Add parallel Print Page Options

Đa-vít được cử làm vua trên Ít-ra-en

Rồi tất cả các chi tộc trong Ít-ra-en đến nói cùng Đa-vít tại Hếp-rôn rằng, “Nầy, chúng tôi cùng trong gia tộc [a] với ông. Khi Sau-lơ còn làm vua, ông đã là người hướng dẫn Ít-ra-en trong chiến trận. CHÚA phán cùng ông, ‘Ngươi sẽ làm người chăn dắt dân Ít-ra-en ta. Ngươi sẽ lãnh đạo họ.’”

Vậy tất cả các bô lão Ít-ra-en đến gặp vua Đa-vít tại Hếp-rôn và ông lập ước với họ tại đó truớc mặt CHÚA. Rồi họ đổ dầu trên Đa-vít để cử ông làm vua trên Ít-ra-en.

Đa-vít được ba mươi tuổi khi lên ngôi vua và trị vì bốn mươi năm. Ông cai trị trên Giu-đa bảy năm sáu tháng ở Hếp-rôn, và làm vua trên cả Ít-ra-en lẫn Giu-đa ba mươi ba năm ở Giê-ru-sa-lem.

Khi vua Đa-vít và những người theo ông đi đến Giê-ru-sa-lem để đánh dân Giê-bu-sít ở đó thì người Giê-bu-sít bảo Đa-vít, “Ngươi không thể xâm nhập vào thành chúng ta [b] được đâu vì bọn mù hay què cũng đủ ngăn chận ngươi rồi.” Chúng đoán rằng Đa-vít không thể xông vào thành chúng được. Nhưng Đa-vít chiếm được thành kiên cố gọi là Xi-ôn, và biến nó ra thành Đa-vít.

Hôm ấy Đa-vít bảo những người đi theo, “Các ngươi phải đi qua đường hầm dẫn nước [c] đến chỗ bọn kẻ thù ‘què’ và ‘mù’ Giê-bu-sít ấy. Các ngươi phải giết chúng vì Đa-vít ghét chúng. Vì thế mà người ta có câu, ‘Kẻ mù và què không được vào cung điện [d].’”

Vậy Đa-vít ở trong thành có vách vững bền, kiên cố và gọi nó là thành Đa-vít. Đa-vít xây thêm nhiều toà nhà quanh đó, bắt đầu từ chỗ Mi-lô [e] và hướng vào trong [f]. Ông cũng xây nhiều toà nhà nữa bên trong thành. 10 Ông trở nên càng ngày càng hùng mạnh vì CHÚA là Thượng Đế Toàn Năng ở với ông.

11 Hi-ram, vua thành Tia sai sứ đến cùng Đa-vít và gởi theo các cây hương nam, thợ mộc, và thợ đẽo đá. Họ xây một cung điện cho Đa-vít. 12 Đa-vít liền hiểu ra rằng CHÚA đã thực sự đặt ông làm vua trên Ít-ra-en và rằng CHÚA đã làm cho vương quốc ông hùng mạnh vì CHÚA yêu dân Ít-ra-en của Ngài.

13 Sau khi từ Hếp-rôn đến, Đa-vít lấy thêm các vợ và thê thiếp ở Giê-ru-sa-lem. Đa-vít sinh thêm nhiều con trai và con gái. 14 Đây là tên của những con trai sinh cho Đa-vít tại Giê-ru-sa-lem: Sam-mua, Sô-báp, Na-than, Sô-lô-môn, 15 Íp-ha, Ê-li-sua, Nê-phéc, Gia-phia, 16 Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa, và Ê-li-phê-lết.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:1 cùng trong gia tộc Nguyên văn, “cùng chung máu mủ.”
  2. II Sa-mu-ên 5:6 Ngươi không thể … thành chúng ta Thành Giê-ru-se-lem được xây trên một ngọn đồi có vách cao bao quanh cho nên rất khó chiếm.
  3. II Sa-mu-ên 5:8 Các ngươi … dẫn nước Hay “Ai muốn tấn công dân Giê-bu-sít phải đi qua đường hầm.” Đây có thể là hầm dẫn nước hay là đường hầm dẫn đến thành phố qua Suối Ghi-hôn nằm bên ngoài vách thành.
  4. II Sa-mu-ên 5:8 cung điện Hay “đền thờ.”
  5. II Sa-mu-ên 5:9 Mi-lô Các bực đất có tường chống đỡ, có lẽ nằm về phía Tây Nam thành phố.
  6. II Sa-mu-ên 5:9 hướng vào trong Hay “hướng về đền thờ.”

