Add parallel Print Page Options

Giao ước của Thượng Đế với Ít-ra-en

19 Đúng ba tháng sau khi ra khỏi Ai-cập, dân Ít-ra-en đến sa mạc Si-nai. Rời Rê-phi-đim, họ đến sa mạc Si-nai và đóng trại trong sa mạc ngay trước núi. Rồi Mô-se lên núi gặp Thượng Đế. Từ trên núi CHÚA gọi Mô-se rằng, “Hãy bảo điều nầy cho gia đình Gia-cốp, và nói cho toàn dân Ít-ra-en biết: ‘Mỗi người trong các ngươi đã thấy điều ta làm cho dân Ai-cập. Các ngươi đã thấy ta mang ngươi ra khỏi Ai-cập như mang ngươi trên cánh chim ưng. Ta đã đưa các ngươi đến đây cho ta. Nên bây giờ nếu các ngươi vâng lời và giữ giao ước ta, các ngươi sẽ thuộc về ta, thành tài sản quí giá mà ta chọn ra từ các dân. Mặc dù cả trái đất đều thuộc về ta, nhưng các ngươi sẽ làm nước của thầy tế lễ ta và là một dân thánh.’ Con hãy bảo cho toàn dân Ít-ra-en những lời ấy.”

Vậy Mô-se xuống núi và triệu tập các bô lão của dân chúng lại. Ông thuật lại cho họ nghe hết mọi điều CHÚA truyền dặn mình. Tất cả dân chúng đồng đáp, “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều Ngài dặn.”

Sau đó Mô-se mang lời đáp của dân chúng lên cho CHÚA. CHÚA phán cùng Mô-se, “Ta sẽ ngự xuống trong đám mây dầy đặc và nói chuyện với con. Dân chúng sẽ nghe ta nói chuyện với con và họ sẽ luôn luôn tin cậy con.”

Rồi Mô-se thuật lại cho CHÚA điều dân chúng nói.

10 CHÚA bảo Mô-se, “Hãy đến bảo dân chúng dành hôm nay và ngày mai chuẩn bị mình cho sạch. Họ phải giặt quần áo 11 và sẵn sàng cho ngày mốt. Trong ngày đó, ta, CHÚA các ngươi sẽ ngự xuống trên núi Si-nai, và mọi người sẽ nhìn thấy ta. 12 Nhưng con hãy đặt một ranh giới quanh núi để dân chúng không được vượt qua. Bảo họ không được lên núi hay sờ vào chân núi. Ai đụng vào núi sẽ bị xử tử 13 bằng cách ném đá hay bắn tên. Không ai được phép đụng vào người đó. Dù là người hay thú vật cũng phải bị giết. Dân chúng phải chờ hồi kèn thật dài rồi sau đó mới được lên núi.”

14 Sau khi từ núi xuống gặp dân chúng thì Mô-se bảo họ dọn mình để chuẩn bị nghi thức cho Thượng Đế, và giặt quần áo.

15 Rồi Mô-se bảo dân chúng, “Trong ba ngày hãy chuẩn bị sẵn sàng. Trong thời gian đó không được ăn nằm với vợ.”

16 Sáng ngày thứ ba có sấm chớp và mây dầy đặc trên núi. Có một hồi kèn thật to và dài, dân chúng trong trại sợ run. 17 Tiếp đó Mô-se dẫn dân chúng ra khỏi trại để gặp Thượng Đế. Tất cả đều đứng nơi chân núi. 18 Khắp núi Si-nai bị khói bao trùm vì CHÚA ngự xuống núi trong đám lửa. Khói từ núi bốc lên như khói của lò lửa lớn và cả núi rung chuyển mạnh. 19 Tiếng kèn mỗi lúc một lớn. Lúc đó Mô-se nói chuyện và có tiếng Thượng Đế đáp lại.

20 Rồi CHÚA ngự xuống trên đỉnh núi Si-nai. Ngài gọi Mô-se lên đỉnh núi, Mô-se liền đi lên.

21 CHÚA bảo Mô-se, “Hãy đi xuống cảnh cáo dân chúng chớ có tìm cách xông lên gặp ta. Nếu không nhiều người trong đám họ sẽ chết đó. 22 Dù cho thầy tế lễ là những người có thể đến gần ta cũng phải dọn mình cho sạch. Nếu không, ta là CHÚA sẽ phạt họ.”

