Add parallel Print Page Options

Sô-lô-môn cầu xin khôn ngoan

Sô-lô-môn kết ước với vua Ai-cập bằng cách cưới con gái vua ấy và mang nàng về Giê-ru-sa-lem. Lúc đó Sô-lô-môn đang xây cung điện và đền thờ của CHÚA, cũng như vách bao quanh thành Đa-vít. Đền thờ để thờ kính CHÚA chưa cất xong, cho nên dân chúng vẫn còn dâng tế lễ ở những nơi thờ phụng. Sô-lô-môn chứng tỏ ông yêu mến CHÚA bằng cách vâng theo những mệnh lệnh mà cha mình là Đa-vít đã truyền lại, ngoại trừ những nơi thờ phụng mà dân chúng vẫn dùng để dâng của lễ và đốt hương.

Vua Sô-lô-môn đi đến Ghi-bê-ôn để dâng của lễ, vì đó là nơi thờ phụng quan trọng nhất. Ông dâng một ngàn của lễ trên bàn thờ đó. Trong khi đang ở Ghi-bê-ôn CHÚA hiện ra cùng ông trong một giấc mộng và hỏi, “Hãy xin bất cứ điều gì ngươi muốn ta ban cho.”

Sô-lô-môn thưa, “CHÚA đã rất nhân từ cùng Đa-vít, cha của con, kẻ tôi tớ Ngài. Cha của con đã vâng lời Ngài, làm điều ngay thẳng và sống phải lẽ. Ngài cũng đã tỏ lòng nhân từ lớn lao đối với người khi CHÚA cho con người lên ngôi kế vị người. Lạy CHÚA là Thượng Đế của con, bây giờ Ngài đã lập con, kẻ tôi tớ Ngài, làm vua thế cho cha của con. Nhưng con chỉ là một đứa con nít, không biết phải hành động ra sao. Con, kẻ tôi tớ CHÚA ở giữa dân chúng được chọn lựa của Ngài, là một dân đông vô số. Con cầu xin Ngài ban cho con một tấm lòng vâng phục để con có thể cai trị dân Ngài theo đường lối ngay thẳng và biết phân biệt phải trái. Nếu không làm sao con có thể cai trị đám dân đông đảo nầy của CHÚA?”

10 Lời yêu cầu của Sô-lô-môn làm hài lòng CHÚA. 11 Nên Thượng Đế bảo ông, “Ngươi không xin sống lâu, giàu có, hay mạng sống các kẻ thù ngươi. Vì ngươi xin cho được khôn ngoan để biết quyết định cho đúng, 12 nên ta sẽ ban cho ngươi điều ngươi xin. Ta sẽ cho ngươi sự khôn ngoan và hiểu biết hơn cả những người sống trước kia hay về sau nầy. 13 Ta cũng sẽ ban cho ngươi điều ngươi không xin: là sự giàu có và vinh dự. Trong đời ngươi sẽ không có vua nào cao sang bằng ngươi cả. 14 Nếu ngươi vâng lời ta, luật lệ và mệnh lệnh ta như Đa-vít, cha ngươi, đã làm thì ta cũng sẽ ban cho ngươi sống lâu.”

15 Sau khi Sô-lô-môn thức giấc thì đi đến Giê-ru-sa-lem. Ông đứng trước Rương Giao Ước của CHÚA, dâng của lễ thiêu và của lễ thân hữu. Sau đó ông mở tiệc thết đãi quần thần.

Sô-lô-môn quyết định khôn ngoan

16 Một ngày kia có hai cô gái điếm đến gặp Sô-lô-môn. Đứng trước vua, 17 một trong hai cô tâu, “Thưa chúa, chị nầy và tôi ở chung nhà. Trong khi đang ở chung thì tôi sinh con. 18 Ba ngày sau chị nầy cũng sinh con. Không có ai khác ở chung với chúng tôi, chỉ có hai đứa chúng tôi thôi. 19 Một đêm chị nầy lăn đè chết con. 20 Đang đêm trong khi tôi ngủ thì chị liền mang con tôi từ giường tôi sang giường chị. Rồi chị đặt đứa con chết vào giường tôi. 21 Sáng hôm sau khi tôi thức dậy để cho con tôi bú thì thấy nó chết rồi! Khi tôi nhìn kỹ lại thì thấy không phải con tôi.”

22 Chị kia kêu lên, “Không! Đứa sống là con tao, đứa chết là con mầy!”

Nhưng chị thứ nhất cãi, “Không! Đứa chết là con mầy, đứa sống là con tao!” Hai bên cãi nhau trước mặt vua.

23 Sô-lô-môn liền bảo, “Người thì nói, ‘Đứa sống là con tao, đứa chết là con mầy.’ Người kia nói, ‘Không! Đứa chết là con mầy, đứa sống là con tao.’” 24 Vua bảo đầy tớ mang đến một cây gươm. Khi họ mang gươm đến, 25 vua bảo, “Chặt đứa con sống ra làm đôi, cho mỗi người một nửa.”

26 Người mẹ thật của đứa con sống đầy lòng thương con cho nên thưa với vua, “Thưa chúa, xin đừng giết nó! Giao nó cho chị kia đi!” Nhưng chị nọ bảo, “Nó không thuộc về tao hay mầy. Chặt nó ra làm hai đi!”