11 Rồi Sa-mu-ên hỏi Gie-xê, “Ông chỉ có bấy nhiêu con trai đây thôi sao?”

Gie-xê đáp, “Tôi còn đứa út nữa nhưng nó đang chăn chiên.”

Sa-mu-ên bảo, “Hãy cho gọi nó đến. Chúng ta sẽ không ăn cho đến khi nó đến.”

12 Vậy Gie-xê cho gọi con trai út vào. Anh ta tốt tướng, khỏe mạnh [a] và đẹp trai.

CHÚA bảo Sa-mu-ên, “Hãy bổ nhiệm nó vì nó là người ta chọn.”

13 Sa-mu-ên liền lấy chai đựng dầu ô liu và đổ trên đầu con trai út của Gie-xê trước mặt các người anh. Từ hôm đó trở đi Thần Linh của CHÚA hành động trên Đa-vít. Còn Sa-mu-ên lên đường trở về Ra-ma.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Sa-mu-ên 16:12 khỏe mạnh Bản Hê-bơ-rơ ghi “hồng hào,” hay “tóc hung hung đỏ.”

Đa-vít chiến thắng quân Phi-li-tin

17 Khi quân Phi-li-tin nghe Đa-vít đã được bổ nhiệm làm vua trên Ít-ra-en thì tất cả quân Phi-li-tin đi lùng kiếm ông. Khi Đa-vít nghe tin ấy thì liền rút vào mật khu. 18 Quân Phi-li-tin đến đóng trại trong thung lũng Rê-phi-đim.

19 Đa-vít cầu hỏi CHÚA, “Tôi có nên tấn công quân Phi-li-tin không? Ngài có trao chúng vào tay tôi không?”

CHÚA bảo Đa-vít, “Hãy đi tấn công chúng! Ta sẽ trao chúng vào tay ngươi.”

20 Vậy Đa-vít đi đến Ba-anh Phê-ra-xim và đánh bại quân Phi-li-tin ở đó. Đa-vít nói, “CHÚA đã phá vỡ hàng rào địch quân trước mặt tôi như thác lũ.” Đa-vít gọi chỗ đó là Ba-anh Phê-ra-xim. [a] 21 Quân Phi-li-tin bỏ lại các thần tượng của chúng tại Ba-anh Phê-ra-xim, cho nên Đa-vít và những người theo ông lấy mang đi.

22 Một lần nữa người Phi-li-tin đến đóng quân tại thung lũng Rê-phi-đim.

23 Khi Đa-vít cầu hỏi CHÚA thì Ngài đáp, “Đừng tấn công chúng ngay trước mặt nhưng hãy đi vòng và tấn công chúng gần cây dương. 24 Khi ngươi nghe tiếng bước chân xào xạc trên cây dương thì hãy ra tay. Ta sẽ đi trước ngươi để đánh bại đạo quân Phi-li-tin.”

25 Đa-vít làm y như CHÚA truyền dặn. Ông đánh bại quân Phi-li-tin và rượt đuổi theo chúng từ Ghê-be cho đến Ghê-xe.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 5:20 Ba-anh Phê-ra-xim Nghĩa là “Chúa phá xuyên qua.”

Ca ngợi Thượng Đế, Đấng giải cứu dân tộc

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca ngợi của Đa-vít.