23 Mô-se thưa với CHÚA, “Dân chúng không thể lên núi Si-nai vì chính Ngài đã dặn: Hãy lập một giới hạn quanh núi, dành giới hạn đó ra thánh.”

24 CHÚA bảo Mô-se, “Hãy đi xuống mang A-rôn lên với con, nhưng đừng để thầy tế lễ hay dân chúng đến gần ta. Nếu không ta sẽ phạt họ.”

25 Mô-se liền xuống núi gặp dân chúng và dặn họ những điều ấy.

Mười điều răn

20 Sau đó Thượng Đế phán những lời nầy: “Ta là Thượng Đế, CHÚA ngươi, Đấng đã mang ngươi ra khỏi xứ Ai-cập, nơi ngươi làm nô lệ.

Ngoài ta, ngươi không được có thần nào khác.

Ngươi không được làm cho mình một thần tượng nào giống như bất cứ vật gì trên trời cao hay dưới đất thấp nầy, hoặc trong nước bên dưới đất. Ngươi không được bái lạy hay phục vụ thần tượng nào, vì ta, CHÚA và Thượng Đế ngươi là một Thượng Đế đố kỵ [a]. Nếu ngươi ghét ta, ta sẽ trừng phạt con cái ngươi, cho đến cả cháu chít ngươi nữa. Nhưng ta sẽ tỏ lòng nhân từ đến ngàn thế hệ sau cho những ai yêu mến ta và giữ các mệnh lệnh ta.

Ngươi không được dùng danh CHÚA là Thượng Đế ngươi một cách bừa bãi; CHÚA sẽ trừng phạt kẻ nào lạm dụng danh Ngài.

Hãy nhớ giữ ngày Sa-bát làm ngày thánh. Hãy làm việc trong sáu ngày, 10 nhưng ngày thứ bảy là ngày nghỉ để tôn kính CHÚA là Thượng Đế ngươi. Trong ngày đó, không ai được phép làm việc gì cả: ngươi, con trai con gái, tôi trai tớ gái, súc vật ngươi, hay những người ngoại quốc cư ngụ trong các thị trấn ngươi cũng vậy. 11 Vì trong sáu ngày CHÚA dựng nên trời, đất, biển và mọi vật trong đó. Đến ngày thứ bảy thì Ngài nghỉ ngơi. Nên CHÚA đã chúc phước cho ngày Sa-bát và hoá thánh ngày ấy.

12 Hãy tôn kính cha mẹ ngươi để ngươi được sống lâu trong xứ mà CHÚA là Thượng Đế sẽ ban cho ngươi.

13 Ngươi không được giết người.

14 Ngươi không được phạm tội ngoại tình.

15 Ngươi không được trộm cắp.

16 Ngươi không được đặt điều nói dối [b] về người láng giềng mình.

17 Ngươi không được thèm muốn nhà người láng giềng mình. Ngươi không được tham vợ người, tôi trai tớ gái, bò, lừa của người hay bất cứ vật gì thuộc về láng giềng ngươi.”

18 Khi dân chúng nghe sấm và tiếng kèn, và thấy chớp loè cùng khói bốc lên trên đỉnh núi, họ sợ run nên đứng cách xa núi. 19 Họ bảo Mô-se, “Thôi, chính ông hãy nói với chúng tôi thì chúng tôi sẽ nghe. Nhưng đừng để Thượng Đế nói với chúng tôi chắc chúng tôi sẽ chết hết.”

20 Sau đó Mô-se bảo dân chúng, “Đừng sợ vì Thượng Đế đến để thử các ngươi. Ngài muốn các ngươi kính sợ Ngài để không phạm tội.”

21 Dân chúng đứng cách xa núi, trong khi Mô-se đến gần đám mây đen có Thượng Đế ngự. 22 Rồi CHÚA bảo Mô-se nói với dân Ít-ra-en như sau: “Chính mắt các ngươi đã thấy ta nói chuyện với ngươi từ trời. 23 Ngươi không được làm hình tượng cho mình dù bằng vàng hay bạc; ngoài ta ra ngươi không được thờ thần nào khác.