27 Vua Sô-lô-môn liền nói, “Đừng giết nó. Trả nó cho chị đầu tiên, vì chị đó mới là mẹ thật của nó.”

28 Khi dân Ít-ra-en nghe sự phân xử của vua Sô-lô-môn, thì họ hết sức kính nể. Dân chúng nhận thấy vua có sự khôn ngoan của Thượng Đế [a] để đưa ra những quyết định đúng đắn.

Các quần thần của Sô-lô-môn

Vua Sô-lô-môn trị vì trên cả Ít-ra-en. Sau đây là tên của những viên chức quan trọng trong triều đình: A-xa-ria, con trai Xa-đốc là thầy tế lễ. Ê-li-hô-rếp và A-hi-gia, các con của Si-sa, làm lục sự tòa án; Giê-hô-sa-phát con A-hi-lút là sử gia của dân chúng; Bê-na-gia con Giê-hô-gia-đa làm tư lệnh quân đội; Xa-đốc và A-bia-tha làm thầy tế lễ; A-xa-ria, con Na-than quản đốc các tổng trấn vùng; Xa-bút, con Na-than làm thầy tế lễ và cố vấn cho vua; A-hi-sa làm quản lý cung vua; A-đô-ni-ram, con Áp-đa làm quản lý nhân viên.

Sô-lô-môn đặt mười hai tổng trấn cai quản mười hai vùng của Ít-ra-en. Họ có nhiệm vụ thu thực phẩm trong vùng mình cho vua và hoàng gia. Mỗi tổng trấn có nhiệm vụ mang thực phẩm đến cho vua một tháng mỗi năm. Sau đây là tên của mười hai quan tổng trấn đó: Bên-Hu-rơ là tổng trấn vùng núi Ép-ra-im. Bên-Đê-ke là tổng trấn Ma-cát, Sa-a-lim, Bết-Sê-mết, và Ê-lôn Bết-ha-nan. 10 Bên-Hê-sết là tổng trấn A-ru-bốt, Sô-cô, và toàn vùng đất Hê-phe. 11 Bên A-bi-na-đáp là tổng trấn Na-phốt Đô-rơ. Ông lấy Ta-phát, con gái Sô-lô-môn. 12 Ba-a-na con A-hi-lút là tổng trấn Ta-a-nách, Mê-ghi-đô, và toàn vùng Bết-san kế cận Xa-rê-than. Vùng nầy nằm dưới Ghít-rê-ên từ Bết-San cho đến A-bên Mê-hô-la đối ngang Giốc-mê-am. 13 Bên-Ghê-be làm tổng trấn Ra-mốt trong Ghi-lê-át. Ông làm tổng trấn tất cả các thị trấn Giai-rơ trong Ghi-lê-át. Giai-rơ là con Ma-na-xe. Bên-Ghê-be cũng cai quản vùng Ạc-gốp trong Ba-san, tức vùng có sáu mươi thành có vách kiên cố, và cổng cài then đồng. 14 A-hi-na-đáp con Y-đô là tổng trấn Ma-ha-na-im. 15 A-hi-mát làm tổng trấn Nép-ta-li. Ông lấy Ba-sê-mát, con gái Sô-lô-môn. 16 Ba-a-na con Hu-sai làm tổng trấn A-se và A-lốt. 17 Giê-hô-sa-phát con Ba-rua làm tổng trấn Y-xa-ca. 18 Si-mê-i con Ê-la làm tổng trấn Bên-gia-min. 19 Ghê-be con U-ri làm tổng trấn Ghi-lê-át. Ghi-lê-át trước kia thuộc xứ của Si-hôn, vua A-mô-rít, và Óc, vua của Ba-san. Nhưng Ghê-be là tổng trấn duy nhất cai trị vùng nầy.

20 Dân Giu-đa và Ít-ra-en đông như cát bờ biển. Mọi người ăn, uống, vui vẻ.

21 Sô-lô-môn cai trị tất cả các vương quốc từ sông Ơ-phơ-rát cho đến đất Phi-li-tin, tới tận biên giới Ai-cập. Các vương quốc đó nộp triều cống theo như Sô-lô-môn đòi và đều nằm dưới quyền của vua trọn đời mình [b].

22 Mỗi ngày Sô-lô-môn cần rất nhiều thực phẩm: một trăm năm mươi thùng [c] bột mì mịn, ba trăm thùng [d] gạo, 23 mười con bò cái được nuôi bằng lúa tốt, hai mươi con bò cái nuôi trong đồng, một trăm con chiên, ba loại nai, và các loài gà vịt béo tốt.

24 Sô-lô-môn kiểm soát tất cả các xứ nằm về phía Tây sông Ơ-phơ-rát: vùng đất từ Típ-sa cho đến Ga-xa. Tất cả các vương quốc của vua đều có hoà bình bốn bên. 25 Trong đời Sô-lô-môn, xứ Giu-đa và Ít-ra-en, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, đều có hòa bình; ai nấy đều được an vui dưới cây vả và cây nho mình.

26 Sô-lô-môn có bốn ngàn [e] con ngựa để kéo quân xa, và mười hai ngàn ngựa. 27 Mỗi tháng thì mỗi một tổng trấn cung cấp thực phẩm cho vua Sô-lô-môn đủ cho mọi người ăn chung bàn với vua. Các quan tổng trấn phải làm sao để vua có đầy đủ mọi thứ cần dùng. 28 Họ cũng mang đủ lúa mạch và rơm cho các con ngựa kéo quân xa và ngựa làm việc của Sô-lô-môn; mỗi người phải đem ngũ cốc đến đúng nơi.