68 Nguyện Chúa đứng lên phân tán các kẻ thù Ngài;
    nguyện những kẻ ghét Ngài trốn chạy trước mặt Ngài.
Xin hãy thổi bay chúng nó
    như khói bị gió thổi tạt.
Như sáp tan chảy trước lửa ra sao
    nguyện kẻ ác cũng bị tan biến trước Thượng Đế như thế.
Nhưng những ai làm điều công chính sẽ vui mừng,
    và hớn hở trước mặt Thượng Đế;
    họ sẽ mừng rỡ.
Hãy hát cho Thượng Đế; ca ngợi danh Ngài.
Hãy ca tụng Đấng cỡi trên mây gió,
    danh Ngài là CHÚA [a].
Hãy reo vui trước mặt Ngài.
Thượng Đế ngự trong đền thánh Ngài.
    Ngài là cha của kẻ mồ côi,
Đấng bênh vực kẻ góa bụa.
Thượng Đế chuẩn bị nơi ở cho kẻ cô đơn không nhà.
Ngài giải phóng tù nhân trong tiếng reo mừng,
    còn những kẻ chống nghịch Ngài sẽ phải sống trong đất khô cằn.

Lạy Thượng Đế, Ngài dẫn dắt dân Ngài ra khỏi Ai-cập,
    khi Ngài đi qua sa mạc. Xê-la
Đất rung chuyển, các từng trời
    đổ mưa xuống
    khi Thượng Đế của Ít-ra-en ngự đến núi Si-nai,
Lạy Thượng Đế Ngài sai mưa nhuần tưới;
    Ngài phục hồi lại đất khô cằn.
10 Dân Ngài định cư tại đó.
    Lạy Thượng Đế, Ngài chăm sóc kẻ nghèo khổ do lòng nhân từ Ngài.
11 Chúa truyền lệnh,
    thì vô số người loan tin:
12 “Các vua và đạo binh họ bỏ chạy.
    Trong trại quân họ chia nhau của cướp được nơi chiến trận.
13 Những kẻ ngồi quanh lửa trại
    sẽ phân chia những của cướp nơi chiến trận.”
14 Đấng Toàn Năng phân tán các vua
    như tuyết trên núi Sanh-môn.

15 Núi Ba-san cao vút;
    núi Ba-san có nhiều chóp.
16 Tại sao núi có nhiều chóp ganh tị
    nhìn ngọn núi Thượng Đế
    đã chọn làm nơi ở Ngài?
Chúa sẽ ngự ở đó đời đời.
17 Thượng Đế đến cùng với hàng ngàn quân xa;
    từ núi Si-nai Chúa đi đến nơi thánh Ngài.
18 Khi Ngài lên núi cao,
    dắt theo một đoàn tù nhân.
Ngài nhận lễ vật của loài người [b],
    ngay cả lễ vật của kẻ chống nghịch,
    không muốn Ngài là Thượng Đế ở đó.
19 Hãy ca ngợi Chúa, Thượng Đế của chúng ta,
    Đấng cứu giúp chúng ta mỗi ngày. Xê-la

20 Thượng Đế chúng ta là Thượng Đế giải cứu;
    Ngài cứu chúng ta khỏi chết.
21 Thượng Đế sẽ đập đầu kẻ thù Ngài,
    là đầu tóc của những kẻ hay phạm tội.
22 Chúa phán, “Ta sẽ dắt kẻ thù ta về từ Ba-san;
    Ta sẽ mang chúng về từ đáy biển sâu.
23 Lúc đó các ngươi sẽ dẫm trong huyết chúng,
    cho đến mấy con chó các ngươi cũng liếm láp được phần của chúng nó.”

24 Lạy Thượng Đế, người ta đã thấy Ngài bước đi trong chiến thắng;
    Lạy Thượng Đế tôi, vua chúng ta đi vào nơi thánh Ngài [c].
25 Các ca sĩ đi trước, nhạc khí trỗi lên sau;
    còn các thiếu nữ đánh trống cơm đi ở giữa.
26 Hãy ca ngợi Thượng Đế ở nơi nhóm họp [d];
    hãy ca tụng Ngài giữa hội chúng Ít-ra-en.
27 Bên-gia-min, một chi tộc nhỏ nhất hướng dẫn họ.
Trong số có các trưởng tộc Giu-đa
    cùng các trưởng tộc Xê-bu-lôn và Nép-ta-li.

