Add parallel Print Page Options

E-xơ-ra trở về Giê-ru-sa-lem

Sau các việc ấy, vào triều đại Ạc-ta-xét-xe, vua Ba-tư thì E-xơ-ra từ Ba-by-lôn trở về. Ông là con Sê-rai-gia, Sê-rai-gia con A-xa-ria, A-xa-ria con Hinh-kia, Hinh-kia con Sa-lum, Sa-lum con Xa-đốc, Xa-đốc con A-hi-túp, A-hi-túp con A-ma-ria, A-ma-ria con A-xa-ria, A-xa-ria con Mê-rai-giốt, Mê-rai-giốt con Xê-ra-hia, Xê-ra-hia con U-xi, U-xi con Búc-ki, Búc-ki con A-bi-sua, A-bi-sua con Phi-nê-ha, Phi-nê-ha con Ê-lê-a-xa, Ê-lê-a-xa con A-rôn là thầy tế lễ tối cao. E-xơ-ra từ Ba-by-lôn về Giê-ru-sa-lem. Ông là giáo sư luật [a] và rất rành về những điều giáo huấn của Mô-se do CHÚA, là Thượng Đế của Ít-ra-en truyền lại. E-xơ-ra nhận được đủ mọi thứ ông yêu cầu từ vua vì CHÚA là Thượng Đế giúp đỡ ông. Vào năm thứ bảy triều vua Ạc-ta-xét-xe, có thêm nhiều người Ít-ra-en nữa trở về Giê-ru-sa-lem. Trong số đó có các thầy tế lễ, người Lê-vi, các ca sĩ, người giữ cửa, và những người giúp việc trong đền thờ.

E-xơ-ra trở về Giê-ru-sa-lem vào tháng năm [b], năm thứ bảy triều vua. E-xơ-ra rời Ba-by-lôn vào ngày đầu tiên tháng giêng, và về đến Giê-ru-sa-lem vào ngày một tháng năm vì Thượng Đế giúp đỡ ông. 10 E-xơ-ra đã hết sức cố gắng học hỏi và vâng theo những lời Giáo Huấn của CHÚA để dạy các qui tắc và mệnh lệnh Ngài cho dân Ít-ra-en.

Bức thư của vua gởi E-xơ-ra

11 Vua gởi một thư cho E-xơ-ra, thầy tế lễ và giáo sư dạy các mệnh lệnh và luật lệ mà CHÚA cho dân Ít-ra-en. Nội dung bức thư như sau:

12 [c] “Ạc-ta-xét-xe, vua các vua, gởi E-xơ-ra, thầy tế lễ và giáo sư luật của Thượng Đế trên trời.

Chào thăm ông.

13 Ta ra lệnh sau: Bất cứ người Ít-ra-en nào sống trong vương quốc ta đều có thể theo ngươi về Giê-ru-sa-lem, kể cả các thầy tế lễ và người Lê-vi. 14 E-xơ-ra, ngươi được vua và bảy cố vấn vua phái đi để hỏi thăm người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem ra sao trong việc vâng theo Luật lệ của Thượng Đế mà ngươi đang mang theo mình. 15 Ngoài ra cũng hãy mang theo ngươi bạc và vàng mà vua và các cố vấn vua dâng hiến rộng rãi cho Thượng Đế của Ít-ra-en, Đấng có đền thờ ở Giê-ru-sa-lem. 16 Cũng hãy mang về bạc và vàng mà ngươi nhận từ vùng Ba-by-lôn. Hãy nhận những của lễ mà người Ít-ra-en và các thầy tế lễ họ dâng cho đền thờ của Thượng Đế các ngươi tại Giê-ru-sa-lem. 17 Dùng tiền đó mua bò đực, chiên đực, chiên con, ngũ cốc và các của lễ uống đi kèm theo các sinh tế đó. Rồi dâng các của lễ trên bàn thờ trong đền thờ của Thượng Đế các ngươi tại Giê-ru-sa-lem.

18 Ngươi và các đồng bào Do-thái ngươi có thể tùy tiện dùng bạc và vàng còn lại và theo ý muốn Thượng Đế. 19 Hãy mang về cho Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem tất cả các đồ dùng cho việc thờ phụng trong đền thờ Thượng Đế các ngươi, 20 những đồ dùng mà chúng ta đã cho các ngươi. Hãy dùng ngân khố hoàng gia đài thọ những điều khác ngươi cần cho đền thờ Thượng Đế các ngươi.

21 Nay ta, vua, ra lệnh sau đây cho tất cả các viên chức quản thủ ngân khố vùng Xuyên Ơ-phơ-rát: Hãy cấp cho E-xơ-ra, thầy tế lễ và giáo sư luật của Thượng Đế trên trời bất cứ điều gì người yêu cầu. 22 Hãy cấp cho người tới mức ba ngàn bốn trăm năm mươi kí [d] bạc, 600 hộc [e] lúa mì, 2.200 lít [f] rượu, và 2.200 lít dầu ô-liu. Còn muối thì người cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu. 23 Hãy cẩn thận cấp cho người bất cứ những gì mà Thượng Đế trên trời cần cho đền thờ của Ngài. Chúng ta không muốn Thượng Đế nổi giận cùng vua và các hoàng tử. 24 Nên nhớ các ngươi không được phép đánh bất cứ loại thuế nào trên những người sau đây: các thầy tế lễ, người Lê-vi, ca sĩ, người giữ cửa, người giúp việc trong đền thờ và các nhân công khác trong đền thờ của Thượng Đế.

25 Còn ngươi, hỡi E-xơ-ra, hãy dùng sự khôn ngoan mà Thượng Đế ban cho ngươi để chọn những quan án và các nhà làm luật để cai trị dân Do-thái sống trong vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Họ biết luật lệ của Thượng Đế các ngươi, và ngươi có thể dạy cho những ai không biết luật. 26 Ai không tuân theo luật của Thượng Đế các ngươi hay của vua phải bị trừng phạt. Nó phải bị giết hay bị tù đày, tịch thu gia sản hay bị cầm tù.”

E-xơ-ra ca ngợi Thượng Đế

27 Chúc tụng CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên chúng tôi.
    Ngài khiến vua có lòng tôn trọng đền thờ của CHÚA ở Giê-ru-sa-lem.
28 CHÚA đã tỏ ra cho tôi, E-xơ-ra,
    tình yêu Ngài trước mặt vua, những cố vấn vua,
    và các quần thần.
Nhờ CHÚA là Thượng Đế tôi giúp đỡ,
    tôi thêm can đảm nên tôi triệu tập các lãnh tụ Ít-ra-en
    cùng hồi hương với tôi.

Danh sách các trưởng gia đình cùng hồi hương với E-xơ-ra

Sau đây là các trưởng tộc và những người cùng được liệt kê với họ trở về cùng tôi từ Ba-by-lôn trong đời vua.

Từ con cháu Phi-nê-ha: Ghẹt-sôn. Từ con cháu Y-tha-ma: Đa-niên. Từ con cháu Đa-vít: Hát-túc thuộc con cháu Sê-cai-gia.

Từ con cháu Ba-rốt: Xa-cha-ri, với một trăm năm mươi người.

Từ con cháu Ba-hát Mô-áp: Ê-li-hô-ê-nai, con Xa-ra-hia, với hai trăm người.

Từ con cháu Xát-tu: Sê-ca-nia, con Gia-ha-xiên, với ba trăm người.

Từ con cháu A-đinh: Ê-bết, con Giô-na-than, với năm mươi người.