Sự khôn ngoan của Sô-lô-môn

29 Thượng Đế cho Sô-lô-môn sự khôn ngoan khiến ông thông hiểu nhiều điều. Sự khôn ngoan của vua rất bao la, khó lường được. 30 Sự khôn ngoan của vua trổi hơn bất cứ nhà thông thái nào khác ở Đông Phương [f] hay ở Ai-cập. 31 Vua khôn ngoan hơn bất cứ ai trên đất. Vua cũng khôn hơn Ê-than, người Ết-ra-hít, Hê-man, Canh-côn, và Đạc-đa, ba con trai của Ma-hôn. Vua Sô-lô-môn nổi danh trong tất cả các quốc gia lân cận. 32 Trong đời mình, Sô-lô-môn nói [g] ba ngàn câu châm ngôn và soạn một ngàn lẻ năm bài ca.

33 Vua giảng dạy về nhiều loại thảo mộc, từ cây hương nam của Li-băng cho đến rong rêu mọc trên vách. Vua cũng dạy về các loại thú vật, chim chóc, loài bò sát [h], và loài cá. 34 Dân chúng từ các quốc gia đến để nghe sự khôn ngoan của Sô-lô-môn. Vua các nước phái dân mình đến vì họ nghe tiếng khôn ngoan của Sô-lô-môn.

Footnotes

  1. I Các Vua 3:28 sự khôn ngoan của Thượng Đế Nghĩa là “vô cùng khôn ngoan.”
  2. I Các Vua 4:21 Các vương quốc … trọn đời mình Điều nầy cho thấy các quốc gia ấy phải phục tùng Sô-lô-môn vì sự khôn ngoan của ông.
  3. I Các Vua 4:22 một trăm năm mươi thùng Nguyên văn, “30 co” (khoảng 6.600 lít).
  4. I Các Vua 4:22 ba trăm thùng Nguyên văn, “60 co” (khoảng 13.200 lít).
  5. I Các Vua 4:26 bốn ngàn Con số nầy có trong bản cổ Hi-lạp. Bản tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ ghi “bốn chục ngàn.” Xem II Sử 9:25.
  6. I Các Vua 4:30 Đông Phương Vùng đất nằm giữa sông Ti-gờ-rít và Ơ-phơ-rát, kéo dài đến vịnh Ba-tư.
  7. I Các Vua 4:32 nói Hay “viết.”
  8. I Các Vua 4:33 loài bò sát Nguyên văn, “những thú vật bò sát” gồm có côn trùng, kỳ đà, rắn, hay cá.

Sa-lô-môn Xin Sự Khôn Ngoan

(2 Sử 1:3-12)

Sa-lô-môn kết đồng minh với Pha-ra-ôn vua Ai-cập. Ông cưới con gái của Pha-ra-ôn, rồi đưa nàng về Thành Ða-vít, cho đến khi ông hoàn thành công trình xây cất cung điện cho ông, Ðền Thờ cho Chúa, và tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên dân chúng vẫn còn sát tế trên các tế đàn ở các nơi cao, vì đến bấy giờ ông chưa xây Ðền Thờ cho danh Chúa. Sa-lô-môn kính mến Chúa, bước đi theo những huấn lệnh của Ða-vít cha ông, ngoại trừ ông vẫn còn sát tế và dâng hương trên các tế đàn ở các nơi cao.

Vua đi đến Ghi-bê-ôn để sát tế, vì đó là chỗ thờ phượng trên nơi cao quan trọng nhất. Tại đó Sa-lô-môn dâng trên bàn thờ một ngàn của lễ thiêu. Tại Ghi-bê-ôn, ban đêm Chúa hiện ra cùng Sa-lô-môn trong chiêm bao, Ðức Chúa Trời phán rằng, “Hãy cầu xin Ta bất cứ điều gì ngươi muốn, Ta sẽ ban cho.”

Sa-lô-môn thưa, “Ngài đã lấy lòng nhân từ mà đối xử với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con, vì cha con đã hết lòng bước đi cách trung thành, ngay lành, và chính trực trước mặt Ngài. Ngài lại tiếp tục bày tỏ lòng nhân từ lớn lao ấy đối với cha con mà ban cho cha con một con trai để ngồi trên ngai của cha con cho đến ngày nay. Bây giờ, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, Ngài đã cho tôi tớ Ngài được làm vua kế vị cho Ða-vít cha con, nhưng con chỉ là một đứa trẻ; con không biết phải điều khiển việc nước như thế nào. Tôi tớ Ngài lại ở giữa tuyển dân của Ngài, thật là một dân lớn và rất đông, không thể đếm hết được. Vậy xin Ngài ban cho tôi tớ Ngài một tâm trí thông minh khôn sáng, một khả năng phân biệt chính tà để trị vì dân Ngài, vì ai có thể trị vì một dân lớn như thế nầy của Ngài?”

10 Chúa rất hài lòng vì Sa-lô-môn đã xin điều ấy. 11 Vậy Ðức Chúa Trời phán với ông, “Bởi vì ngươi xin điều nầy, mà không xin cho ngươi được sống lâu hay giàu có, ngươi cũng không xin cho những kẻ thù của ngươi bị tiêu diệt, nhưng lại xin sự thông minh khôn sáng để thi hành công lý, 12 nầy, Ta sẽ ban cho ngươi điều ngươi cầu xin. Nầy, Ta sẽ ban cho ngươi tâm trí khôn ngoan và thông sáng, đến nỗi trước ngươi chưa có ai bằng, và sau ngươi sẽ không ai sánh kịp. 13 Ngoài ra Ta sẽ ban cho ngươi những điều ngươi không cầu xin. Ngươi sẽ được cả giàu có lẫn tôn trọng, đến nỗi trọn đời ngươi không một vua nào có thể sánh với ngươi. 14 Nếu ngươi cứ bước đi trong đường lối Ta, vâng theo các luật lệ và các điều răn Ta, như Ða-vít cha ngươi đã làm, Ta sẽ cho ngươi được trường thọ.”