28 Lạy Thượng Đế, xin tỏ ra sức mạnh Ngài;
    xin tỏ ra quyền năng Ngài đã thi thố cho chúng tôi trước đây.
29 Các vua sẽ đem của cải đến cho Ngài,
    đến đền thờ Ngài tại Giê-ru-sa-lem.
30 Xin hãy trừng phạt dân Ai-cập.
    Chúng như con thú sống trong đầm lầy,
    như bò đực ở giữa các bò con.
    Xin hãy sỉ nhục chúng,
Hãy để chúng bò đến cùng Ngài,
    mang theo của lễ bằng bạc.
31 Các sứ giả của Ai-cập mang của lễ đến;
    Ê-thi-ô-bi cũng dâng đồ triều cống cho Ngài.
32 Hỡi các vua trên đất, hãy hát khen Chúa;
    hãy ca tụng Ngài. Xê-la

33 Hãy hát ca tụng Đấng cỡi trên các từng trời thái cổ.
    Tiếng Ngài rền như sấm.
34 Hãy cho mọi người biết Thượng Đế vô cùng quyền năng.
Ngài cai trị trên Ít-ra-en,
    quyền năng Ngài ở trong các từng trời.
35 Lạy Thượng Đế, Ngài thật diệu kỳ trong đền thờ Ngài.
Thượng Đế của Ít-ra-en ban cho dân Ngài sức lực và quyền năng.
    Hãy ca tụng Ngài!

Footnotes

  1. Thánh Thi 68:4 CHÚA Nguyên văn, “YAH” nghĩa là Thượng Đế trong tiếng Hê-bơ-rơ, có khi dịch là CHÚA.
  2. Thánh Thi 68:18 Ngài nhận lễ vật của loài người Hay “nhận loài người làm lễ vật” hoặc “ban lễ vật cho loài người,” theo bản cổ Xy-ri và A-ram. Xem Êph 4:8.
  3. Thánh Thi 68:24 vua chúng ta … thánh Ngài Hay “Thượng Đế thánh và vua dẫn chúng ta.”
  4. Thánh Thi 68:26 nơi nhóm họp Hay “giữa tiếng kèn báo tin nhóm họp!”

Rước Rương Giao Ước về Giê-ru-sa-lem

Đa-vít một lần nữa tập họp những binh sĩ chọn lọc trong Ít-ra-en khoảng ba mươi ngàn người. Rồi ông và toàn thể dân chúng đi đến Ba-a-la trong Giu-đa [a] rước Rương Giao Ước của Thượng Đế về. Rương được gọi theo tên đó, tức danh CHÚA Toàn Năng, ngôi Ngài ở bên trên hai sinh vật bằng vàng có cánh. Họ đặt Rương trên một cái xe đẩy mới và mang ra khỏi nhà A-bi-na đáp trên đồi. U-xa và A-hi-ô, hai con trai A-bi-na-đáp hướng dẫn chiếc xe trên đó có Rương của Thượng Đế. A-hi-ô đi trước rương. Đa-vít và toàn dân Ít-ra-en reo mừng trước mặt CHÚA. Họ trỗi các loại đờn bằng gỗ: đờn tranh, đờn cầm, trống cơm, chập chỏa. Khi những người của Đa-vít đến sân đập lúa của Na-côn thì các con bò bị vấp chân ngã. U-xa liền giơ tay ra đỡ Rương của Thượng Đế. CHÚA nổi giận và giết U-xa ngay tại chỗ. U-xa chết bên cạnh Rương của Thượng Đế. Đa-vít tức giận vì CHÚA giết U-xa. Ngày nay chỗ đó gọi là Phê-rê U-xa [b].

Hôm ấy Đa-vít sợ CHÚA nên ông bảo, “Làm sao Rương của CHÚA vào nơi ta được?” 10 Nên Đa-vít không rước Rương của CHÚA vào thành Đa-vít mà đưa Rương đến nhà Ô-bết Ê-đôm, người miền Gát. 11 Rương của CHÚA ở trong nhà Ô-bết Ê-đôm ba tháng. CHÚA ban phước cho Ô-bết Ê-đôm [c], người miền Gát và gia đình ông.

