Add parallel Print Page Options

Danh Sách Những Người Hồi Hương

(Nê 7:4-72)

Sau đây là những người đã từ các tỉnh ở nơi lưu đày trở về. Họ là những người đã bị bắt đem đi lưu đày, tức bị Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn bắt đem sang Ba-by-lôn để lưu đày,[a] và được trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. Cùng trở về với Xê-ru-ba-bên có Giê-sua, Nê-hê-mi-a, Sê-ra-gia, Rê-ê-lai-a, Mạc-đô-chê, Bin-san, Mít-pa, Bích-vai, Rê-hum, và Ba-a-nát.

Ðây là số những người hồi hương trong dân I-sơ-ra-ên:

Con cháu của Pa-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người.

Con cháu của Sê-pha-ti-a, ba trăm bảy mươi hai người.

Con cháu của A-ra, bảy trăm bảy mươi lăm người.[b]

Con cháu của Pa-hát Mô-áp, tức con cháu của Giê-sua và Giô-áp, hai ngàn tám trăm mười hai người.[c]

Con cháu của Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

Con cháu của Xát-tu, chín trăm bốn mươi lăm người.[d]

Con cháu của Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người.

10 Con cháu của Ba-ni, sáu trăm bốn mươi hai người.

11 Con cháu của Bê-bai, sáu trăm hai mươi ba người.[e]

12 Con cháu của A-xơ-gát, một ngàn hai trăm hai mươi hai người.[f]

13 Con cháu của A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi sáu người.[g]

14 Con cháu của Bích-vai, hai ngàn năm mươi sáu người.[h]

15 Con cháu của A-đin, bốn trăm năm mươi bốn người.[i]

16 Con cháu của A-te, gia tộc của Hê-xê-ki-a, chín mươi tám người.

17 Con cháu của Bê-xai, ba trăm hai mươi ba người.[j]

18 Con cháu của Giô-ra, một trăm mười hai người.

19 Con cháu của Ha-sum, hai trăm hai mươi ba người.

20 Con cháu của Ghi-ba, chín mươi lăm người.

21 Con cháu của Bết-lê-hem, một trăm hai mươi ba người.

22 Dân Nê-tô-pha, năm mươi sáu người.

23 Dân A-na-thốt, một trăm hai mươi tám người.

24 Con cháu của A-ma-vết, bốn mươi hai người.

25 Con cháu của Ki-ri-át A-rim, Kê-phi-ra, và Bê-e-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người.

26 Con cháu của Ra-ma và Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt người.

27 Dân Mích-mác, một trăm hai mươi hai người.

28 Dân Bê-tên và Ai, hai trăm hai mươi ba người.[k]

29 Con cháu của Nê-bô, năm mươi hai người.

30 Con cháu của Mắc-bích, một trăm năm mươi sáu người.

31 Con cháu của Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

32 Con cháu của Ha-rim, ba trăm hai mươi người.

33 Con cháu của Lô, Ha-đi, và Ô-nô, bảy trăm hai mươi lăm người.[l]

34 Con cháu của Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người.

35 Con cháu của Sê-na-a, ba ngàn sáu trăm ba mươi người.[m]

36 Về các tư tế: con cháu của Giê-đa-gia, gia tộc của Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người.

37 Con cháu của Im-me, một ngàn năm mươi hai người.

38 Con cháu của Pát-khua, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người.

39 Con cháu của Ha-rim, một ngàn mười bảy người.

40 Những người Lê-vi: con cháu của Giê-sua và Cát-mi-ên, gia tộc của Hô-đê-va, bảy mươi bốn người.

41 Những người ca hát thờ phượng: con cháu của A-sáp, một trăm hai mươi tám người.[n]

42 Con cháu của những người canh cửa: con cháu của Sanh-lum, con cháu của A-te, con cháu của Tanh-môn, con cháu của Ạc-cúp, con cháu của Ha-ti-ta, con cháu của Sô-bai, một trăm ba mươi chín người.[o]