15 Bấy giờ Sa-lô-môn thức giấc và nhận biết rằng đó là một giấc chiêm bao. Ông trở về Giê-ru-sa-lem, đứng chầu trước Rương Giao Ước của Chúa, và dâng lên Ngài các của lễ thiêu và các của lễ tạ ơn.[a] Sau đó ông mở một yến tiệc thết đãi tất cả quần thần của ông.

Sa-lô-môn Xử Kiện

16 Bấy giờ người ta đem hai cô gái điếm đến đứng trước mặt vua. 17 Một người nói, “Tâu chúa thượng, người đàn bà nầy và tôi sống chung một nhà. Tôi sinh được một con trai trong lúc chị ấy đang ở nhà với tôi. 18 Ngày thứ ba, sau khi tôi sinh con, chị ấy cũng sinh một con trai. Chỉ có hai chúng tôi ở trong nhà, không có người nào khác. 19 Ðang đêm, con trai của chị ấy chết, vì chị ngủ say và đè trên đứa bé. 20 Thế rồi nửa đêm chị ấy thức dậy, đang lúc tôi ngủ say, chị đến bế con trai của tôi đang ở bên cạnh tôi và đem nó đặt vào lòng chị; sau đó chị đem đứa con đã chết của chị để vào lòng tôi. 21 Sáng hôm sau tôi dậy cho con tôi bú, thì kìa, nó đã chết rồi. Nhưng khi trời sáng, tôi nhìn kỹ, tôi biết rằng đó không phải là đứa con tôi đã sinh ra.”

22 Người đàn bà kia nói, “Không! Ðứa sống là con tôi, đứa chết là con chị.”

Nhưng người nọ cứ khẳng định, “Không! Ðứa chết là con chị, đứa sống là con tôi.” Vậy họ cãi nhau trước mặt vua.

23 Vua phán, “Người nầy nói, ‘Con tôi là đứa sống, còn con chị là đứa chết,’ trong khi người kia nói, ‘Không! Con chị là đứa chết, còn con tôi là đứa sống.’”

24 Bấy giờ vua truyền, “Hãy đem cho ta một thanh gươm.” Vậy họ mang đến vua một thanh gươm. 25 Vua ra lịnh, “Hãy chặt đứa bé còn sống đó ra làm hai, cho người nầy một nửa và người kia một nửa.”

26 Người đàn bà mẹ của đứa con còn sống rất xúc động vì thương con, bà tâu với vua, “Tâu chúa thượng, xin đừng. Xin cho chị ấy đứa bé. Xin đừng giết nó!”

Nhưng người kia nói, “Nó sẽ không là con của chị và cũng không là con của tôi. Cứ chặt nó ra làm hai đi.”

27 Bấy giờ vua phán quyết, “Hãy trao đứa bé còn sống cho người thứ nhất. Ðừng giết nó. Người ấy chính là mẹ nó.”

28 Khi cả I-sơ-ra-ên đã nghe về phán quyết của vua, họ kính phục vua, vì họ nhận thấy vua có sự khôn ngoan của Ðức Chúa Trời để thi hành công lý.

Vua Sa-lô-môn trị vì trên toàn cõi I-sơ-ra-ên. Sau đây là quần thần của ông:

A-xa-ri-a con của Xa-đốc làm tư tế.
Ê-li-ô-rếp và A-hi-gia, hai con trai của Si-sa, làm hai bí thư.
Giê-hô-sa-phát con của A-hi-lút làm ngự sử.
Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa chỉ huy quân đội.
Xa-đốc và A-bi-a-tha làm tư tế.
A-xa-ri-a con của Na-than chỉ huy các quan lại.
Xa-bút con của Na-than làm tư tế và cố vấn của vua.
A-hi-sa làm tổng quản hoàng cung.
A-đô-ni-ram con của Áp-đa phụ trách việc lao dịch.

Sa-lô-môn có mười hai quan trưởng trên toàn cõi I-sơ-ra-ên. Họ phụ trách việc cung cấp lương thực cho vua và mọi người trong triều đình. Mỗi người chịu trách nhiệm cung cấp một tháng trong một năm. Ðây là tên của họ:

Bên Hu-rơ phụ trách vùng Cao Nguyên Ép-ra-im.

Bên Ðéc-ke phụ trách vùng Ma-cát, Sa-anh-bim, Bết Sê-mết, và Ê-lôn thuộc Bết Ha-nan.

10 Bên Hê-sết phụ trách vùng A-rúp-bốt. Ông ấy cũng quản nhiệm vùng Sô-cô và toàn xứ Hê-phe.

11 Bên A-bi-na-đáp phụ trách toàn vùng cao nguyên Ðô-rơ. Vợ ông là Công Chúa Ta-phát, ái nữ của Sa-lô-môn.

12 Ba-a-na con của A-hi-lút phụ trách vùng Ta-a-nác, Mê-ghi-đô, cả xứ Bết Sê-an gần Xa-rê-than phía dưới Giê-rê-ên, và vùng từ Bết Sê-an đến A-bên Mê-hô-la chạy dài đến phía bên kia Giốc-mê-am.