Từ con cháu Ê-lam: Giê-sai-gia, con A-tha-lia, với bảy mươi người.

Từ con cháu Sê-pha-tia: Xê-ba-đia, con Mi-chên, với tám mươi người.

Từ con cháu Giô-áp: Áp-đia, con Giê-hi-ên, với hai trăm mười tám người.

10 Từ con cháu Ba-ni: Sê-lô-mít, con Giô-si-phia, với một trăm sáu mươi người.

11 Từ con cháu Bê-bai: Xa-cha-ri, con Bê-bai, với hai mươi tám người.

12 Từ con cháu A-gát: Giô-ha-nan, con Hác-ca-tan, với một trăm mười người.

13 Từ con cháu A-đô-ni-cam, sau đây là những người cuối cùng: Ê-li-phê-lết, Giê-u-ên, và Sê-mai-gia với sáu mươi người.

14 Từ con cháu Bích-vai: U-thai và Xa-cua, với bảy mươi người.

Cuộc hành trình về Giê-ru-sa-lem

15 Tôi gọi tất cả những người đó lại nơi kênh đào chảy ra A-ha-va, rồi chúng tôi dựng trại ba ngày tại đó. Tôi kiểm điểm dân chúng và các thầy tế lễ, nhưng không thấy có người Lê-vi nào. 16 Cho nên tôi gọi các lãnh tụ sau đây lại: Ê-li-ê-xe, A-ri-ên, Sê-mai-gia, Ên-na-than, Gia-ríp, Ên-na-than, Na-than, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam. Tôi cũng gọi Giô-a-ríp và Ên-na-than là hai giáo sư. 17 Tôi sai họ đến Y-đô, lãnh tụ ở Ca-xi-phia, và dặn họ phải nói gì với Y-đô cùng thân nhân ông. Những người đó giúp việc trong đền thờ ở Ca-xi-phia. Tôi bảo họ mang các người giúp việc đến cho tôi để phục vụ trong đền thờ Thượng Đế. 18 Vì được Thượng Đế chúng tôi giúp đỡ nên các thân nhân của Y-đô giao Sê-rê-bia, một người rất khôn ngoan thuộc dòng họ Ma-li, con Lê-vi, cháu Ít-ra-en. Họ cũng mang các con trai Sê-rê-bia và anh em ông đến, tổng cộng mười tám người. 19 Rồi họ mang đến cho chúng tôi Ha-sa-bia và Giê-sai-gia thuộc dòng họ Mê-ra-ri cùng với anh em và cháu ông. Tổng cộng hai mươi người. 20 Họ cũng mang đến hai trăm hai mươi người giúp việc trong đền thờ, tức nhóm người mà Đa-vít và các quần thần lập nên để giúp đỡ người Lê-vi. Tất cả những người đó đều được liệt kê theo từng tên.

21 Nơi kênh đào A-ha-va, tôi loan báo mọi người cữ ăn và hạ mình xuống trước mặt Thượng Đế. Chúng tôi cầu xin Thượng Đế gìn giữ chúng tôi, con cháu và tài sản chúng tôi đi đường bình yên. 22 Tôi ngại không dám xin vua cho binh sĩ và lính cỡi ngựa hộ tống bảo vệ chúng tôi khỏi kẻ thù dọc đường vì chúng tôi đã thưa với vua, “Thượng Đế chúng tôi sẽ giúp những ai vâng lời Ngài, nhưng nổi thịnh nộ cùng ai từ bỏ Ngài.” 23 Vậy chúng tôi cữ ăn và cầu nguyện cùng Thượng Đế xin Ngài gìn giữ chúng tôi khi đi đường, Ngài nghe lời cầu xin của chúng tôi.

24 Rồi tôi chọn mười hai thầy tế lễ làm lãnh tụ: Sê-rê-bia, Ha-sa-bia, và mười thân nhân của họ. 25 Tôi cân các của dâng hiến bằng bạc và vàng cùng những đồ dùng dâng cho đền thờ Thượng Đế chúng tôi và trao cho mười hai thầy tế lễ mà tôi đã chọn. Nhà vua, các cố vấn, các quần thần, và tất cả những người Ít-ra-en có mặt với chúng tôi đã dâng hiến những vật đó cho đền thờ. 26 Tôi cân và trao cho họ khoảng năm mươi ngàn cân [g] bạc, khoảng bảy ngàn năm trăm cân các vật dụng bằng bạc, và khoảng bảy ngàn năm trăm cân [h] vàng. 27 Tôi trao cho họ hai mươi cái chén vàng cân nặng khoảng mười chín cân [i], và hai miếng đồng đánh bóng quí giá như vàng.

28 Rồi tôi bảo các thầy tế lễ, “Các ngươi và những vật dụng nầy thuộc về CHÚA để phục vụ Ngài. Bạc và vàng là vật dâng hiến cho CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên các ngươi. 29 Hãy canh giữ các món nầy cho cẩn thận. Đến Giê-ru-sa-lem, hãy cân chúng trước mặt các thầy tế lễ lãnh đạo, người Lê-vi, các trưởng gia đình của Ít-ra-en trong phòng của đền thờ Thượng Đế.”

30 Vậy các thầy tế lễ và người Lê-vi nhận bạc, vàng và các đồ dùng đã được cân để mang về đền thờ của Thượng Đế chúng tôi tại Giê-ru-sa-lem.

31 Vào ngày mười hai tháng giêng [j], chúng tôi rời kênh A-ha-va khởi hành về Giê-ru-sa-lem. Thượng Đế chúng tôi giúp đỡ và che chở chúng tôi khỏi các kẻ thù và trộm cướp dọc đường. 32 Sau cùng chúng tôi về đến Giê-ru-sa-lem và nghỉ ngơi ba ngày ở đó.

33 Đến ngày thứ tư chúng tôi cân bạc, vàng và những đồ dùng cho đền thờ Thượng Đế. Chúng tôi trao tất cả cho thầy tế lễ Mê-rê-mốt, con U-ri. Ê-lê-a-xa, con Phi-nê-ha cũng có mặt đó với người cùng với các người Lê-vi như Giô-xa-bát, con Giê-sua, và Nô-a-đia, con Bin-nui. 34 Chúng tôi kiểm kê mọi thứ theo số món và theo trọng lượng, rồi ghi lại tổng số.

35 Sau đó những tù binh vừa hồi hương dâng của lễ thiêu lên cho Thượng Đế của Ít-ra-en. Họ dâng mười hai con bò đực, chín mươi sáu con chiên đực, và bảy mươi bảy con chiên con. Còn về của lễ chuộc tội thì họ dâng mười hai con dê đực. Tất cả các con thú đó được dâng lên làm của lễ thiêu cho CHÚA. 36 Họ trình sắc lệnh của vua cho các sĩ quan hoàng gia và cho các tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Rồi những người đó giúp đỡ dân chúng và đền thờ của Thượng Đế.

Lời cầu nguyện của E-xơ-ra

Sau các việc ấy thì các lãnh tụ đến trình với tôi, “E-xơ-ra ơi, dân Ít-ra-en, kể cả các thầy tế lễ và người Lê-vi, không biệt mình riêng ra khỏi các dân tộc xung quanh chúng ta. Các dân đó làm ác, như dân Ca-na-an, Hê-tít, Phê-ri-xít, Giê-bu-sít, A-môn, Mô-áp, Ai-cập, và A-mô-rít. Các người đàn ông Ít-ra-en cùng con trai họ đã cưới các người đàn bà đó. Họ đã pha trộn dân Thượng Đế với các dân sống quanh mình. Các lãnh tụ và các viên chức Ít-ra-en đã hướng dẫn toàn dân Ít-ra-en làm điều bất trung nầy.”