24 Hãy lập một bàn thờ bằng đất cho ta rồi dâng lên trên đó của lễ toàn thiêu và của lễ thân hữu, chiên và gia súc của ngươi. Hãy thờ phụng ta ở nơi nào ta chọn lập bàn thờ, ta sẽ đến ban phước cho ngươi. 25 Nếu ngươi dùng đá để xây bàn thờ cho ta thì không được dùng đá đẽo. Khi ngươi dùng dụng cụ bằng sắt để đẽo các tảng đá đó, ngươi đã làm cho các tảng đá đó không thích hợp cho việc thờ phụng nữa. 26 Ngươi không nên bước lên bực thang để đến bàn thờ ta, vì người ta sẽ nhìn thấy da thịt qua áo quần của ngươi.”

Luật về cách sống

21 Sau đó Thượng Đế bảo Mô-se, “Sau đây là những luật lệ về cách sống mà ngươi phải truyền cho dân chúng:

Nếu ngươi mua một người nô lệ người Do-thái [c], thì nó sẽ phục vụ ngươi trong sáu năm. Đến năm thứ bảy ngươi phải trả tự do cho nó, còn nó thì sẽ không phải trả gì cho ngươi cả. Nếu khi bắt đầu làm nô lệ cho ngươi mà nó độc thân thì nó sẽ độc thân ra đi. Nhưng khi bắt đầu làm nô lệ cho ngươi mà nó có vợ thì nó có thể mang vợ theo khi ra đi. Nếu người chủ nô lệ cưới vợ cho nó, rồi vợ nó sinh con trai hay con gái thì vợ và con nó thuộc về người chủ. Khi người nô lệ được trả tự do thì chỉ một mình nó ra đi mà thôi.

Nhưng nếu người nô lệ nói, ‘Tôi thương chủ tôi, vợ và con tôi, tôi không muốn được trả tự do,’ thì người chủ nô lệ phải mang nó đến trước mặt Thượng Đế [d]. Chủ sẽ mang nó đến trước cánh cửa hay khung cửa, rồi dùng cái dùi xỏ lỗ tai nó. Như thế nó sẽ phục vụ chủ suốt đời.

Nếu ai bán con gái làm nô lệ thì luật lệ trả tự do cho nó khác với luật lệ trả tự do cho nô lệ nam. Nếu người chủ muốn lấy cô gái đó làm vợ, nhưng sau thấy không thích nàng thì người đó phải để cho thân nhân gần nhất của nàng chuộc nàng lại. Người chủ không có quyền bán nàng cho người ngoại quốc, vì như thế là đối xử bất công với nàng. Nếu người mua nàng hứa để nàng lấy con trai mình, thì phải đối xử với nàng như con gái mình.

10 Nếu người mua nàng lại lấy người đàn bà khác thì người ấy không được giảm bớt thức ăn, quần áo hay liên hệ thể xác với người vợ cũ. 11 Nếu người chủ không cho người vợ cũ ba điều ấy thì nàng có thể tự do ra đi, khỏi phải trả gì cả.

Luật về thương tích

12 Ai đánh người khác và làm thiệt mạng người ấy thì phải bị xử tử. 13 Nhưng nếu ai vô ý làm thiệt mạng người khác, tức Thượng Đế đã để chuyện đó xảy ra, thì người đó phải đi đến một nơi ta chọn. 14 Nhưng nếu ai cố tình giết người khác thì phải bị xử tử, dù cho nó chạy đến bám nơi bàn thờ [e] ta đi nữa cũng vậy.

15 Ai đánh cha hay mẹ mình phải bị xử tử.

16 Ai bắt cóc người khác để bán làm nô lệ hay vẫn còn giữ người bị bắt cóc đang khi bị bắt quả tang thì phải bị xử tử.

17 Ai mắng chửi cha mẹ mình phải bị xử tử.

18 Khi hai người cãi nhau mà người nầy đánh người kia bằng nắm tay hay hòn đá, người kia bị thương nhưng không chết phải nằm liệt giường, 19 về sau người đó đi đứng lại được nhưng phải chống gậy, thì người gây ra thương tích không bị phạt nhưng phải hoàn trả cho người bị thương số tiền tương đương với thời gian liệt giường, và phải lo cho người bị thương cho đến khi người đó bình phục.