13 Bên Ghê-be ở Ra-mốt Ghi-lê-át phụ trách các thị trấn của Giai-rơ con của Ma-na-se trong miền Ghi-lê-át. Ông cũng cai trị vùng Ạc-gốp trong xứ Ba-san, gồm sáu mươi thành có tường bao quanh và cổng thành có những thanh cài làm bằng đồng.

14 A-hi-na-đáp con của I-đô phụ trách vùng Ma-ha-na-im.

15 A-hi-ma-a phụ trách vùng Náp-ta-li. Ông cưới Công Chúa Ba-sê-mát ái nữ của Sa-lô-môn làm vợ.

16 Ba-a-na con của Hu-sai phụ trách vùng A-se và Bê-a-lốt.

17 Giê-hô-sa-phát con của Pa-ru-a phụ trách vùng I-sa-ca.

18 Si-mê-i con của Ê-la phụ trách vùng Bên-gia-min.

19 Ghê-be con của U-ri phụ trách vùng Ghi-lê-át. Ngày trước vùng đó là lãnh thổ của Si-hôn vua dân A-mô-ri và Óc vua Ba-san. Chỉ một mình ông làm quan cai trị cả xứ ấy.

Sự Huy Hoàng của Triều Ðại Sa-lô-môn

20 Dân Giu-đa và dân I-sơ-ra-ên đông như cát nơi bờ biển. Họ ăn, uống, và sống an vui. 21 Sa-lô-môn trị vì trên các vương quốc từ Sông Ơ-phơ-rát[b] đến xứ Phi-li-tin, tận đến biên giới Ai-cập. Người ta phải triều cống và phục vụ Vua Sa-lô-môn trọn đời ông.

22 Mỗi ngày trong hoàng cung của Sa-lô-môn người ta tiêu thụ sáu ngàn sáu trăm lít[c] bột mịn, mười ba ngàn hai trăm lít[d] bột thô, 23 mười con bò mập nuôi trong chuồng, hai mươi con bò nuôi ngoài đồng, một trăm con chiên, không kể nai, hoàng dương, mang rừng, và gà vịt nuôi mập.

24 Sa-lô-môn trị vì trên các nước phía tây Sông Ơ-phơ-rát, từ Típ-sa đến Ga-xa. Tất cả các nước phía tây Sông Ơ-phơ-rát đều ở dưới quyền của ông. Ông giao hảo thân thiện với tất cả các nước chung quanh. 25 Trọn đời Sa-lô-môn trị vì, Giu-đa và I-sơ-ra-ên, từ Ðan cho đến Bê-e Sê-ba, sống an cư lạc nghiệp. Ai nấy đều sống an lành dưới bóng mát của cây nho và cây vả của mình.

26 Sa-lô-môn có bốn mươi ngàn[e] chuồng ngựa để nuôi ngựa kéo các xe chiến mã do mười hai ngàn kỵ binh điều khiển.

27 Các quan trưởng mỗi vùng cứ theo tháng đã định cho họ cung cấp mọi nhu cầu thực phẩm cho Vua Sa-lô-môn và tất cả những ai đến bàn ăn của Vua Sa-lô-môn. Họ không để cho thiếu vật chi. 28 Họ còn đem đến nơi đã chỉ định lúa mạch và rơm cho ngựa chiến và ngựa kéo xe chiến mã theo số đã quy định cho họ.

Sự Khôn Ngoan của Sa-lô-môn

29 Ðức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn khôn ngoan, thông sáng, và một kiến thức uyên bác vô kể như cát nơi bờ biển. 30 Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trỗi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở phương đông, trỗi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở Ai-cập. 31 Sa-lô-môn khôn ngoan hơn mọi người khác, kể cả Ê-than người Ê-xơ-ra-hi. Ông khôn ngoan hơn Hê-man, Canh-côn, và Ðạc-đa, tức các con trai của Ma-hôn. Danh tiếng của ông thật lẫy lừng trong các nước chung quanh. 32 Ông nói ra ba ngàn câu châm ngôn và sáng tác một ngàn lẻ năm bài hát. 33 Ông luận về các thảo mộc, từ cây bá hương ở Li-băng cho đến cây bài hương mọc ở bờ tường. Ông giảng giải về các thú vật và chim chóc, loài bò sát và loài cá. 34 Thiên hạ từ mọi nước kéo đến để nghe những lời khôn ngoan của Sa-lô-môn. Khi các vua trên đất nghe nói về sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, họ phái người đến triều kiến để nghe sự khôn ngoan của ông.

Footnotes

  1. I Các Vua 3:15 cũng còn gọi là ‘của lễ cầu an’
  2. I Các Vua 4:21 nt: Sông
  3. I Các Vua 4:22 nt: 30 cô-rơ
  4. I Các Vua 4:22 nt: 60 cô-rơ
  5. I Các Vua 4:26 2 Sử 9:25 chỉ nói có 4.000 chuồng ngựa

Sô-lô-môn cầu xin được khôn ngoan

Sô-lô-môn, con trai Đa-vít, trở thành một vị vua hùng cường vì CHÚA là Thượng Đế ở cùng ông và khiến ông được uy nghi.