Read full chapter

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 6:2 Ba-a-la trong Giu-đa Một tên khác của Ki-ri-át Giê-a-rim. Xem I Sử 13:6.
  2. II Sa-mu-ên 6:8 Phê-rê U-xa Nghĩa là “Sự trừng phạt U-xa.”
  3. II Sa-mu-ên 6:11 Ô-bết Ê-đôm Một người thuộc chi tộc Lê-vi sống gần Giê-ru-sa-lem.

Mang Rương Giao Ước trở về

13 Đa-vít nói chuyện với các sĩ quan trong quân lực mình, các viên chỉ huy một trăm và một ngàn quân. Rồi Đa-vít gọi cả dân Ít-ra-en lại bảo rằng, “Nếu các ngươi cho rằng đây là ý hay và rằng đây là điều CHÚA và Thượng Đế chúng ta muốn thì hãy thông báo. Hãy mời mọi người trong toàn cõi Ít-ra-en cùng các thầy tế lễ và người Lê-vi sống trong các thị trấn và đồng cỏ đến nhập với chúng ta. Hãy mang Rương của Thượng Đế về với chúng ta. Khi Sau-lơ còn làm vua, chúng ta không dùng Rương để cầu hỏi Thượng Đế.” Toàn thể dân chúng đều đồng ý với Đa-vít vì mọi người cho rằng đó là việc nên làm.

Vậy Đa-vít triệu tập toàn dân Ít-ra-en lại từ sông Si-ho ở Ai-cập cho đến Lê-bo Ha-mát để rước Rương của Thượng Đế về từ thị trấn Ki-ri-át Giê-a-rim. Đa-vít cùng toàn dân Ít-ra-en đi đến Ba-a-la thuộc Giu-đa, gọi là Ki-ri-át Giê-a-rim để mang Rương Giao Ước của Thượng Đế về. Ngôi của Ngài nằm giữa hai con thú có cánh bằng vàng trên nắp Rương, và Rương được gọi bằng danh Ngài.

Dân chúng mang Rương của Thượng Đế từ nhà A-bi-na-đáp để trên một cái xe kéo mới có U-xa và A-hi-ô hướng dẫn.

Đa-vít cùng toàn dân Ít-ra-en hân hoan reo mừng trước mặt Thượng Đế. Họ hăng say ca hát, khảy đờn sắt, đờn cầm, đánh trống cơm, chập chỏa và thổi kèn.

Khi những người của Đa-vít đến sân đập lúa của Ki-đôn thì mấy con bò kéo xe bị vấp nên U-xa giơ tay ra đỡ Rương. 10 CHÚA nổi giận cùng U-xa và giết ông vì dám đụng đến Rương. U-xa chết tại chỗ trước mặt Thượng Đế. 11 Đa-vít bất bình vì CHÚA nổi giận trừng phạt U-xa. Hiện nay chỗ đó gọi là Phê-rê U-xa [a].

12 Ngày đó Đa-vít sợ Thượng Đế nên hỏi, “Làm sao tôi mang Rương của Thượng Đế về cùng tôi được?” 13 Nên Đa-vít không mang Rương về với mình ở Giê-ru-sa-lem, mà cho mang về nhà Ô-bết Ê-đôm, người miền Gát. 14 Rương của Thượng Đế ở nhà Ô-bết Ê-đôm trong ba tháng. CHÚA ban phước cho gia đình Ô-bết Ê-đôm và mọi vật thuộc về ông.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Sử Ký 13:11 Phê-rê U-xa Hay là “Nơi Trừng Phạt U-xa.”