20 Nếu ai lấy cây đánh nô lệ nam hay nữ của mình mà người nô lệ chết ngay tại chỗ thì người chủ phải bị trừng phạt [f]. 21 Nhưng nếu người nô lệ bình phục sau một hai ngày thì người chủ sẽ không bị phạt vì người nô lệ đó đã là tài sản của người rồi.

22 Khi hai người đánh nhau mà vô tình đánh phải một người đàn bà có thai khiến người đó bị sẩy thai, nếu không gây ra thương tích trầm trọng [g] gì khác thì người gây ra tai nạn phải bồi thường tiền. Số tiền sẽ do người chồng ấn định, và theo tòa án cho phép. 23 Nhưng nếu gây ra thương tích khác thì sự trừng phạt sẽ là mạng đền mạng, 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, 25 bỏng đền bỏng, thương tích đền thương tích, và sây sát đền sây sát.

26 Nếu ai đánh người nô lệ nam hay nữ trúng mắt khiến bị mù, thì người đó phải trả tự do cho người nô lệ để đền bù lại con mắt bị mù ấy. 27 Nếu người chủ đánh gãy răng của người nô lệ nam hay nữ thì phải trả tự do cho người nô lệ đó để bù lại chiếc răng gãy.

28 Nếu bò của ai húc chết một người đàn ông hay đàn bà, thì ngươi phải ném đá chết con bò ấy, ngươi không được ăn thịt nó. Nhưng người chủ con bò thì được xem như vô tội. 29 Tuy nhiên nếu con bò trước đây đã gây thương tích cho nhiều người, và mặc dù đã được cảnh cáo, người chủ vẫn thả con bò chạy rông. Nếu nó giết người nào, thì phải ném đá chết con bò, còn người chủ cũng phải bị xử tử luôn. 30 Nhưng nếu gia đình của người chết chịu nhận tiền bồi thường, thì người chủ con bò xem như đã chuộc mạng mình, nhưng phải trả tiền bồi thường tùy theo gia đình nạn nhân đòi.

31 Nếu con bò giết chết con trai hay con gái người nào thì cũng áp dụng luật trên đây. 32 Nếu con bò giết chết một người nô lệ nam hay nữ, người chủ bò phải trả người chủ nô lệ 30 miếng bạc tức giá của một người nô lệ mới, còn con bò thì phải bị ném đá chết.

33 Ai lấy nắp chận hố hay đào hố mà không đậy nắp lại, nếu bò hay lừa của người khác rơi vào đó, 34 thì người chủ hố phải đền bù thiệt hại tương đương với giá con vật chết. Nhưng con vật chết sẽ thuộc về người bồi thường.

35 Nếu bò của ai húc chết bò người khác thì phải bán con bò sống. Hai bên sẽ chia đôi số tiền bán được, và chia đôi con bò chết. 36 Nhưng nếu con bò của người ấy trước kia đã từng gây thương tích cho các con vật khác mà chủ vẫn để chạy rông, thì người ấy phải bồi thường con bò chết, còn con bò chết thì thuộc về mình.”

Footnotes

  1. Xuất Hành 20:5 Thượng Đế đố kỵ Hay ta là En Ca-na—Thượng Đế ganh tị.
  2. Xuất Hành 20:16 đặt điều nói dối Hay “làm chứng gian.”
  3. Xuất Hành 21:2 Do-thái Hoặc Hê-bơ-rơ hay Ít-ra-en.
  4. Xuất Hành 21:6 trước mặt Thượng Đế Hay “trước mặt các quan án.”
  5. Xuất Hành 21:14 bàn thờ Một trong những nơi đặc biệt mà người vô tội có thể chạy đến để được bảo vệ. Xem từ ngữ nầy trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ ở cuối sách.
  6. Xuất Hành 21:20 bị trừng phạt Hay “bị trừng phạt về tội sát nhân.”
  7. Xuất Hành 21:22 thương tích trầm trọng Hay “gây ra thiệt mạng.”

