nước, và người ta kéo đến để được báp-têm. 24 Lúc ấy Giăng chưa bị tù.

25 Bấy giờ có cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đồ của Giăng với người Do-thái về lễ thanh tẩy. 26 Sau đó họ đến với Giăng và nói với ông, “Thưa thầy, Người đã ở với thầy bên kia Sông Giô-đanh, Người mà thầy đã làm chứng cho, kìa, Người ấy đang làm báp-têm, và mọi người đều đến với Người ấy.”

27 Giăng trả lời và nói, “Nếu chẳng từ trời ban cho, không ai nhận được gì. 28 Chính anh em làm chứng cho tôi rằng tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Christ, nhưng tôi chỉ là người được sai đến trước Ngài. 29 Ai có cô dâu mới là chàng rể. Bạn của chàng rể chỉ đứng, nghe chàng rể nói, và rất đỗi vui mừng khi nghe tiếng chàng rể. Ðó là niềm vui của tôi và bây giờ đã được trọn. 30 Ngài phải được tôn lên, còn tôi phải hạ xuống.”

31 Ðấng đến từ trên thì trên tất cả. Người ra từ đất là thuộc về đất, và nói những việc thuộc về đất. Ðấng đến từ trời thì trên tất cả. 32 Ngài làm chứng về những gì Ngài đã thấy và nghe; tiếc rằng không ai tin nhận lời chứng của Ngài. 33 Người nào tin nhận lời chứng của Ngài đều xác nhận rằng Ðức Chúa Trời là thật. 34 Ðấng Ðức Chúa Trời sai đến rao báo sứ điệp của Ðức Chúa Trời, vì Ðức Chúa Trời ban Ðức Thánh Linh vô hạn. 35 Ðức Chúa Cha thương Ðức Chúa Con và đã giao mọi sự trong tay Ðức Chúa Con. 36 Ai tin Ðức Chúa Con thì có sự sống đời đời; ai không chịu tin Ðức Chúa Con sẽ chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Ðức Chúa Trời vẫn ở trên người đó.

Chúa Nói Chuyện với Một Phụ Nữ Sa-ma-ri

Khi Ðức Chúa Jesus biết rằng người Pha-ri-si đã nghe đồn rằng Ðức Chúa Jesus đã thu nhận môn đồ và làm báp-têm nhiều người hơn Giăng, (thật ra, không phải chính Ðức Chúa Jesus đã làm báp-têm, nhưng các môn đồ Ngài làm), Ngài rời miền Giu-đê và trở lại miền Ga-li-lê. Ngài cần phải đi qua miền Sa-ma-ri. Ngài đến một thành trong miền Sa-ma-ri tên là Si-kha, gần cánh đồng Gia-cốp đã cho Giô-sép con trai ông. Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Vì đi đường mệt mỏi, nên Ðức Chúa Jesus ngồi nghỉ bên giếng. Lúc ấy vào khoảng mười hai giờ trưa.[a]

Một bà người Sa-ma-ri đi ra lấy nước. Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Xin cho Ta uống ít nước.” Lúc đó các môn đồ Ngài đã vào trong thành để mua thức ăn.

Người đàn bà Sa-ma-ri trả lời Ngài, “Làm sao ông, một người Do-thái, lại hỏi tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, để xin nước uống?” (Số là người Do-thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri).

10 Ðức Chúa Jesus trả lời và nói với bà, “Nếu bà biết tặng phẩm của Ðức Chúa Trời và biết người nói với bà, ‘Xin cho Ta uống ít nước’ là ai, có lẽ bà sẽ hỏi Người ấy, và Người ấy sẽ cho bà nước hằng sống.”

11 Bà ấy nói với Ngài, “Thưa ông, ông không có gàu, còn giếng thì sâu. Vậy ông lấy đâu ra được nước hằng sống ấy? 12 Không lẽ ông lớn hơn tổ phụ Gia-cốp của chúng tôi, người đã để lại cho chúng tôi giếng này, mà chính ông ta, con cháu ông ta, và các bầy súc vật của ông ta đã uống sao?”

13 Ðức Chúa Jesus trả lời và nói với bà, “Ai uống nước này sẽ khát lại, 14 nhưng ai uống nước Ta cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước Ta cho sẽ thành một mạch nước trong người ấy tuôn ra đến sự sống đời đời.”

15 Người đàn bà nói với Ngài, “Thưa ông, xin cho tôi nước ấy, để tôi sẽ không khát và khỏi đến đây lấy nước nữa.”

16 Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Hãy đi, gọi chồng bà đến đây.”

17 Người đàn bà trả lời và nói, “Tôi không có chồng.”

Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Bà nói, ‘Tôi không có chồng’ là đúng lắm, 18 vì bà đã có năm đời chồng, còn người bà hiện đang chung sống không phải là chồng bà. Ðiều này bà nói thật đúng.”

19 Người đàn bà nói với Ngài, “Thưa ông, tôi nhận thấy rằng ông là một đấng tiên tri. 20 Tổ phụ chúng tôi thờ phượng trên núi này, còn quý ông lại bảo Giê-ru-sa-lem mới là nơi phải đến thờ phượng.”

21 Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Này bà, hãy tin Ta, giờ đến khi các ngươi sẽ thờ phượng Cha không trên núi này và cũng không tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các ngươi thờ phượng Ðấng các ngươi không biết. Chúng ta thờ phượng Ðấng chúng ta biết, vì ơn cứu rỗi đến từ người Do-thái. 23 Nhưng giờ đến và bây giờ đã đến, khi những người thờ phượng thật sẽ thờ phượng Cha bằng tâm linh và sự chân thật, vì Cha tìm kiếm những người thờ phượng Ngài như vậy. 24 Ðức Chúa Trời là thần linh, nên ai thờ phượng Ngài phải thờ phượng bằng tâm linh và sự chân thật.”