Rương Giao Ước

10 Dùng gỗ cây keo đóng một Rương dài một trăm hai mươi lăm phân, rộng bảy mươi lăm phân, và cao bảy mươi bảy lăm phân. 11 Lấy vàng ròng bọc bên trong lẫn bên ngoài Rương, rồi đóng một đường viền vàng quanh Rương. 12 Làm bốn khoen vàng cho Rương và gắn nơi bốn chân, mỗi bên hai khoen. 13 Làm các cây đòn bằng gỗ cây keo và bọc vàng các cây đòn đó. 14 Xỏ các cây đòn qua các khoen hai bên Rương và dùng đòn đó để khiêng Rương. 15 Các cây đòn đó phải luôn luôn xỏ vào các khoen trong Rương, không được rút ra.

16 Xong đặt Giao Ước ta sẽ lập với các con vào trong Rương. 17 Rồi làm một cái nắp bằng vàng ròng cho Rương; đó là ngôi nhân ái. Nắp dài một trăm hai mươi lăm phân, rộng bảy mươi lăm phân. 18 Tạc bằng vàng hai con vật có cánh, đặt mỗi con một đầu Rương. 19 Gắn một con vật vào đầu nắp và liền với cuối nắp Rương. 20 Các cánh của hai con vật phải giương lên trên, che nắp Rương, và hai con vật phải đối diện nhau trên nắp.

21 Gắn nắp đó lên trên Rương, và đặt vào trong Rương Giao Ước mà ta sẽ lập với các con. 22 Ta sẽ gặp các con tại đó, phía trên nắp giữa hai con vật có cánh trên Rương Giao Ước. Tại đó ta sẽ cho con mọi huấn lệnh cho dân Ít-ra-en.”

Read full chapter

Khi dân Ít-ra-en sắp di chuyển thì A-rôn và các con trai người phải đi vào Lều Thánh, tháo gỡ bức màn rồi dùng màn đó bọc Rương Giao Ước. Lấy một miếng phủ làm bằng da tốt bọc lại, trải tấm vải xanh lên, rồi xỏ các đòn khiêng vào.

Read full chapter

15 Khi dân Ít-ra-en sẵn sàng lên đường và sau khi A-rôn cùng các con trai người đã đậy khu vực thánh và các vật thánh rồi, thì con cháu Cô-hát vào khiêng đi. Như thế họ sẽ không đụng đến các vật thánh và khỏi chết. Nhiệm vụ của con cháu Cô-hát là khiêng các vật dụng trong Lều Họp.

Read full chapter

12 Dân chúng bảo Đa-vít, “CHÚA đã ban phước cho gia đình Ô-bết Ê-đôm và những gì thuộc về người vì Rương Giao Ước của CHÚA ở đó.” Vậy Đa-vít xuống rước Rương từ nhà Ô-bết Ê-đôm lên thành Đa-vít trong niềm hân hoan. 13 Khi những người mang Rương của CHÚA đi được sáu bước thì Đa-vít dâng một con bò đực và một con bò con mập làm sinh tế. 14 Rồi Đa-vít ra sức nhảy múa trước mặt CHÚA. Ông mặc một cái áo thánh ngắn.

15 Đa-vít và toàn dân Ít-ra-en reo mừng vui vẻ và thổi kèn khi họ rước Rương của CHÚA vào trong thành. 16 Khi Rương của CHÚA vào trong thành Đa-vít thì Mi-canh, con gái Sau-lơ, nhìn qua cửa sổ. Khi nàng thấy Đa-vít nhảy múa trước mặt CHÚA thì trong lòng khinh dể ông.

17 Đa-vít dựng một cái lều cho Rương của CHÚA, và dân Ít-ra-en đặt Rương ấy vào trong lều. Đa-vít dâng của lễ toàn thiêu và của lễ thân hữu trước mặt CHÚA.

18 Sau khi Đa-vít đã dâng của lễ toàn thiêu và của lễ thân hữu thì ông chúc phước cho dân chúng nhân danh CHÚA Toàn Năng. 19 Đa-vít cấp cho mỗi người đàn ông và đàn bà Ít-ra-en một ổ bánh, một bánh trái chà là, một bánh nho khô. Rồi mỗi người đi về nhà mình.