Dân I-sơ-ra-ên Ðến Núi Si-nai

19 Ðến lần trăng mới thứ ba kể từ khi dân I-sơ-ra-ên rời khỏi xứ Ai-cập, vào ngày thứ nhất của tháng đó,[a] họ tới Ðồng Hoang Si-nai. Họ nhổ trại rời khỏi Rê-phi-đim để vào Ðồng Hoang Si-nai, và hạ trại trong đồng hoang. Dân I-sơ-ra-ên đóng trại tại đó, đối ngang ngọn núi.

Môi-se lên núi hầu chuyện với Ðức Chúa Trời. Từ trên núi Ðức Chúa Trời gọi ông và phán, “Ngươi hãy nói với nhà Gia-cốp và bảo dân I-sơ-ra-ên thế nầy: Các ngươi đã thấy những điều Ta làm cho dân Ai-cập, và thể nào Ta đã mang các ngươi trên cánh đại bàng đem các ngươi đến với Ta. Vậy bây giờ nếu các ngươi vâng theo tiếng Ta và giữ giao ước Ta, thì trong tất cả các dân, các ngươi sẽ là dân thuộc riêng về Ta, vì cả thế gian đều thuộc về Ta, và các ngươi sẽ thành một vương quốc tư tế và một dân thánh cho Ta. Ðó là những lời ngươi hãy nói lại với dân I-sơ-ra-ên.”

Vậy Môi-se trở xuống, triệu tập các vị trưởng lão trong dân lại, và trình ra trước họ mọi lời Chúa đã truyền cho ông. Toàn dân trả lời như một rằng, “Mọi điều gì Chúa phán bảo, chúng tôi sẽ làm theo.” Môi-se trình lại với Chúa những lời dân đã cam kết. Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Ta sẽ ngự trong đám mây đen đến với ngươi, để khi Ta nói chuyện với ngươi thì dân có thể nghe, và như vậy chúng sẽ tin cậy ngươi mãi mãi.”

Biệt Riêng Dân Ra Thánh

Khi Môi-se đã trình lại với Chúa những lời dân đã cam kết, 10 Chúa phán với Môi-se, “Hãy đến với dân và làm cho chúng ra thánh hôm nay và ngày mai. Hãy bảo chúng giặt sạch y phục, 11 và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày mốt, vì ngày mốt Chúa sẽ ngự xuống trên Núi Si-nai trước mặt toàn dân.

12 Ngươi hãy định giới hạn rõ ràng cho dân quanh chân núi và bảo chúng, ‘Hãy cẩn thận, đừng lên núi và cũng đừng chạm đến chân núi. Hễ ai chạm đến núi sẽ bị xử tử. 13 Không ai được đụng đến kẻ ấy. Nó phải bị ném đá hoặc bị bắn bằng cung tên. Bất kể thú vật hay người ta đều sẽ không được để cho sống.’ Chỉ khi nào có tiếng kèn thổi dài, bấy giờ chúng mới được phép lên núi.”

14 Vậy Môi-se từ trên núi đi xuống với dân. Ông làm cho dân ra thánh, và họ giặt sạch y phục của họ. 15 Ðoạn ông nói với dân, “Hãy chuẩn bị cho ngày mốt; không được gần phụ nữ.”

16 Vào sáng sớm ngày mốt, tức ngày thứ ba, trên không trung sấm nổ vang trời, chớp loé lên sáng rực khắp đất, mây đen kéo đến bao phủ núi, và tiếng kèn trỗi lên vang rền, đến nỗi dân trong trại phải run lên vì khiếp sợ. 17 Môi-se đưa dân ra khỏi trại để gặp Ðức Chúa Trời. Họ đến đứng nơi chân núi. 18 Vả, lúc bấy giờ cả Núi Si-nai đều tỏa khói mịt mù, vì Chúa đã ngự xuống trong một luồng lửa. Khói từ ngọn núi bốc lên như khói ra từ một lò lửa, trong khi cả núi rung chuyển dữ dội. 19 Ðang khi tiếng kèn càng lúc càng lớn, Môi-se thưa chuyện, và Ðức Chúa Trời đáp lời ông trong tiếng sấm. 20 Chúa ngự xuống trên đỉnh Núi Si-nai. Chúa gọi Môi-se lên đỉnh núi, và Môi-se đi lên đó. 21 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi xuống và cảnh cáo dân: đừng vượt qua lằn ranh mà xông lên núi để nhìn Chúa, kẻo nhiều người sẽ chết. 22 Ngay cả các tư tế muốn đến gần Chúa cũng phải làm cho mình nên thánh, bằng không Chúa sẽ đánh phạt họ.”