Sô-lô-môn nói cùng toàn dân Ít-ra-en, tức các vị chỉ huy hàng trăm và hàng ngàn người, các quan án, các vị lãnh tụ trong cả Ít-ra-en, và các trưởng gia đình. Rồi Sô-lô-môn cùng toàn dân đi lên nơi thờ phụng tại thị trấn Ghi-bê-ôn. Lều Họp của Thượng Đế mà Mô-se, tôi tớ CHÚA đã làm trong sa mạc, lúc ấy đang ở tại đó. Đa-vít đã rước Rương của Thượng Đế từ Ki-ri-át Giê-a-rim về Giê-ru-sa-lem nơi ông đã chuẩn bị sẵn và dựng lều cho Rương đó. Cái bàn thờ đồng mà Bê-xa-lên, con U-ri, cháu Hu-rơ đã làm hiện ở Ghi-bê-ôn trước Lều Thánh của Chúa. Vì thế Sô-lô-môn cùng dân chúng thờ phụng tại đó. Sô-lô-môn đi lên bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA nơi Lều Họp và dâng một ngàn của lễ thiêu trên đó.

Đêm đó Thượng Đế hiện ra cùng Sô-lô-môn và nói cùng ông rằng, “Hãy xin bất cứ điều gì ngươi muốn ta ban cho ngươi.”

Sô-lô-môn thưa, “Ngài đã rất nhân từ cùng Đa-vít, cha tôi và đã lập tôi làm vua thế cho người. Bây giờ, lạy CHÚA là Thượng Đế, xin hãy thực hiện lời hứa Ngài cùng Đa-vít. Ngài đã lập tôi làm vua của một dân đông như bụi trên đất. 10 Bây giờ xin hãy ban cho tôi khôn ngoan và hiểu biết để tôi hướng dẫn dân nầy theo đường chánh vì không ai có thể cai trị họ nếu không có Ngài giúp đỡ.”

11 Thượng Đế phán cùng Sô-lô-môn, “Ngươi không xin giàu có, sang trọng, vinh dự, mạng sống kẻ thù ngươi hay được sống lâu. Nhưng vì ngươi xin sự khôn ngoan và hiểu biết để dắt dẫn dân ta là dân mà ta đã lập ngươi làm vua, 12 Ta sẽ ban cho ngươi sự khôn ngoan và hiểu biết. Ta cũng sẽ ban cho ngươi giàu có, vinh dự hơn tất cả các vua trước ngươi và sau ngươi.”

13 Rồi Sô-lô-môn rời nơi thờ phụng tức Lều Họp ở Ghi-bê-ôn và trở về Giê-ru-sa-lem. Tại đó ông trị vì trên dân Ít-ra-en.

Sô-lô-môn củng cố quân lực

14 Sô-lô-môn có một ngàn bốn trăm quân xa và mười hai ngàn ngựa. Ông giữ một số ngựa trong các thành phố đặc biệt để kéo quân xa [a], số còn lại ông giữ ở Giê-ru-sa-lem. 15 Ở Giê-ru-sa-lem Sô-lô-môn khiến cho bạc và vàng nhiều như sỏi đá và cây hương nam nhiều như cây vả mọc trong đồng bằng vậy. 16 Ông nhập cảng ngựa từ Ai-cập và Kiêu [b]; các lái buôn của ông mang chúng về từ Kiêu. 17 Họ nhập cảng các quân xa từ Ai-cập với giá mười lăm cân [c] bạc một chiếc, còn ngựa thì khoảng bốn cân [d] bạc một con. Rồi họ bán ngựa và quân xa cho tất cả các vua Hi-tít và A-ram.

Footnotes

  1. II Sử Ký 1:14 thành phố … kéo quân xa Thành phố có những nơi dành riêng để giữ ngựa và quân xa.
  2. II Sử Ký 1:16 Kiêu Hay “Xi-li-xia,” một vùng mà bây giờ thuộc miền Nam Thổ-nhĩ-kỳ.
  3. II Sử Ký 1:17 mười lăm cân Hay “600 sê-ken” (khoảng 7 kí-lô).
  4. II Sử Ký 1:17 bốn cân Hay “150 sê-ken” (khoảng 2 kí-lô).

Sa-lô-môn Xin Sự Khôn Ngoan

Sa-lô-môn con của Ða-vít củng cố vương quyền trong vương quốc của ông. Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, ở với ông; Ngài làm cho ông rất được tôn trọng. Sa-lô-môn triệu tập tất cả những người lãnh đạo trong dân I-sơ-ra-ên, gồm các chỉ huy trưởng hàng ngàn quân, các chỉ huy trưởng hàng trăm quân, các quan tư pháp, các quan hành pháp trong khắp nước I-sơ-ra-ên, và các vị trưởng tộc. Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên đi với ông đến một nơi cao ở Ghi-bê-ôn, vì tại đó có Lều Hội Kiến của Ðức Chúa Trời mà Môi-se đã làm khi còn trong đồng hoang. Nhưng Rương của Ðức Chúa Trời thì Ða-vít đã đem từ Ki-ri-át Giê-a-rim đến chỗ ông đã chuẩn bị cho Rương Thánh, vì ông đã dựng một cái lều đặc biệt cho Rương Thánh tại Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra nơi cao đó còn có bàn thờ bằng đồng mà Bê-xa-lên con của U-ri, cháu của Hu-rơ, đã làm và đặt tại đó, trước sân Lều của Chúa. Ðó là nơi Sa-lô-môn và hội chúng cầu vấn Ngài.