43 Những người phục vụ tại Ðền Thờ: con cháu của Xi-ha, con cháu của Ha-su-pha, con cháu của Ta-ba-ốt, 44 con cháu của Kê-rô, con cháu của Si-a-ha,[p] con cháu của Pa-đôn, 45 con cháu của Lê-ba-na, con cháu của Ha-ga-ba, con cháu của Ạc-cúp, 46 con cháu của Ha-gáp, con cháu của Sam-lai, con cháu của Ha-nan, 47 con cháu của Ghít-đên, con cháu của Ga-ha, con cháu của Rê-a-gia, 48 con cháu của Rê-xin, con cháu của Nê-cô-đa, con cháu của Ga-xam, 49 con cháu của U-xa, con cháu của Pa-sê-a, con cháu của Bê-sai, 50 con cháu của Át-na, con cháu của Mê-u-nim, con cháu của Nê-phi-sim, 51 con cháu của Bác-búc, con cháu của Ha-cu-pha, con cháu của Hạc-hưa, 52 con cháu của Ba-xơ-lút, con cháu của Mê-hi-đa, con cháu của Hạc-sa, 53 con cháu của Ba-cốt, con cháu của Si-sê-ra, con cháu của Tê-ma, 54 con cháu của Nê-xi-a, con cháu của Ha-ti-pha.

55 Con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn: con cháu của Sô-tai, con cháu của Hạc-sô-phê-rết, con cháu của Pê-ru-đa,[q] 56 con cháu của Gia-a-la, con cháu của Ðạc-côn, con cháu của Ghít-đên, 57 con cháu của Sê-pha-ti-a, con cháu của Hát-tin, con cháu của Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-mi.[r]

58 Tất cả những người phục vụ ở Ðền Thờ và con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người.

59 Có những người từ Tên Mê-la, Tên Hạc-sa, Kê-rúp, Át-đôn, và Im-me cùng đi lên, nhưng vì họ không thể chứng minh được tổ tiên của họ hoặc liên hệ huyết thống trong gia tộc của họ, nên người ta không thể xác định họ có phải là người I-sơ-ra-ên chính thống hay không.

60 Con cháu của Ðê-la-gia, con cháu của Tô-bi-a, con cháu của Nê-cô-đa, sáu trăm năm mươi hai người.[s]

61 Con cháu của các tư tế: con cháu của Hô-ba-gia, con cháu của Hắc-cô, con cháu của Ba-xi-lai. (Ông nầy là người đã cưới một trong các con gái của Ba-xi-lai người Ghi-lê-át làm vợ, và ông đã đổi họ để theo họ vợ.) 62 Những người ấy đã truy lục gia phả của họ, nhưng họ không tìm thấy gia tộc của họ được liệt kê trong đó, nên họ bị loại ra khỏi hàng tư tế và bị xem là không được tinh ròng để thi hành chức vụ thánh. 63 Do đó quan tổng trấn truyền cho họ không được ăn các món ăn cực thánh cho đến khi được một tư tế đứng ra dùng u-rim và thu-mim để xác quyết.

64 Tổng cộng cả hội chúng được bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 65 không kể bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy tôi trai và tớ gái. Trong vòng họ cũng có hai trăm người,[t] cả nam lẫn nữ, là thành viên của ca đoàn thờ phượng.

66 Họ có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 67 bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.

68 Khi về đến Ðền Thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem, một số vị trưởng gia tộc đã tự động quyên góp một số tiền và lập quỹ tái thiết Ðền Thờ Ðức Chúa Trời ở vị trí cũ. 69 Tùy theo khả năng của mỗi người, họ đã dâng vào quỹ tái thiết sáu mươi mốt ngàn miếng[u] vàng, năm ngàn thỏi[v] bạc, và một trăm bộ lễ phục cho các tư tế.