Khi tôi nghe vậy thì giận dữ xé áo dài và áo choàng tôi, nhổ tóc và râu rồi ngồi xuống mà kinh hoảng. Người nào nghe lời Thượng Đế của Ít-ra-en và run sợ đều tụ tập quanh tôi vì sự bất trung mà các tù binh vừa hồi hương phạm. Tôi ngồi đó kinh hoảng cho đến giờ dâng của lễ buổi chiều.

Đến giờ dâng của lễ buổi chiều tôi đứng dậy khỏi nơi tôi ngồi để bày tỏ sự hổ nhục. Áo dài và áo choàng tôi rách tả tơi, tôi quì xuống giơ hai tay lên hướng về CHÚA là Thượng Đế tôi. Tôi cầu nguyện,

“Lạy Thượng Đế, tôi quá nhục nhã và xấu hổ không dám ngước mặt lên cùng Ngài, là Thượng Đế tôi vì tội lỗi chúng tôi quá nhiều. Chúng cao hơn đầu chúng tôi. Tội lỗi chúng tôi lên đến tận trời. Từ thời tổ tiên chúng tôi đến nay, tội lỗi chúng tôi nhiều lắm. Vì tội lỗi chúng tôi mà chúng tôi, các vua và các thầy tế lễ chúng tôi đã bị trừng phạt bằng gươm và bị tù đày. Các vua ngoại quốc đã cướp của cải chúng tôi và làm nhục chúng tôi cho đến ngày nay.

Nhưng nay, trong một thời gian ngắn, CHÚA là Thượng Đế đã tỏ lòng nhân từ cùng chúng tôi. Ngài đã cho phép một số chúng tôi trở về từ chốn lưu đày và cho chúng tôi sống an ninh trong nơi thánh của Ngài. Ngoài ra Thượng Đế chúng tôi đã ban cho chúng tôi hi vọng và giải thoát khỏi cảnh nô lệ. Mặc dù chúng tôi là nô lệ nhưng Thượng Đế không lìa bỏ chúng tôi. Ngài khiến cho các vua Ba-tư nhân từ cùng chúng tôi và ban cho chúng tôi một cuộc đời mới. Chúng tôi có thể xây lại đền thờ và sửa chữa những nơi đổ nát của nó. Ngài cũng ban cho chúng tôi một tường thành để bảo vệ chúng tôi trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.

10 Nhưng bây giờ thưa Thượng Đế, chúng tôi sẽ nói gì sau khi Ngài đã làm những điều đó? Chúng tôi đã không vâng phục mệnh lệnh 11 mà Ngài đã truyền lại qua các tôi tớ và các nhà tiên tri của Ngài. Ngài phán, ‘Xứ mà các ngươi vào nhận làm sản nghiệp đã hư hỏng rồi; dân sống ở đó đã làm hư hỏng đất đó vì những điều ác chúng làm. Sự gian ác chúng nó tràn ngập đất, nhơ nhớp đầy dẫy từ đầu nầy đến đầu kia. 12 Vì thế đừng cho con gái các ngươi kết hôn với con trai chúng nó, cũng đừng cưới con gái chúng nó cho con trai các ngươi. Đừng mong ước hòa bình hay thành công cho chúng nó. Như thế các ngươi sẽ hùng mạnh và hưởng những điều tốt lành trong xứ. Rồi các ngươi sẽ để lại xứ nầy cho dòng dõi các ngươi đời đời.’

13 Chúng tôi đã tự gây ra những thảm họa cho mình. Chúng tôi đã làm những điều ác, tội lỗi chúng tôi rất lớn. Nhưng Ngài là Thượng Đế chúng tôi, đã không trừng phạt chúng tôi tương xứng với tội lỗi chúng tôi; Ngài đã để cho một số chúng tôi còn sống sót. 14 Chúng tôi không nên phạm mệnh lệnh Ngài bằng cách kết hôn với những dân độc ác nầy. Nếu không Ngài sẽ nổi giận tiêu diệt chúng tôi, rồi sẽ không còn ai sống sót. 15 Lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, vì lòng nhân từ Ngài mà một số ít chúng tôi còn sống sót hôm nay. Chúng tôi nhìn nhận mình có tội. Không ai trong chúng tôi xứng đáng đứng trước mặt Ngài.”

Dân chúng xưng tội

10 Trong khi E-xơ-ra đang cầu nguyện xưng tội, khóc lóc vật vã trước mặt đền thờ thì một nhóm đông người Ít-ra-en gồm đàn ông, đàn bà, trẻ con tụ tập xung quanh ông khóc lóc thảm thiết. Rồi Sê-ca-nia, con Giê-hi-ên, người Ê-lam nói cùng E-xơ-ra rằng, “Chúng ta đã bất trung cùng Thượng Đế chúng ta bằng cách kết hôn với những đàn bà thuộc các dân tộc quanh ta. Dù vậy, vẫn còn hi vọng cho Ít-ra-en. Bây giờ chúng ta hãy lập giao ước trước mặt Thượng Đế chúng ta. Chúng ta sẽ đuổi tất cả những người đàn bà đó cùng con cái họ theo như ông và những người tôn trọng mệnh lệnh Thượng Đế chỉ bảo. Chúng ta phải làm như thế theo lời Giáo Huấn của Ngài. Vậy, E-xơ-ra ơi, hãy đứng lên. Ông là người chịu trách nhiệm, chúng tôi sẽ ủng hộ ông. Hãy can đảm làm điều đó.”

Vậy E-xơ-ra đứng dậy và buộc các thầy tế lễ, người Lê-vi, cùng toàn dân Ít-ra-en hứa làm theo lời đề nghị trên. Mọi người đều hứa. Rồi E-xơ-ra rời đền thờ và đi vào phòng của Giê-hô-ha-nan, con Ê-li-a-xíp. Trong khi ở đó, E-xơ-ra không ăn uống gì vì ông vẫn còn buồn bực về sự bất trung của những tù binh vừa hồi hương.

Họ ra lệnh cho tất cả các tù binh trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vừa hồi hương phải tập họp tại Giê-ru-sa-lem. Trong vòng ba ngày ai không đến Giê-ru-sa-lem sẽ bị tịch thu gia sản và bị loại ra khỏi cộng đồng của những tù binh hồi hương. Đó là quyết định của các viên chức và các bô lão.

Vì thế trong vòng ba ngày tất cả các người Giu-đa và Bên-gia-min tập họp lại tại Giê-ru-sa-lem. Đó là ngày hai mươi tháng chín [k]. Tất cả dân chúng ngồi trong sân trống trước đền thờ, bực tức vì vụ họp và vì trời mưa. 10 Thầy tế lễ E-xơ-ra đứng lên nói với họ, “Các ngươi đã bất trung khi lấy những người đàn bà không phải Do-thái làm vợ. Các ngươi đã làm cho dân Ít-ra-en mắc tội thêm. 11 Bây giờ hãy xưng tội cùng CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên các ngươi. Hãy làm theo ý muốn Ngài và tách ra khỏi các dân tộc sống quanh các ngươi và khỏi các vợ không phải Do-thái của mình.”