Sa-lô-môn đi lên đó, đến bàn thờ bằng đồng ở trước mặt Chúa, tức bàn thờ bằng đồng trước sân Lều Hội Kiến, và dâng một ngàn của lễ thiêu trên bàn thờ ấy. Ðêm đó Ðức Chúa Trời đã hiện ra với Sa-lô-môn và phán với ông, “Hãy cầu xin điều ngươi muốn Ta làm cho ngươi.”

Sa-lô-môn thưa với Ðức Chúa Trời, “Ngài đã bày tỏ tình thương lớn lao đối với Ða-vít cha con và đã lập con làm vua kế vị cho người. Bây giờ lạy Chúa Ðức Chúa Trời,[a] cầu xin Ngài làm cho lời hứa của Ngài đối với Ða-vít được vững lập, vì Ngài đã lập con làm vua trị vì một dân đông như bụi đất. 10 Bây giờ xin Ngài ban cho con khôn ngoan và tri thức để con lãnh đạo dân nầy,[b] vì ai có đủ khả năng để trị vì dân lớn lao đông đúc nầy của Ngài được?”

11 Bấy giờ Ðức Chúa Trời phán với Sa-lô-môn, “Bởi vì đó là điều trong lòng ngươi; ngươi không xin giàu sang, phú quý, tôn trọng, và mạng sống của kẻ thù; ngươi cũng không xin được cao niên trường thọ, nhưng chỉ xin được khôn ngoan và tri thức để có thể lãnh đạo dân Ta, dân mà Ta đã lập ngươi làm vua. 12 Vì thế ngươi sẽ được ban cho khôn ngoan và tri thức. Ngoài ra Ta sẽ ban cho ngươi giàu sang, phú quý, và tôn trọng, mà không vua nào trước ngươi đã có và không vua nào sau ngươi sẽ được như vậy.”

13 Vậy Sa-lô-môn từ trước Lều Hội Kiến ở nơi cao tại Ghi-bê-ôn trở về Giê-ru-sa-lem và trị vì dân I-sơ-ra-ên.

Quyền Thế của Sa-lô-môn

14 Sa-lô-môn tập trung các xe chiến mã và các kỵ binh lại. Ông có một ngàn bốn trăm xe chiến mã và mười hai ngàn kỵ binh. Ông chia họ ra trú đóng trong các thành và một đơn vị đóng ở Giê-ru-sa-lem, gần bên vua. 15 Vua làm cho bạc và vàng ở Giê-ru-sa-lem ra tầm thường như sỏi đá, và gỗ bá hương nhiều như gỗ sung, một thứ cây mọc ở đồng bằng. 16 Sa-lô-môn mua nhiều ngựa nhập cảng từ Ai-cập và Cư-ê.[c] Các thương gia của triều đình đến tận Cư-ê mua chúng theo thời giá đem về. 17 Họ đặt mua các xe chiến mã tại Ai-cập, mỗi chiếc xe giá sáu trăm miếng[d] bạc; còn một con ngựa giá một trăm năm mươi miếng[e] bạc. Sau đó họ đem ra bán lại cho các vua dân Hi-tít và các vua dân A-ram.

Footnotes

  1. II Sử Ký 1:9 nt: Yahweh Elohim
  2. II Sử Ký 1:10 nt: đi ra và đi vô trước mặt dân nầy
  3. II Sử Ký 1:16 ctd: Ci-li-ci-a
  4. II Sử Ký 1:17 nt: 600 sê-ken, khoảng 7 ký-lô
  5. II Sử Ký 1:17 nt: 150 sê-ken, khoảng 1,7 ký-lô

Lời cầu nguyện cho vua

Bài ca tặng Sô-lô-môn [a].

72 Lạy Chúa, xin ban sự công minh cho vua
    và ban sự nhân từ Ngài
    cho hoàng tử.
Xin giúp vua biết phân xử dân chúng
    một cách công bằng
    và bênh vực kẻ nghèo khó.
Nguyện các núi mang lại hoà bình
    và các đồi mang lại nhân từ.
Xin giúp vua đối xử công bằng cho kẻ nghèo,
    cứu người túng thiếu
    và trừng phạt kẻ hiếp đáp.
Hễ mặt trời còn chiếu sáng và mặt trăng còn soi bóng bao lâu,
    nguyện họ biết kính sợ Chúa bấy lâu.
Nguyện vua như mưa rơi xuống cỏ,
    như mưa rào tưới đất.
Nguyện sự nhân từ được dồi dào
    trong đời vua.
Nguyện sự hoà bình còn mãi như mặt trăng.
Nguyện nước vua trải rộng từ biển nầy đến biển kia,
    và từ sông Ơ-phơ-rát cho đến tận cùng trái đất [b].
Nguyện dân cư sống trong sa mạc cúi đầu trước Ngài
    và các kẻ thù Ngài phải liếm bụi đất.
10 Nguyện các vua Tạt-si và các vùng đất xa xăm
    hãy mang tặng vật đến cho vua.
Các vua Sa-ba và Sê-ba
    hãy mang của lễ đến cho Ngài.
11 Nguyện các vua cúi đầu trước Ngài,
    và các dân tộc phục vụ Ngài.
12 Ngài sẽ giúp kẻ nghèo khổ khi họ kêu cầu
    và cứu kẻ túng thiếu không ai giúp đỡ.
13 Ngài sẽ tỏ lòng nhân ái đối với kẻ yếu đuối nghèo nàn,
    cứu vớt mạng sống họ.
14 Ngài sẽ cứu họ khỏi tay kẻ hung bạo đang tìm cách ức hiếp họ
    vì mạng sống họ là quí trước mặt vua.
15 Vua vạn tuế!
    Cầu cho vua nhận được vàng từ Sê-ba.
Mọi người hãy cầu nguyện cho vua,
    hằng ngày chúc phước cho vua.
16 Nguyện ruộng đất sinh sản đầy ngũ cốc,
    các đồi đầy hoa màu,
    và phì nhiêu như Li-băng,
    các thành trì mọc lên như cỏ trong đồng nội.
17 Nguyện vua được uy danh mãi mãi;
    hễ mặt trời còn chiếu sáng bao lâu,
    nguyện vua được ghi nhớ bấy lâu.
    Nguyện các dân được phước vì vua,
muôn dân chúc phước cho người.