23 Môi-se thưa với Chúa, “Dân không được phép lên Núi Si-nai, vì chính Ngài đã cảnh cáo chúng con rằng, ‘Hãy đặt giới hạn quanh núi và biệt riêng nó ra thánh.’”

24 Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi xuống và dẫn A-rôn lên với ngươi, nhưng đừng cho phép các tư tế hay dân chúng vượt qua lằn ranh để đi lên nhìn Chúa, kẻo Ngài sẽ đánh phạt chúng.” 25 Vậy Môi-se đi xuống gặp dân và nói lại với họ.

Mười Ðiều Răn

(Phục 5:1-33)

20 Bấy giờ Ðức Chúa Trời phán mọi lời nầy, “Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, Ðấng đã đem ngươi ra khỏi xứ Ai-cập, tức khỏi nhà nô lệ:

Trước mặt Ta ngươi chớ có các thần khác.
Ngươi chớ làm hình tượng cho mình để thờ, bất kể hình tượng của vật gì trên trời, hoặc vật gì dưới đất, hoặc vật gì trong nước dưới mặt đất.
Ngươi không được sấp mình xuống trước mặt chúng hay thờ lạy chúng, vì Ta, Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, là một Thần[b] ghen tương. Do tội ghét bỏ Ta của ông bà cha mẹ mà con cháu sẽ bị vạ lây đến ba bốn đời, nhưng Ta sẽ bày tỏ ơn thương xót đến ngàn đời cho những kẻ yêu kính Ta và vâng giữ các điều răn Ta.
Ngươi chớ dùng danh Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, một cách bất kính, vì Chúa sẽ không kể vô tội kẻ nào dùng danh Ngài một cách bất kính.
Hãy nhớ ngày Sa-bát mà biệt riêng ngày ấy ra thánh. Ngươi sẽ lao động và làm mọi việc của mình trong sáu ngày, 10 nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát để tôn kính Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi; trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, súc vật, hay ngoại kiều cư ngụ trong thành ngươi đều không được làm việc gì, 11 vì trong sáu ngày Chúa đã dựng nên trời, đất, biển, và mọi vật trong chúng, nhưng đến ngày thứ bảy, Ngài nghỉ. Vậy Chúa đã ban phước cho ngày Sa-bát và biệt riêng ngày ấy ra thánh.
12 Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, để ngươi được sống lâu trên đất mà Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, ban cho ngươi.
13 Ngươi chớ sát nhân.
14 Ngươi chớ ngoại tình.
15 Ngươi chớ trộm cắp.
16 Ngươi chớ làm chứng dối để hại người lân cận ngươi.[c]
17 Ngươi chớ tham nhà của người lân cận ngươi; ngươi chớ tham muốn vợ của người lân cận ngươi, hoặc tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hay bất cứ vật chi thuộc về người lân cận ngươi.”

18 Khi toàn dân chứng kiến cảnh sấm nổ vang trời, sét chớp liên hồi, tiếng kèn trỗi lên vang lừng, và núi bốc khói mịt mù, thì sợ hãi và đứng cách xa. 19 Họ nói với Môi-se, “Xin chính ông nói với chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe lời ông, nhưng xin đừng để Ðức Chúa Trời nói với chúng tôi, e chúng tôi chết mất.”

20 Môi-se nói với dân, “Ðừng sợ, vì Ðức Chúa Trời đến chỉ để thử anh chị em, hầu anh chị em kính sợ Ngài mà đừng phạm tội.” 21 Dân cứ đứng cách một khoảng xa, trong khi Môi-se đến gần đám mây đen, nơi Ðức Chúa Trời đang ngự.