12 Tất cả nhóm đều lớn tiếng đáp với E-xơ-ra, “E-xơ-ra, ông nói phải! Chúng tôi phải làm theo như ông nói. 13 Nhưng ở đây có đông người mà trời mưa nữa. Chúng tôi không thể đứng ngoài trời vì vấn đề nầy không thể giải quyết trong một hai ngày được, vì chúng tôi đã phạm tội rất nặng. 14 Bây giờ hãy để các viên chức quyết định cho toàn thể. Rồi mỗi người trong thành chúng tôi ai đã cưới vợ không phải Do-thái gặp riêng các bô lão hay quan án của từng thị trấn theo thời gian ấn định trước cho đến khi cơn giận phừng của Thượng Đế qua khỏi chúng tôi.”

15 Chỉ có Giô-na-than, con A-sa-hên, Gia-xê-gia, con Tích-va, Mê-su-lam và Sa-bê-thai người Lê-vi phản đối đề nghị đó.

16 Vậy những tù binh hồi hương làm theo lời đề nghị. Thầy tế lễ E-xơ-ra chọn những trưởng tộc và chỉ định một người từ mỗi họ hàng. Ngày một tháng mười [l] họ ngồi xuống cứu xét từng trường hợp. 17 Đến ngày một tháng giêng [m] thì họ đã kiểm kê xong những đàn ông đã kết hôn với các phụ nữ không phải Do-thái.

Danh sách những người kết hôn với các thiếu nữ ngoại quốc

18 Sau đây là con cháu các thầy tế lễ đã kết hôn với các thiếu nữ ngoại lai:

Trong con cháu Giê-sua, con Giô-xa-đác, và anh em Giê-sua: Ma-a-sê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia. 19 Tất cả những người nầy đều hứa ly dị vợ mình, mỗi người mang một con chiên đực trong bầy để làm của lễ chuộc lỗi.

20 Trong con cháu Im-mê: Ha-na-ni và Xê-ba-đia.

21 Trong con cháu Ha-rim: Ma-a-sê-gia, Ê-li, Sê-mai-gia, Giê-hi-ên, và Ô-xia.

22 Trong con cháu Ba-sua: Ê-li-nô-ê-ai, Ma-a-sê-gia, Ích-ma-ên, Nê-tha-nên, Giô-xa-bát, và Ê-la-xa.

23 Trong vòng người Lê-vi: Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-lai-gia (cũng có tên là Kê-li-ta), Bê-tha-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe.

24 Trong vòng ca sĩ: Ê-li-a-síp.

Trong vòng các người giữ cửa: Sa-lum, Tê-lem, và U-ri.

25 Và trong vòng các người Ít-ra-en khác thì những người sau đây kết hôn với các phụ nữ không phải Do-thái:

Trong con cháu Ba-rốt: Ra-mai-gia, Ích-xai-gia, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, và Bê-nai-gia.

26 Trong vòng con cháu Ê-lam: Ma-ta-nia, Xa-cha-ri, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li.

27 Trong vòng con cháu Xát-tu: Ê-li-ô-ê-nai, Ê-li-a-síp, Ma-ta-nia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa.

28 Trong vòng con cháu Bê-bai: Giê-hô-ha-nan, Ha-na-nia, Xa-bai, và Át-lai.

29 Trong vòng con cháu Ba-ni: Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đai-gia, Gia-súp, Sê-an, và Giê-rê-mốt.

30 Trong vòng con cháu Ba-hát Mô-áp: Ách-na, Kê-lanh, Bê-nai-gia, Ma-a-sê-gia, Ma-ta-nia, Bê-xa-lên, Binh-nui, và Ma-na-xe.

31 Trong vòng con cháu Ha-rim: Ê-li-ê-xe, Ích-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-mai-gia, Xi-mê-ôn, 32 Bê-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ria.

33 Trong vòng con cháu Ha-sum: Mát-tê-nai, Mát-ta-tha, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mai, Ma-na-xe, và Si-mê-i.

34 Trong vòng con cháu Ba-ni: Ma-A-đai, Am-ram, U-ên, 35 Bê-nai-gia, Bê-đê-gia, Kê-lu-hi, 36 Va-nai-gia, Mê-rê-mốt, Ê-li-a-síp, 37 Mát-ta-nia, Mát-tê-nai, và Gia-a-xu.

38 Trong vòng con cháu Binh-nui: Si-mê-i, 39 Sê-lê-mia, Na-than, A-đai-gia, 40 Mạc-na-đê-bai, Sa-sai, Sa-rai, 41 A-xa-rên, Sê-lê-mia, Sê-ma-ria, 42 Sa-lum, A-ma-ria, và Giô-xép.

43 Trong vòng con cháu Nê-bô: Giê-Y-ên, Mát-ti-thia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai, Giô-ên, và Bê-nai-gia.

44 Tất cả những người đó lấy vợ không phải Do-thái và một số đã có con với họ.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 7:6 giáo sư luật Nguyên văn, “học giả.” Đây là những người chuyên biên chép, nghiên cứu sách vở và trở thành giáo sư.
  2. Ê-xơ-ra 7:8 tháng năm Lịch Do-thái tức khoảng tháng 7-8 dương lịch, năm 458 trước Công nguyên.
  3. Ê-xơ-ra 7:12 Ạc-ta-xét-xe … Ở đây bản văn chuyển từ Hê-bơ-rơ sang ngôn ngữ A-ram.
  4. Ê-xơ-ra 7:22 ba ngàn bốn trăm năm mươi kí Nguyên văn, “100 ta-lâng.”
  5. Ê-xơ-ra 7:22 hộc Nguyên văn, “100 co” (khoảng 22.000 lít).
  6. Ê-xơ-ra 7:22 2.200 lít Nguyên văn, “100 bát.”
  7. Ê-xơ-ra 8:26 năm mươi ngàn cân Nguyên văn, “650 ta-lâng” (khoảng 22.425 kí-lô).
  8. Ê-xơ-ra 8:26 bảy ngàn năm trăm cân Nguyên văn, “100 ta-lâng” (khoảng 3.450 kí-lô).
  9. Ê-xơ-ra 8:27 mười chín cân Nguyên văn, “1.000 đa-rích” (khoảng 8,60 kí-lô).
  10. Ê-xơ-ra 8:31 tháng giêng Lịch Do-thái tức khoảng tháng 3-4 dương lịch, năm 458 trước Công nguyên.
  11. Ê-xơ-ra 10:9 tháng chín Theo lịch Do-thái tức tháng 11-12 dương lịch.
  12. Ê-xơ-ra 10:16 tháng mười Theo lịch Do-thái tức tháng 12-1 dương lịch.
  13. Ê-xơ-ra 10:17 tháng giêng Theo lịch Do-thái tức tháng 3-4 dương lịch.

Ê-xơ-ra Hồi Hương

Sau các việc đó, dưới triều đại Ạc-ta-xẹc-xe vua Ba-tư, có một người hồi hương tên là Ê-xơ-ra con của Sê-ra-gia, con của A-xa-ri-a, con của Hinh-ki-a, con của Sanh-lum, con của Xa-đốc, con của A-hi-túp, con của A-ma-ri-a, con của A-xa-ri-a, con của Mê-ra-giốt, con của Xê-ra-hi-a, con của U-xi, con của Búc-ki, con của A-bi-sua, con của Phi-nê-a, con của Ê-lê-a-xa, con của Thượng Tế A-rôn. Ê-xơ-ra nầy từ Ba-by-lôn đi lên. Ông là thầy dạy giáo luật rất tinh thông luật pháp của Môi-se mà Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, đã ban cho họ. Vì tay Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, ở với ông, nên mọi việc ông xin, vua đều ban cho. Một số người I-sơ-ra-ên gồm các tư tế, những người Lê-vi, những người ca hát thờ phượng, những người canh cửa, và những người phục vụ Ðền Thờ cũng hồi hương và về đến Giê-ru-sa-lem vào năm thứ bảy của Vua Ạc-ta-xẹc-xe. Ông về đến Giê-ru-sa-lem vào tháng năm của năm thứ bảy triều đại vua ấy. Ngày mồng một tháng giêng ông rời khỏi Ba-by-lôn, ngày mồng một tháng năm ông về đến Giê-ru-sa-lem, vì tay nhân lành của Ðức Chúa Trời ở trên ông. 10 Số là Ê-xơ-ra đã quyết tâm nghiên cứu luật pháp của Chúa để làm theo và dạy cho dân I-sơ-ra-ên biết luật lệ và mạng lịnh của Ngài.