70 Vậy các tư tế, những người Lê-vi, những người ca hát, những người canh cửa, và những người phục vụ ở Ðền Thờ đều định cư trong các thị trấn của họ quanh thủ đô, còn tất cả những người I-sơ-ra-ên còn lại đều trở về định cư trong các thành của họ khắp nơi trong xứ.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 2:1 Khoảng 605 T.C.
  2. Ê-xơ-ra 2:5 Nêh 7:10 ghi 652 người
  3. Ê-xơ-ra 2:6 Nêh 7:11 ghi 2818 người
  4. Ê-xơ-ra 2:8 Nêh 7:13 ghi 845 người
  5. Ê-xơ-ra 2:11 Nêh 7:16 ghi 628 người
  6. Ê-xơ-ra 2:12 Nêh 7:17 ghi 2322 người
  7. Ê-xơ-ra 2:13 Nêh 7:18 ghi 667 người
  8. Ê-xơ-ra 2:14 Nêh 7:19 ghi 2067 người
  9. Ê-xơ-ra 2:15 Nêh 7:20 ghi 655 người
  10. Ê-xơ-ra 2:17 Nêh 7:23 ghi 324 người
  11. Ê-xơ-ra 2:28 Nêh 7:32 ghi 123 người
  12. Ê-xơ-ra 2:33 Nêh 7:37 ghi 721 người
  13. Ê-xơ-ra 2:35 Nêh 7:38 ghi 3930 người
  14. Ê-xơ-ra 2:41 Nêh 7:44 ghi 148 người
  15. Ê-xơ-ra 2:42 Nêh 7:45 ghi 138 người
  16. Ê-xơ-ra 2:44 Nêh 7:47 ghi Si-a
  17. Ê-xơ-ra 2:55 Nêh 7:57 ghi Pê-ri-đa
  18. Ê-xơ-ra 2:57 Nêh 7:59 ghi A-môn
  19. Ê-xơ-ra 2:60 Nêh 7:62 ghi 642 người
  20. Ê-xơ-ra 2:65 Nêh 7:67 ghi 245 người
  21. Ê-xơ-ra 2:69 nt: đạc-kê-môn, đơn vị tiền tệ thời xưa
  22. Ê-xơ-ra 2:69 nt: ma-nê, đơn vị tiền tệ thời xưa

Danh Sách Người Hồi Hương

Đây là những người trong tỉnh Giu-đa đã trở về từ giữa vòng những người phu tù bị lưu đày mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã đày qua Ba-by-lôn. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai nấy về thành mình. Họ trở về cùng với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, Sê-ra-gia, Rê-ê-la-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Biệt-vai, Rê-hum, và Ba-a-na.

Đây là số những người nam trong Y-sơ-ra-ên.