Luật về Việc Lập Bàn Thờ

22 Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy nói với dân I-sơ-ra-ên như thế nầy: Chính các ngươi đã thấy Ta từ trời nói chuyện với các ngươi. 23 Các ngươi chớ đúc các tượng thần bằng bạc để thờ bên cạnh Ta. Các ngươi cũng chớ đúc các tượng thần bằng vàng để thờ.

24 Ngươi chỉ cần lập cho Ta một bàn thờ bằng đất, rồi dâng trên đó những của lễ thiêu, của lễ cầu an, chiên, và bò của mình ở những nơi Ta muốn danh Ta được ghi nhớ, để Ta sẽ đến với ngươi và ban phước cho ngươi. 25 Còn nếu ngươi muốn lập cho Ta một bàn thờ bằng đá thì chớ dùng những đá đã bị đục đẽo, vì nếu ngươi đã dùng mũi đục mà chạm khắc trên đá ấy, ngươi đã làm cho đá ấy trở nên ô uế. 26 Ngươi chớ đi lên bàn thờ bằng bực thang, để sự lõa lồ của ngươi sẽ không bị lộ.

Luật về Nô Lệ

(Phục 15:12-18)

21 Ðây là các luật lệ ngươi sẽ đặt trước mặt dân:

Khi ngươi mua một người Hê-bơ-rơ làm nô lệ, người ấy sẽ phục vụ ngươi sáu năm, nhưng năm thứ bảy người ấy sẽ được tự do ra đi mà không phải trả tiền chuộc. Nếu lúc đến làm nô lệ mà người ấy độc thân, khi ra đi người ấy sẽ ra đi độc thân; nhưng nếu lúc đến làm nô lệ mà người ấy đã lập gia đình, khi ra đi, vợ người ấy cũng sẽ ra đi với người ấy. Nếu trong thời gian làm nô lệ, chủ cưới vợ cho người ấy, rồi vợ người ấy sinh cho người ấy con trai hoặc con gái, khi ra đi vợ và con người ấy sẽ thuộc về chủ, người ấy chỉ ra đi một mình. Nhưng nếu người ấy nói, ‘Tôi thương chủ tôi, vợ tôi, và các con tôi. Tôi không muốn ra đi làm người tự do,’ thì chủ người ấy sẽ đem người ấy đến trước mặt các quan tòa.[d] Người ấy sẽ được dẫn đến bên cổng hoặc khung cửa, rồi chủ người ấy sẽ lấy dùi xỏ lủng tai người ấy, và người ấy sẽ phục vụ chủ suốt đời mình.

Khi một người bán con gái mình làm tỳ nữ, người con gái ấy sẽ không được tự do ra đi như các nam nô lệ. Nếu nàng không vừa ý chủ là người đã dành nàng cho mình, chủ phải cho nàng được chuộc lại. Chủ không có quyền bán nàng cho dân ngoại, vì như thế là thất tín với nàng. Nếu chủ muốn dành người con gái đó cho con trai mình, chủ phải đối xử với nàng như con gái mình. 10 Nếu chủ cưới một người phụ nữ khác làm vợ, chủ không được quyền cắt giảm phần lương thực, quần áo, và quyền phối ngẫu của nàng. 11 Nếu chủ không làm ba điều trên cho nàng, nàng có quyền ra đi tự do, không nợ nần, không phải trả tiền gì cả.

Luật về Tội Bạo Hành

12 Hễ ai đánh chết người, kẻ ấy sẽ bị xử tử. 13 Nếu người ấy không cố ý giết người, nhưng án mạng đã xảy ra do Ðức Chúa Trời cho phép kẻ bị chết phải chết bởi tay người ấy, thì Ta sẽ chỉ định cho ngươi một chỗ để người ấy có thể chạy đến đó ẩn náu. 14 Nhưng nếu ai cố tình toan tính, rồi xông vào giết người lân cận mình, ngươi phải lôi kẻ sát nhân ấy ra khỏi bàn thờ Ta, mà xử tử nó đi.