Sắc Lệnh của Ạc-ta-xẹc-xe

11 Ðây là sắc lệnh của Vua Ạc-ta-xẹc-xe ban cho Ê-xơ-ra tư tế và giáo sư kinh luật, một chuyên gia thông thạo về các điều khoản của điều răn và luật lệ của Chúa cho I-sơ-ra-ên:

12 “Ạc-ta-xẹc-xe, vua các vua, gởi cho Ê-xơ-ra tư tế và giáo sư luật pháp của Ðức Chúa Trời trên trời. Chúc ngươi được hoàn toàn mạnh khỏe.

13 Nay ta truyền lịnh rằng tất cả dân I-sơ-ra-ên ở trong vương quốc của ta, kể cả các tư tế và những người Lê-vi, hễ ai muốn đi lên Giê-ru-sa-lem, người ấy có thể đi với ngươi. 14 Nay ta và bảy mưu sĩ của ta sai ngươi về Giu-đa và Giê-ru-sa-lem để thị sát tình hình chiếu theo luật pháp của Ðức Chúa Trời ngươi có trong tay. 15 Ngươi hãy đem theo bạc và vàng mà vua và các mưu sĩ của vua đã vui lòng dâng lên Ðức Chúa Trời, Ðấng ngự tại Giê-ru-sa-lem, 16 cùng với bạc và vàng ngươi đã có trong tỉnh Ba-by-lôn, và các lễ vật dân chúng và các tư tế đã vui lòng dâng cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.

17 Vậy với số tiền đó, ngươi hãy cẩn thận mua các bò đực, các chiên đực, và các chiên con, cùng các của lễ chay và các của lễ quán, rồi dâng chúng trên bàn thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. 18 Số bạc và số vàng còn lại, ngươi và anh em ngươi muốn làm gì thì làm, theo ý Ðức Chúa Trời của ngươi. 19 Các vật dụng đã trao cho ngươi để dùng cho sự thờ phượng trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời của ngươi, ngươi hãy đem chúng trao đầy đủ trước mặt Ðức Chúa Trời của Giê-ru-sa-lem. 20 Còn những gì khác ngươi cần cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời của ngươi, mà sau nầy ngươi thấy cần phải có, thì các kho báu của triều đình sẽ cung cấp cho ngươi. 21 Ta, Vua Ạc-ta-xẹc-xe, ra lịnh cho tất cả các quan thủ kho của triều đình ở Bên Kia Sông phải cung cấp bất cứ điều gì Ê-xơ-ra tư tế và giáo sư luật pháp của Ðức Chúa Trời trên trời yêu cầu các ngươi. Các ngươi khá thực hiện điều đó cách cần mẫn. 22 Các ngươi có thể cung cấp đến ba ngàn bốn trăm ký bạc, hai trăm hai mươi tạ lúa mì, hai ngàn hai trăm lít rượu, hai ngàn hai trăm lít dầu,[a] còn muối thì vô hạn định. 23 Bất cứ điều gì Ðức Chúa Trời trên trời truyền, các ngươi khá sốt sắng làm y như thế cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời trên trời, kẻo cơn thịnh nộ giáng trên những gì thuộc về vua và các hoàng tử.

24 Ngoài ra các ngươi phải biết rằng các ngươi không được thu thuế các tư tế, những người Lê-vi, những người ca hát thờ phượng, những người canh cửa Ðền Thờ, những người phục vụ ở Ðền Thờ, hay những người khác phục vụ Ðền Thờ Ðức Chúa Trời.

25 Còn ngươi, Ê-xơ-ra, theo sự khôn ngoan Ðức Chúa Trời đã ban cho ngươi mà ngươi có trong tay, hãy bổ nhiệm những người hiểu biết các luật lệ của Ðức Chúa Trời của ngươi làm thẩm phán và quan án, để họ xét xử cho dân ở Bên Kia Sông. Ðối với những ai chưa biết các luật lệ đó, các ngươi phải dạy cho họ biết. 26 Hễ kẻ nào không vâng giữ luật pháp của Ðức Chúa Trời và luật pháp của vua, ngươi phải nghiêm trị, hoặc tử hình, hoặc lưu đày, hoặc tịch thu tài sản, hoặc bỏ tù.”

Cảm Tưởng của Ê-xơ-ra

27 Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên chúng tôi, Ðấng đã đặt một tâm tình như thế vào lòng vua để làm cho Ðền Thờ Chúa tại Giê-ru-sa-lem được vẻ vang tôn trọng, 28 Ðấng đã ban ơn cho tôi trước mặt vua, các mưu sĩ của vua, và trước mặt các vị đại thần đầy quyền lực của vua. Nhờ tay Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi, ở trên tôi, tôi đã lấy can đảm và triệu tập những người lãnh đạo của dân I-sơ-ra-ên lại, để họ cùng đi lên với tôi.

Ðây là danh sách các vị trưởng tộc theo gia phả của họ đã rời Ba-by-lôn đi lên với tôi dưới triều đại Vua Ạc-ta-xẹc-xe:

Dòng dõi của Phi-nê-a: Ghẹt-sôm.

Dòng dõi của I-tha-ma: Ða-ni-ên.

Dòng dõi của Ða-vít: Hát-túc.

Dòng dõi của Sê-ca-ni-a, con cháu của Pa-rốt: Xa-cha-ri-a, cùng đi với ông có một trăm năm mươi người nam theo gia phả của họ.

Dòng dõi của Pa-hát Mô-áp: Ê-li-ê-hô-ê-nai con cháu của Xê-ra-hi-a và hai trăm người nam đi với ông.

Dòng dõi của Xát-tu: Sê-ca-ni-a con của Gia-ha-xi-ên và ba trăm người nam đi với ông.

Dòng dõi của A-đin: Ê-bết con của Giô-na-than và năm mươi người nam đi với ông.

Dòng dõi của Ê-lam: Giê-sa-gia con của A-tha-li-a và bảy mươi người nam đi với ông.

Dòng dõi của Sê-pha-ti-a: Xê-ba-đi-a con của Mi-ca-ên và tám mươi người nam đi với ông.

Dòng dõi của Giô-áp: Ô-ba-đi-a con của Giê-hi-ên và hai trăm mười tám người nam đi với ông.

10 Dòng dõi của Ba-ni: Sê-lô-mít con của Giô-si-phi-a và một trăm sáu mươi người nam đi với ông.

11 Dòng dõi của Bê-bai: Xa-cha-ri-a con của Bê-bai và hai mươi tám người nam đi với ông.

12 Dòng dõi của A-xơ-gát: Giô-ha-na con của Hát-ca-tan và một trăm mười người nam đi với ông.

13 Dòng dõi của A-đô-ni-cam: (những người nầy không thể đi cùng một lượt nhưng đến sau) tên của họ là Ê-li-phê-lết, Giê-u-ên, và Sê-ma-gia, và sáu mươi người nam đi với họ.