Con cháu Pha-rốt: 2,172

con cháu Sê-pha-tia: 372

con cháu A-ra: 775

con cháu Pha-hát Mô-áp, nghĩa là con cháu của Giê-sua và Giô-áp: 2,812

con cháu Ê-lam: 1,254

con cháu Xát-tu: 945

con cháu Xác-cai: 760

10 con cháu Ba-ni: 642

11 con cháu Bê-bai: 623

12 con cháu A-gát: 1,222

13 con cháu A-đô-ni-cam: 666

14 con cháu Biết-vai: 2,056

15 con cháu A-đin: 454

16 con cháu A-te, nghĩa là con cháu Ê-xê-chia: 98

17 con cháu Bết-sai: 323

18 con cháu Giô-ra: 112

19 con cháu Ha-sum: 223

20 con cháu Ghi-ba: 95

21 người Bết-lê-hem: 123

22 người Nê-tô-pha: 56

23 người A-na-tốt: 128

24 người Ách-ma-vết: 42

25 người Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt: 743

26 người Ra-ma và Ghê-ba: 621

27 người Mích-ma: 122

28 người Bê-tên và A-hi: 223

29 người Nê-bô: 52

30 người Mác-bích: 156

31 con cháu Ê-lam khác: 1,254

32 con cháu Ha-rim: 320

33 người Lô-đơ, Ha-đi và Ô-nô: 725

34 người Giê-ri-cô: 345

35 người Sê-na: 3,630

36 Thầy tế lễ

con cháu Giê-đa-gia, thuộc gia tộc Giê-sua: 973

37 con cháu Y-mê: 1,052

38 con cháu Phát-hua: 1,247

39 con cháu Ha-rim: 1,017

40 Người Lê-vi:

con cháu Giê-sua và Cát-mi-ên,

nghĩa là con cháu Hô-đa-via: 74

41 Ca nhạc sĩ:[a]

con cháu A-sáp: 128

42 Người gác cổng:

con cháu

Sa-lum, A-te, Tanh-môn,

A-cúp, Ha-ti-ta, Sô-bai: 139

43 Người phục dịch đền thờ:

con cháu

Xi-ha, Ha-su-pha, Ta-ba-ốt,

44 Kê-rốt, Sia-ha, Pha-đôn,

45 Lê-ba-na, Ha-ga-ba, A-cúp,

46 Ha-gáp, Sâm-lai, Ha-nan,

47 Ghi-đên, Ga-ha-rơ, Rê-a-gia,

48 Rê-xin, Nê-cô-đa, Ga-xam,

49 U-xa, Pha-sê-a, Bê-sai,

50 A-sê-na, Mê-u-nim, Nê-phu-sim,

51 Bác-búc, Ha-khu-pha, Hát-hưa,

52 Bá-lút, Mê-hi-đa, Hát-sa,

53 Bát-cốt, Si-sê-ra, Tha-mác,

54 Nê-xia, Ha-ti-pha.

55 Con cháu những người nô lệ từ đời Sa-lô-môn:[b]

Con cháu

Sô-tai, Hạt-sô-phê-rết, Phê-ru-đa,

56 Gia-a-la, Đạt-côn, Ghi-đên,

57 Sê-pha-tia, Hát-tinh,

Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, A-mi.

58 Tổng cộng những người phục dịch đền thờ và con cháu những người nô lệ từ đời Sa-lô-môn: 392

59 Những người sau đây trở về từ Tên Mê-la, Tên Hát-sa, Kê-rúp, A-đan, và Y-mê, nhưng họ không thể chứng minh qua gia tộc hoặc dòng dõi rằng họ thuộc về dân sự Y-sơ-ra-ên;

60 con cháu Đê-la-gia, Tô-bi-gia, Nê-cô-đa: 652

61 Về phía những thầy tế lễ:

Con cháu

Hô-bai-gia, Ha-cốt, Bát-xi-lai (ông này cưới một trong những cô con gái của Bát-xi-lai, người Ga-la-át, nên người ta gọi ông theo tên cha vợ).

62 Những người này tìm tên họ trong danh sách những người đăng ký theo gia phả, nhưng không tìm được, nên bị kể là ô uế và truất khỏi chức tế lễ. 63 Quan tổng đốc cấm họ dùng thức ăn chí thánh cho đến khi nào có thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim cầu hỏi Đức Chúa Trời.[c]

64 Toàn thể hội chúng tổng cộng là 42,360 người. 65 Ngoài ra, có 7,337 nam nữ gia nhân và 200 nam nữ ca sĩ,[d] 66 736 con ngựa, 245 con la, 67 435 con lạc đà, và 6,720 con lừa.

68 Khi về đến đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem, một số các trưởng tộc tự nguyện dâng hiến tài vật vào đền Đức Chúa Trời để dựng lại đền thờ trên nền cũ. 69 Tùy theo khả năng, họ dâng vào quỹ xây cất sáu mươi mốt ngàn đa-riếc[e] vàng, năm ngàn mi-na[f] bạc, và 100 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ.

70 Các thầy tế lễ, người Lê-vi, và một số thường dân định cư tại Giê-ru-sa-lem,[g] còn những ca nhạc sĩ, những người gác cổng, và những người phục dịch đền thờ định cư trong thành mình. Vậy toàn thể dân Y-sơ-ra-ên định cư trong thành mình.

Footnotes

  1. 2:41 MT bao gồm cả hai công tác soạn và ca nhạc thánh
  2. 2:55 Có thể đây là những tù binh chiến tranh từ các nước láng giềng bị vua Sa-lô-môn bắt làm xâu
  3. 2:63 Nt: thầy tế lễ đeo U-rim và Thu-mim
  4. 2:65 Đây là những người ca hát giúp vui cho dân sự. Không có người nữ trong ca đoàn hát nhạc thánh tôn vinh Chúa trong đền thờ
  5. 2:69 Khoảng 500kg. Đơn vị tiền bằng vàng dưới thời đế quốc Ba-tư, nặng 8.42g
  6. 2:69 Khoảng 3 tấn. Một mi-na tương đương với 571.20g
  7. 2:70 LXX: Tại Giê-ru-sa-lem và vùng phụ cận