25 Người đàn bà nói với Ngài, “Tôi biết rằng Ðấng Mê-si-a, cũng gọi là Ðấng Christ, sẽ đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ báo cho chúng ta mọi sự.”

26 Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Ta, người đang nói với ngươi, chính là Ðấng ấy.”

27 Vừa lúc đó các môn đồ Ngài trở lại, họ ngạc nhiên vì thấy Ngài nói chuyện với một phụ nữ, nhưng không ai hỏi Ngài, “Thầy cần gì?” hoặc “Tại sao Thầy nói chuyện với bà ấy?”

28 Người đàn bà để vò nước lại bên giếng, trở vào thành, và nói với mọi người, 29 “Hãy đến xem, một người đã nói với tôi mọi điều tôi đã làm. Người ấy chẳng phải là Ðấng Christ sao?” 30 Dân từ trong thành túa ra và đến với Ngài.

31 Trong khi ấy các môn đồ cứ mời Ngài, “Thưa Thầy, xin Thầy dùng một ít thức ăn.”

32 Nhưng Ngài trả lời họ, “Ta có thứ thức ăn mà các ngươi không biết.”

33 Vậy các môn đồ Ngài nói với nhau, “Không lẽ có ai đã đem thức ăn mời Thầy dùng rồi sao?”

34 Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Thức ăn của Ta là làm theo ý muốn của Ðấng đã sai Ta và hoàn tất công việc của Ngài. 35 Các ngươi chẳng nói rằng, ‘Còn bốn tháng nữa là đến mùa gặt’ sao? Này, Ta nói với các ngươi, hãy ngước mắt lên và nhìn vào cánh đồng. Kìa đồng lúa đã chín vàng, sẵn sàng để được gặt. 36 Người đi gặt lãnh tiền công và thu hoa lợi vào sự sống đời đời, để cả người gieo lẫn kẻ gặt đều vui mừng. 37 Rồi đây câu tục ngữ ‘Người này gieo, kẻ khác gặt’ là đúng. 38 Ta sai các ngươi đến gặt nơi các ngươi không tốn công sức làm việc. Người khác đã lao động vất vả, và các ngươi vào gặt lấy công lao của họ.”

39 Nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài vì lời chứng của người đàn bà, “Người ấy đã nói với tôi mọi điều tôi đã làm.”

40 Vì thế khi những người Sa-ma-ri đến với Ngài, họ mời Ngài ở lại với họ, và Ngài đã ở lại đó hai ngày. 41 Có đông người nữa tin Ngài vì được nghe lời Ngài. 42 Họ nói với người đàn bà, “Bây giờ chúng tôi tin, không phải vì lời của chị, nhưng vì chính chúng tôi đã được nghe Ngài, và chúng tôi biết rằng người này đúng là Ðấng Giải Cứu của thế gian.”

Chúa Trở Về Ga-li-lê

43 Sau hai ngày Ngài rời nơi đó để về Ga-li-lê. 44 Số là chính Ðức Chúa Jesus đã xác nhận rằng đấng tiên tri không được tôn trọng trong quê hương mình. 45 Nhưng khi Ngài về đến Ga-li-lê, người Ga-li-lê ra đón Ngài niềm nở, bởi họ đã thấy những việc Ngài làm tại Giê-ru-sa-lem trong kỳ lễ, vì họ cũng đã đi dự lễ.

Chúa Chữa Lành Con Một Vị Quan

46 Sau đó Ngài trở lại Ca-na trong miền Ga-li-lê, nơi Ngài đã hóa nước thành rượu. Tại đó có một vị quan của triều đình; ông ấy có cậu con trai bị bịnh, đang nằm dưỡng bịnh tại Ca-bê-na-um. 47 Khi ông nghe Ðức Chúa Jesus đã rời Giu-đê để về Ga-li-lê, ông đi đón Ngài và khẩn khoản mời Ngài xuống chữa bịnh cho con ông, vì nó sắp chết.

48 Ðức Chúa Jesus nói với ông, “Nếu các ngươi không thấy các dấu kỳ và phép lạ, chắc các ngươi sẽ chẳng tin đâu.”

49 Quan ấy thưa với Ngài, “Lạy Thầy, xin Thầy vui lòng đến trước khi con tôi qua đời.”

50 Ðức Chúa Jesus nói với ông, “Ngươi về đi; con ngươi sẽ sống.”

Người ấy tin lời Ðức Chúa Jesus nói với mình, ông lên đường trở về. 51 Trong khi ông còn đi đường, các tôi tớ của ông đến đón và nói, “Con của chủ sống.”

52 Ông hỏi họ đứa trẻ đã khỏe lại vào giờ nào. Họ trả lời, “Hôm qua, vào lúc một giờ chiều[b] cơn sốt đã lìa cậu ấy.” 53 Người cha nhận biết rằng chính giờ đó Ðức Chúa Jesus đã nói với ông, “Con ngươi sẽ sống.” Do đó chính ông và cả nhà ông đều tin.

54 Ðây là phép lạ thứ hai Ðức Chúa Jesus đã làm khi Ngài từ miền Giu-đê trở về miền Ga-li-lê.

Footnotes

  1. Giăng 4:6 nt: giờ thứ sáu
  2. Giăng 4:52 nt: giờ thứ bảy