14 Dòng dõi của Bích-vai: U-thai con của Xác-cua và bảy mươi người nam đi với ông.

Những Người Lê-vi

15 Tôi tập họp họ lại ở bờ sông chảy về hướng A-ha-va, và chúng tôi đóng trại tại đó ba ngày. Khi tôi duyệt qua danh sách những người hồi hương, tôi thấy có dân và các tư tế, nhưng không thấy ai trong con cháu của Lê-vi cả. 16 Do đó tôi sai người đến mời Ê-li-ê-xe, A-ri-ên, Sê-ma-gia, Ên-na-than, Gia-ríp, Ên-na-than, Na-than, Xa-cha-ri-a, và Mê-su-lam, các nhà lãnh đạo, cùng với Giô-gia-ríp và Ên-na-than, hai người thông minh khôn sáng. 17 Tôi nhờ họ đến gặp I-đô người lãnh đạo ở một nơi gọi là Ca-si-phi-a. Tôi dặn họ những lời phải nói với I-đô và bà con dòng họ của ông ấy, những người phục vụ Ðền Thờ đang sống ở Ca-si-phi-a, đại khái là xin họ gởi cho chúng tôi một số người để cùng trở về quê hương lo việc phục vụ nơi Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. 18 Nhờ tay nhân lành của Ðức Chúa Trời ở trên chúng tôi, nên họ đã đem về cho chúng tôi một người thông minh khôn sáng thuộc dòng dõi của Mác-li, con cháu của Lê-vi, con của I-sơ-ra-ên tên là Sê-rê-bi-a, cùng với các con trai của ông ấy và bà con dòng họ gồm mười tám người nam. 19 Ngoài ra còn có Ha-sa-bi-a; cùng đi với ông ấy có Giê-sa-gia thuộc dòng dõi của Mê-ra-ri, với bà con dòng họ của ông và các con trai của họ được hai mươi người nam.

Những Người Phục Vụ Ðền Thờ

20 Ngoài ra còn có hai trăm hai mươi người phục vụ Ðền Thờ mà Ða-vít và các triều thần của ông đã biệt riêng họ ra để phụ giúp những người Lê-vi. Tất cả những người đó đều đã được chỉ định đích danh.

Kiêng Ăn Cầu Nguyện Xin Ðức Chúa Trời Che Chở

21 Bấy giờ tôi tuyên bố một cuộc kiêng ăn ở tại đó, bên bờ Sông A-ha-va, để chúng tôi hạ mình xuống trước mặt Ðức Chúa Trời và để cầu xin Ngài ban ơn che chở chúng tôi, con cháu chúng tôi, và tài sản của chúng tôi được an toàn trong chuyến hành trình, 22 vì tôi cảm thấy hổ thẹn khi phải xin vua cho một đoàn bộ binh và kỵ binh hộ tống để bảo vệ chúng tôi khỏi bị quân thù tấn công dọc đường. Số là tôi đã thưa với nhà vua rằng tay của Ðức Chúa Trời sẽ ban phước cho tất cả những ai tìm kiếm Ngài, nhưng quyền năng và cơn thịnh nộ của Ngài sẽ giáng xuống tất cả những kẻ lìa bỏ Ngài. 23 Vậy chúng tôi kiêng ăn và cầu nguyện xin Ðức Chúa Trời ban cho chúng tôi điều chúng tôi cầu xin, và Ngài đã nhậm lời cầu nguyện của chúng tôi.

Trao Các Của Dâng cho Các Tư Tế

24 Sau đó tôi mời mười hai vị trưởng tế đến gặp tôi; đó là quý ông Sê-rê-bi-a và Ha-sa-bi-a, cùng mười anh em của hai ông ấy. 25 Tôi cân cho họ số bạc, số vàng, và các món đồ mà vua, các mưu sĩ của vua, các đại quan của vua, và toàn dân ở đó đã dâng cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời của chúng tôi. 26 Tôi cân và trao vào tay họ hai mươi hai ngàn một trăm ký[b] bạc, các bửu vật bằng bạc cân nặng ba ngàn bốn trăm ký,[c] và ba ngàn bốn trăm ký[d] vàng, 27 hai mươi cái bát vàng trị giá một ngàn a-đạc-côn,[e] hai món đồ bằng đồng đánh bóng rất quý chẳng kém gì vàng. 28 Tôi nói với họ, “Quý vị và các món đồ nầy đều đã được biệt riêng ra thánh cho Chúa. Bạc và vàng là những lễ vật lạc ý mà người ta đã dâng lên Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên quý vị. 29 Quý vị phải canh giữ chúng cẩn thận cho đến khi cân lại cho các vị trưởng tế, những người Lê-vi, và các vị trưởng tộc của dân I-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem trong các kho báu ở Ðền Thờ Chúa.”

30 Vậy các tư tế và những người Lê-vi nhận lấy bạc, vàng, và các món đồ đã cân, để đem chúng đến Ðền Thờ Ðức Chúa Trời của chúng tôi ở Giê-ru-sa-lem.

Hành Trình Trở Về Giê-ru-sa-lem

31 Ngày mười hai tháng giêng, chúng tôi lên đường rời khỏi bờ Sông A-ha-va để trở về Giê-ru-sa-lem. Tay của Ðức Chúa Trời ở trên chúng tôi. Ngài đã bảo vệ chúng tôi khỏi quân thù và khỏi bọn cướp phục kích ở dọc đường. 32 Cuối cùng chúng tôi đã về đến Giê-ru-sa-lem bình an và nghỉ ngơi ở đó ba ngày. 33 Ngày thứ tư, tại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, chúng tôi đã cân bạc, vàng, và các món đồ, và trao vào tay của Tư Tế Mê-rê-mốt con của U-ri-gia và Ê-lê-a-xa con của Phi-nê-a, người có mặt với ông tại đó. Ngoài ra còn có hai người Lê-vi là Giô-xa-bát con của Giê-sua và Nô-a-đi-a con của Bin-nui cũng có mặt ở đó và tiếp nhận các món đồ với họ. 34 Số lượng và trọng lượng đều được chuyển giao đầy đủ. Một biên bản bàn giao đã ghi rõ tổng số trọng lượng lúc bấy giờ.

35 Sau đó con cháu những người từ chốn lưu đày trở về đã dâng các của lễ thiêu lên Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên: mười hai con bò đực cho toàn dân I-sơ-ra-ên, chín mươi sáu con chiên đực, bảy mươi bảy con chiên con, và mười hai con dê đực để làm các của lễ chuộc tội. Tất cả đều đã được dâng lên Chúa dưới hình thức của lễ thiêu.

36 Kế đó họ trao cho các thủ hiến và các tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông sắc lệnh của vua. Những người ấy bèn giúp đỡ dân và Ðền Thờ Ðức Chúa Trời.

Phản Ðối Những Cuộc Hôn Nhân Dị Chủng và Dị Giáo

Sau các việc đó một số người lãnh đạo đến với tôi và nói, “Nhiều người I-sơ-ra-ên, kể cả các tư tế và những người Lê-vi đã không giữ mình cách biệt với các dân đã sống sẵn trong xứ, đặc biệt là đối với các thói tục gớm ghiếc trong tín ngưỡng của dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Giê-bu-si, dân Am-môn, dân Mô-áp, dân Ai-cập, và dân A-mô-ri, vì họ đã cưới các phụ nữ của các dân đó cho họ và cho các con trai của họ. Họ đã làm cho dòng dõi thánh trở thành hỗn tạp. Hơn nữa những người lãnh đạo và các quan chức lại là những người dẫn đầu trong việc vi phạm ấy.”