18 Chúc tụng Chúa là Thượng Đế, Thượng Đế của Ít-ra-en
    là Đấng duy nhất làm được các phép lạ đó.
19 Nguyện danh vinh hiển Ngài được ca ngợi mãi mãi.
    Nguyện vinh hiển Ngài đầy dẫy đất.
    A-men! A-men!

20 (Đến đây chấm dứt các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Gie-xê.)

Footnotes

  1. Thánh Thi 72:1 Thi thiên 72 tặng Sô-lô-môn Thi thiên nầy có thể nghĩa là do Sô-lô-môn sáng tác, hoặc được soạn và tặng cho Sô-lô-môn, hoặc có thể là một bài trong những tuyển tập thi thiên ca ngợi.
  2. Thánh Thi 72:8 đến tận cùng trái đất Khi nói như thế nầy thường ám chỉ các quốc gia quanh Địa-trung-hải.

Sự Trị Vì của Vua Công Chính

Thơ của Sa-lô-môn

Ðức Chúa Trời ôi, xin ban cho vua công lý của Ngài,
Và ban cho con của vua lẽ công chính của Ngài.
Ðể người xét đoán dân Ngài theo sự công chính,
Và xét xử kẻ khốn khổ theo lẽ công bình.
Nguyện các núi đem hòa bình đến cho toàn dân,
Và các đồi đem công chính đến cho họ.
Nguyện người giải oan cho kẻ bị khốn khổ trong dân,
Nguyện người cứu con cái của những người nghèo khó,
Và chà nát những kẻ cậy quyền cậy thế bức hại dân lành.

Hễ mặt trời còn bao lâu, nguyện họ kính sợ Ngài bấy lâu,
Và kéo dài mãi như mặt trăng hiện hữu, trải qua bao thế hệ.

Nguyện người ngự đến như mưa rơi trên cỏ,
Như mưa rào rơi xuống tưới mặt đất khắp nơi.
Trong đời người trị vì, nguyện người ngay lành được hưng thịnh,
Và hòa bình được lâu bền cho đến khi mặt trăng không còn nữa.

Nguyện người trị vì từ đại dương này đến đại dương kia,
Từ Sông Lớn[a] đến tận cùng trái đất.
Nguyện các dân du mục trong sa mạc cúi lạy trước mặt người;
Nguyện những kẻ thù của người sẽ phải liếm bụi đất.
10 Nguyện các vua ở Tạt-si và các hải đảo sẽ triều cống người,
Còn các vua ở Sê-ba và Se-ba sẽ đem lễ vật đến cho người.
11 Nguyện các vua sấp mình xuống trước mặt người,
Và các nước phục vụ người.
12 Bởi vì người giải cứu kẻ nghèo khó khi họ kêu cứu,
Người cứu giúp kẻ khốn cùng và kẻ không được ai giúp đỡ.
13 Người cảm thương những kẻ nghèo nàn và cùng khốn,
Người cứu mạng những kẻ nghèo khó để họ được sống.
14 Người giải cứu đời sống họ khỏi cảnh áp bức và bạo tàn;
Trước mặt người máu của họ thật quý báu biết bao.

15 Nguyện người được cao niên trường thọ;
Nguyện người ta đem vàng ở Sê-ba đến dâng cho người;
Nguyện họ cầu nguyện cho người luôn luôn;
Nguyện họ cầu phước cho người suốt ngày.
16 Nguyện lúa gạo dư dật khắp nơi trong nước, thậm chí những người sống trên các đỉnh núi cũng có lúa gạo đầy tràn;
Nguyện hoa quả nhiều như cây cối trên rừng Li-băng;
Nguyện những người sống ở thành thị phát đạt như cỏ lan trong đồng nội.
17 Nguyện người được lưu danh mãi mãi;
Hễ mặt trời tồn tại bao lâu, nguyện danh người còn lại bấy lâu;
Nguyện người ta lấy danh người chúc phước cho nhau;
Nguyện mọi dân ca tụng rằng, “Người ấy thật có phước.”

18 Chúc tụng Chúa Ðức Chúa Trời,[b] Thần[c] của I-sơ-ra-ên,
Ðấng duy nhất làm những việc lạ lùng.
19 Danh vinh hiển của Ngài thật đáng được ca tụng đời đời;
Nguyện khắp đất đầy dẫy vinh quang Ngài.
A-men và A-men.

20 Những lời cầu nguyện của Ða-vít con trai Giê-se kết thúc ở đây.

Footnotes

  1. Thánh Thi 72:8 Sông Ơ-phơ-rát
  2. Thánh Thi 72:18 nt: Yahweh Elohim
  3. Thánh Thi 72:18 ctd: Ðức Chúa Trời, Thượng Ðế, Thiên Chúa