15 Kẻ nào đánh cha hoặc đánh mẹ sẽ bị xử tử.

16 Kẻ nào bắt cóc người ta, bất kể người bị bắt cóc đã bị bán hay còn bị nó giam giữ, kẻ bắt cóc ấy sẽ bị xử tử.

17 Kẻ nào chưởi cha hoặc mắng mẹ sẽ bị xử tử.

18 Khi hai người cãi nhau, nếu một người đánh người kia bằng cục đá hay bằng nắm tay, khiến người kia bị trọng thương, dù không gây cho người kia bị thiệt mạng, nhưng phải nằm liệt giường, 19 rồi sau đó có thể đứng dậy, chống gậy đi lại, và đi ra ngoài được, thì kẻ đánh người sẽ được tha, nhưng phải trả tiền chữa trị và thiệt hại cho người kia trong suốt thời gian dưỡng bịnh cho đến khi hoàn toàn bình phục.

20 Khi người chủ nô lệ đánh một nam nô lệ hay một nữ nô lệ bằng roi, và người nô lệ chết ngay dưới tay chủ, người chủ phải bị trừng phạt. 21 Nhưng nếu người nô lệ còn sống được một, hai ngày, người chủ khỏi bị trừng phạt, vì chủ đã bỏ tiền ra mua nó.

22 Khi người ta ẩu đả nhau, nếu ai gây cho một phụ nữ đang mang thai bị hư thai, nhưng không thiệt hại chi khác, kẻ gây cho nàng bị hư thai phải bồi thường theo số tiền chồng nàng đòi, và theo quyết định của quan tòa. 23 Nhưng nếu có thiệt hại gì khác, ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, 25 phỏng đền phỏng, thương tích đền thương tích, bầm đền bầm.

26 Khi người chủ nô lệ đánh nhằm con mắt của một nam nô lệ hay một nữ nô lệ của mình, khiến nó bị mù, người chủ nô lệ đó phải để cho người nô lệ được ra đi tự do, để đền bù cho con mắt của người đó. 27 Nếu người chủ nô lệ đánh gãy răng của một nam nô lệ hay một nữ nô lệ của mình, người nô lệ ấy được ra đi tự do, để đền bù cho cái răng bị gãy.

Luật về Tài Sản

28 Khi một con bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà, con bò ấy phải bị ném đá chết; không ai được ăn thịt nó. Chủ con bò ấy sẽ được xem là vô can. 29 Nhưng nếu con bò ấy hay có tật húc người, và chủ bò đã được khuyến cáo, nhưng không chịu kiềm chế nó, để nó húc chết một người nam hay nữ, con bò ấy sẽ bị ném đá chết và chủ nó cũng sẽ bị xử tử. 30 Nếu người ta cho chủ bò được đền tiền chuộc mạng, chủ bò phải đền bất cứ giá nào thân nhân của nạn nhân đòi cho mạng sống của nạn nhân. 31 Nếu bò húc chết một đứa bé trai hay một đứa bé gái, chủ bò cũng bị xử theo luật nầy. 32 Nếu bò húc chết một nam nô lệ hay một nữ nô lệ, chủ bò phải trả cho chủ người nô lệ ba trăm bốn mươi lăm gờ-ram bạc,[e] còn con bò phải bị ném đá chết.

33 Nếu ai để giếng mình không đậy, hoặc đào giếng mà không đậy miệng giếng lại, rủi bò hay lừa của ai té vào giếng ấy, 34 chủ giếng phải bồi thường tiền cho chủ con vật, nhưng xác con vật sẽ thuộc về chủ giếng.

35 Nếu bò của người nầy húc bò của người kia chết, phải bán con bò còn sống mà chia nhau số tiền, và họ cũng sẽ chia nhau con bò chết. 36 Nhưng nếu người ta biết một con bò đã có tật hay húc, mà chủ bò không kiềm chế nó, thì chủ bò phải lấy bò đền bò, và người ấy sẽ được giữ con bò chết.

Footnotes

  1. Xuất Hành 19:1 nt: vào chính ngày ấy (Câu nầy cũng có thể hiểu: Sau hai tháng họ rời Ai-cập, bắt đầu tháng thứ ba..)
  2. Xuất Hành 20:5 nt: El
  3. Xuất Hành 20:16 ctd: người khác (tương tự trong câu 17)
  4. Xuất Hành 21:6 ctd: Ðức Chúa Trời
  5. Xuất Hành 21:32 nt: 30 sê-ken bạc