Bài Cầu Nguyện của Ê-xơ-ra

Khi nghe như thế tôi xé rách chiếc áo dài trong và áo choàng bên ngoài tôi đang mặc. Tôi bức tóc bức râu và ngồi thẫn thờ trong nỗi bàng hoàng đau khổ. Những ai có lòng kính sợ lời Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên đều tụ lại quanh tôi, vì sự vi phạm của những người từ chốn lưu đày trở về đã quá tệ. Tôi cứ ngồi thẫn thờ trong nỗi bàng hoàng đau khổ như thế cho đến giờ dâng của lễ chiều tàn. Ðến giờ dâng của lễ chiều tàn, tôi đứng dậy khỏi chỗ tôi đã ngồi kiêng ăn sầu thảm, với chiếc áo dài trong và áo choàng bên ngoài vẫn còn bị xé rách, tôi quỳ xuống và đưa hai tay hướng về Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi. Tôi cầu nguyện rằng:

“Lạy Ðức Chúa Trời của con, con thật xấu hổ và ngượng ngùng khi ngước mặt hướng về Ngài, Ðức Chúa Trời của con, vì tội của chúng con đã ngập quá đầu và lỗi của chúng con đã chất cao đến tận trời. Từ thời tổ tiên của chúng con cho đến ngày nay, chúng con đã phạm tội quá nhiều. Vì tội của chúng con mà các vua chúng con và các tư tế của chúng con đã bị trao vào tay các vua các dân ngoại. Người thì bị giết bằng gươm; kẻ thì bị bắt đem đi lưu đày; người thì bị tước đoạt tất cả; kẻ thì bị làm nhục, như chúng con phải chịu ngày nay. Nhưng bây giờ Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con, đã ban cho chúng con được hưởng ân huệ trong một thời gian ngắn. Ngài đã giữ lại một số người sống sót và cho họ được trở về. Ngài đã làm cho chúng con như một cái đinh được đóng chặt trong nơi thánh của Ngài. Ðức Chúa Trời của chúng con đã làm cho đôi mắt của chúng con sáng rực lên trở lại. Ngài đã cho chúng con được một khoảnh khắc hồi sinh giữa lúc sống trong thân phận nô lệ bị lưu đày. Thật vậy chúng con chỉ là những kẻ nô lệ bị lưu đày, nhưng trong cảnh nô lệ bị lưu đày ấy Ngài đã không bỏ chúng con, Ngài đã cho chúng con được thương xót trước mặt các vua Ba-tư để họ cho chúng con được hồi sinh, hầu trở về xây dựng lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, sửa lại những nơi đổ nát, và ban cho chúng con một bức tường bảo vệ ở Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 10 Nhưng bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, sau việc nầy chúng con còn có thể nói được gì đây? Vì chúng con đã lìa bỏ các điều răn của Ngài, 11 mà Ngài đã truyền qua các tôi tớ Ngài là các vị tiên tri rằng:

‘Xứ các ngươi sẽ vào hưởng nhận là một xứ không sạch, vì các dân trong xứ ấy đã làm cho nó ra ô uế bằng các thói tục gớm ghiếc trong tín ngưỡng của chúng. Chúng đã làm cho nó đầy dẫy sự ô uế từ đầu nầy đến đầu kia. 12 Vậy bây giờ các ngươi chớ gả các con gái của các ngươi cho chúng và cũng chớ cưới các con gái của chúng cho các con trai các ngươi. Ðừng bao giờ nhờ chúng để được yên ổn bình an hoặc nhờ chúng để làm ăn thịnh đạt. Các ngươi chớ làm như thế, hầu các ngươi sẽ được hùng cường, ăn lấy hoa màu trong xứ, và để xứ ấy lại làm sản nghiệp cho con cháu các ngươi mãi mãi.’

13 Những gì đã xảy ra cho chúng con là hậu quả của các tội nặng và các lỗi lầm nghiêm trọng của chúng con, mặc dù Ngài, Ðức Chúa Trời của chúng con, đã phạt chúng con nhẹ hơn những gì chúng con đáng phải chịu; đã thế Ngài còn cho chúng con một số người được sống sót và trở về như thế nầy. 14 Bây giờ lẽ nào chúng con lại tái phạm các điều răn của Ngài, lẽ nào chúng con lại cưới gả lộn xộn với các dân trong xứ vốn sống theo các thói tục gớm ghiếc trong tín ngưỡng của họ sao? Chẳng lẽ Ngài sẽ không thèm giận chúng con, để rồi một lúc nào đó Ngài sẽ nổi cơn thịnh nộ mà tiêu diệt chúng con, hầu không ai thoát khỏi hay sống sót sao? 15 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ngài lúc nào cũng đúng. Nhờ Ngài chúng con còn sống sót và về được đây như đã có ngày nay. Giờ đây chúng con xin phủ phục trước mặt Ngài với tội lỗi ngút ngàn, mà đúng ra với tội lỗi nặng nề như thế nầy, không ai trong chúng con được phép ở trước thánh nhan Ngài mà cầu xin như vậy.”

Dân Chúng Ðáp Ứng

10 Bấy giờ trong khi Ê-xơ-ra cầu nguyện, tức trong khi ông xưng tội, khóc lóc, và phủ phục trước Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, một đoàn dân I-sơ-ra-ên rất đông gồm đàn ông, đàn bà, và trẻ em tụ lại quanh ông; dân chúng cũng khóc lóc một cách đắng cay thảm thiết với ông. Bấy giờ Sê-ca-ni-a con của Giê-hi-ên, một trong các con cháu của Ê-lam, cất tiếng và nói với Ê-xơ-ra, “Chúng tôi đã phạm tội với Ðức Chúa Trời chúng ta. Chúng tôi đã cưới những phụ nữ không tin thờ Ngài của các dân trong xứ làm vợ. Dù việc nầy có trầm trọng thật, nhưng bây giờ vẫn còn hy vọng cho dân I-sơ-ra-ên. Vậy bây giờ xin chúng ta hãy lập một giao ước với Ðức Chúa Trời chúng ta, mà chấm dứt mối liên hệ gia đình với những người vợ dị chủng và dị giáo và các con cái do họ sinh ra theo như ý kiến của ông và của những người run sợ trước mạng lịnh của Ðức Chúa Trời chúng ta. Chúng ta cứ chiếu theo Luật Pháp mà thi hành. Xin ông đứng dậy vì việc nầy phải do ông quyết định mới được. Chúng tôi sẽ một lòng ủng hộ ông. Xin ông hãy can đảm và thực hiện điều ấy.”

Bấy giờ Ê-xơ-ra đứng dậy và yêu cầu các vị trưởng tế, những người Lê-vi, và toàn dân I-sơ-ra-ên tuyên thệ sẽ làm theo những lời đã đề nghị. Họ bèn thề sẽ làm theo như thế.

Ê-xơ-ra trỗi dậy, rời khỏi chỗ ông đã quỳ ở trước Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, và đi đến văn phòng của Giê-hô-ha-nan con của Ê-li-a-síp. Ông ở trong phòng đó suốt đêm, không ăn và không uống gì cả, vì ông quá buồn bã về lòng bất trung của những người bị lưu đày đã hồi hương.

Sau đó họ ra một thông cáo và phổ biến khắp xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, để kêu gọi tất cả những người đã từ chốn lưu đày trở về phải tập họp về Giê-ru-sa-lem gấp. Trong vòng ba ngày, theo lịnh của các nhà lãnh đạo và các vị trưởng lão, nếu ai không tới, tài sản người ấy sẽ bị tịch thu, và người ấy sẽ bị loại ra khỏi cộng đồng những người từ chốn lưu đày trở về.

Vậy chỉ trong ba ngày, toàn dân sống trong miền Giu-đa và miền Bên-gia-min đã tụ họp đông đủ về Giê-ru-sa-lem. Ðó là ngày hai mươi tháng chín. Mọi người đều ngồi ở trước quảng trường của Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Ai nấy đều run cầm cập vì việc ấy và cũng vì ướt lạnh do trời mưa tầm tã. 10 Bấy giờ Tư Tế Ê-xơ-ra đứng ra và nói với họ, “Anh em đã phạm tội vì đã cưới những người vợ dị chủng và dị giáo. Bây giờ anh em đã làm cho tội lỗi của I-sơ-ra-ên đã trở nên nặng hơn lúc trước. 11 Vậy bây giờ hãy xưng tội với Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh em, và làm theo ý Ngài. Hãy đoạn tuyệt với các dân trong xứ và hãy chấm dứt mối liên hệ gia đình với những người vợ dị chủng và dị giáo.”

12 Bấy giờ toàn thể hội chúng đáp lời và nói lớn tiếng, “Vâng! Chúng tôi sẽ làm như điều ông nói.” 13 Kế đó họ nói, “Rất nhiều người đã dính líu vào việc nầy, hơn nữa bây giờ là mùa mưa. Chúng ta không thể cứ đứng ngoài trời mà giải quyết việc nầy ngay hôm nay được. Ngoài ra việc nầy cũng không thể giải quyết được trong một hai ngày, vì chúng ta đã phạm tội quá trầm trọng trong việc nầy. 14 Bây giờ chúng ta hãy ủy quyền cho các vị lãnh đạo, để họ quyết định việc nầy cho toàn thể hội chúng. Những ai đã cưới vợ ngoại bang sẽ theo hẹn kỳ đến gặp các vị trưởng lão và các thẩm phán trong thành của mình, để được họ giải quyết thỏa đáng, hầu cơn thịnh nộ bừng bừng của Ðức Chúa Trời chúng ta sẽ quay khỏi chúng ta trong việc nầy.”

15 Chỉ có Giô-na-than con của A-sa-hên và Gia-xê-gia con của Tích-va phản đối quyết định đó, và họ được hai người Lê-vi là Mê-su-lam và Sa-bê-thai ủng hộ. 16 Thế là những người từ chốn lưu đày trở về đã cương quyết thực thi đề nghị ấy.

Tư tế Ê-xơ-ra chỉ định các vị trưởng gia tộc, người nào theo chi tộc nấy; tất cả đều được chỉ định đích danh. Ngày mồng một tháng mười, họ bắt đầu ngồi xuống giải quyết vấn đề. 17 Ðến ngày mồng một tháng giêng năm sau, họ đã giải quyết xong mọi trường hợp của những người cưới vợ dị chủng và dị giáo.

18 Trong vòng các tư tế, những người sau đây đã cưới vợ dị chủng và dị giáo:

Trong các con cháu của Giê-sua con của Giô-xa-đắc và các anh em ông ấy có Ma-a-sê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-li-a. 19 Tất cả những người ấy đều đưa tay tuyên thệ sẽ chấm dứt mối liên hệ gia đình với những người vợ dị chủng và dị giáo, và vì cớ lỗi của họ, mỗi người sẽ dâng một con chiên đực trong bầy của họ để làm của lễ tạ lỗi.

20 Trong con cháu của Im-me có Hê-na-ni và Xê-ba-đi-a.

21 Trong con cháu của Ha-rim có Mê-a-sê-gia, Ê-li-gia, Sê-ma-gia, Giê-hi-ên, và U-xi-a.

22 Trong con cháu của Pát-khua có Ê-li-ô-ê-nai, Ma-a-sê-gia, Ích-ma-ên, Nê-tha-nên, Giô-xa-bát, và Ê-la-sa.

23 Trong vòng những người Lê-vi có Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-la-gia (cũng có tên khác là Lê-li-ta), Pê-tha-hi-a, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe.

24 Trong vòng những người ca hát thờ phượng có Ê-li-a-síp.

Trong vòng những người canh cửa Ðền Thờ có Sanh-lum, Tê-lem, và U-ri.

25 Trong vòng những người I-sơ-ra-ên khác:

Trong con cháu của Pa-rốt có Ra-mi-a, I-xi-a, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-xa, Manh-ki-gia, và Bê-na-gia.

26 Trong con cháu của Ê-lam có Mát-ta-ni-a, Xa-cha-ri-a, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li-gia.

27 Trong con cháu của Xát-tu có Ê-li-ô-ê-nai, Ê-li-a-síp, Mát-ta-ni-a, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa.

28 Trong con cháu của Bê-bai có Giê-hô-ha-nan, Ha-na-ni-a, Xáp-bai, và Át-lai.

29 Trong con cháu của Ba-ni có Mê-su-lam, Manh-lúc, A-đa-gia, Gia-súp, Sê-anh, và Giê-rê-mốt.

30 Trong con cháu của Pa-hát Mô-áp có Át-na, Kê-lanh, Bê-na-gia, Ma-a-sê-gia, Mát-ta-ni-a, Bê-xa-lên, Bin-nui, và Ma-na-se.

31 Trong con cháu của Ha-rim có Ê-li-ê-xe, I-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-ma-gia, Si-mê-ôn, 32 Bên-gia-min, Manh-lúc, và Sê-ma-ri-a.

33 Trong con cháu của Ha-sum có Mát-tê-nai, Mát-ta-ta, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mai, Ma-na-se, và Si-mê-i.

34 Trong con cháu của Ba-ni có Ma-a-đai, Am-ram, U-ên, 35 Bê-na-gia, Bê-đê-gia, Kê-lu-hi, 36 Va-ni-a, Mê-rê-mốt, Ê-li-a-síp, 37 Mát-ta-ni-a, Mát-tê-nai, và Gia-a-su.

38 Trong con cháu của Bin-nui có Si-mê-i, 39 Sê-lê-mi-a, Na-than, A-đa-gia, 40 Mác-na-đê-bai, Sa-sai, Sa-rai, 41 A-xa-rên, Sê-lê-mi-a, Sê-ma-ri-a, 42 Sanh-lum, A-ma-ri-a, và Giô-sép.

43 Trong con cháu của Nê-bô có Giê-i-ên, Mát-ti-thi-a, Xa-bát, Xê-bi-na, Giáp-đai, Giô-ên, và Bê-na-gia.

44 Tất cả những người ấy đều cưới các phụ nữ dị chủng và dị giáo làm vợ. Một số người trong vòng họ đã có con với các phụ nữ đó.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 7:22 nt: 100 ta-lâng bạc (kikker, tiếng A-ram), 100 cô-rơ (kor) lúa mì, 100 bát (bath) rượu, 100 bát (bath) dầu
  2. Ê-xơ-ra 8:26 nt: 650 ta-lâng bạc (kikkar)
  3. Ê-xơ-ra 8:26 nt: 100 ta-lâng bạc
  4. Ê-xơ-ra 8:26 nt: 100 ta-lâng bạc
  5. Ê-xơ-ra 8:27 nt: 1.000 a-đạc-côn, đơn vị tiền tệ thời xưa