20 Đa-vít cũng về chúc phước cho những người trong gia đình mình nhưng Mi-canh con gái Sau-lơ ra đón ông và bảo, “Vua Ít-ra-en hôm nay hành động đẹp mặt lắm! Anh cởi quần áo trước mặt các nàng hầu của các sĩ quan anh như người thoát y không biết xấu hổ!”

21 Đa-vít bảo Mi-canh, “Anh làm điều đó trước mặt CHÚA. CHÚA chọn anh, không chọn cha em hay người nào trong nhà Sau-lơ. CHÚA bổ nhiệm anh cai trị trên Ít-ra-en cho nên anh sẽ còn reo vui trước mặt CHÚA. 22 Mất thêm danh dự nữa cũng không sao. Có thể theo ý em, anh sẽ xấu hổ thêm nhưng những nàng hầu mà em nói sẽ tôn trọng anh!”

23 Từ đó, Mi-canh, con gái Sau-lơ không có con nữa cho đến khi nàng chết.

Read full chapter

Đón rước Rương Giao Ước vào Giê-ru-sa-lem

15 Đa-vít cất nhiều nhà cho ông ở Giê-ru-sa-lem. Rồi ông chuẩn bị một nơi cho Rương của Thượng Đế, và dựng một lều cho Rương. Đa-vít dặn, “Chỉ có người Lê-vi mới được phép khiêng Rương của Thượng Đế thôi. CHÚA đã chọn họ khiêng Rương Ngài và phục vụ Ngài đời đời.”

Đa-vít triệu tập toàn dân Ít-ra-en đến Giê-ru-sa-lem. Ông muốn mang Rương của CHÚA vào nơi ông đã chuẩn bị. Đa-vít gọi tất cả con cháu A-rôn và người Lê-vi lại. Trong họ hàng Cô-hát có một trăm hai mươi người, đứng đầu là U-ri-ên. Có một trăm hai mươi người trong họ hàng Mê-ra-ri, đứng đầu là A-xai-gia. Trong họ hàng Ghẹt-sôn có một trăm ba mươi người, đứng đầu là Giô-ên. Có hai trăm người từ họ hàng Ê-li-xa-phan, đứng đầu là Sê-mai-gia. Trong họ hàng Hếp-rôn có tám mươi người, đứng đầu là Ê-li-ên. 10 Và trong họ hàng U-xi-ên có một trăm mười hai người, đứng đầu là Am-mi-na-đáp.

Đa-vít nói chuyện với các thầy tế lễ và người Lê-vi

11 Rồi Đa-vít mời các thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha cùng những người Lê-vi sau đây đến: U-ri-ên, A-sai-gia, Giô-ên, Sê-mai-gia, Ê-li-ên, và Am-mi-na-đáp. 12 Đa-vít bảo họ, “Các anh em là gia trưởng của người Lê-vi. Các anh em và những người Lê-vi khác phải sẵn sàng phục vụ CHÚA [a]. Hãy mang Rương của CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, đến nơi ta đã chuẩn bị sẵn. 13 Lần trước chúng ta không hỏi ý CHÚA xem phải khiêng Rương của Ngài ra sao. Các ngươi là người Lê-vi không khiêng Rương đó cho nên CHÚA là Thượng Đế đã trừng phạt chúng ta.”

14 Sau đó các thầy tế lễ và người Lê-vi dọn mình sẵn sàng phục vụ CHÚA để có thể khiêng Rương của CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 15 Người Lê-vi dùng các đòn đặc biệt để khiêng Rương của Thượng Đế lên vai theo như Mô-se truyền dặn, và theo như điều CHÚA dặn bảo.

Các ca sĩ

16 Đa-vít bảo các lãnh tụ người Lê-vi chỉ định các anh em mình vào nhiệm vụ ca hát, chơi đờn sắt, đờn cầm, trống cơm và hát những bài ca vui.

17 Người Lê-vi liền chỉ định Hê-man và các thân quyến ông như A-sáp và Ê-than. Hê-man là con trai Giô-ên. A-sáp là con trai Bê-rê-kia. Còn Ê-than, thuộc họ Mê-ra-ri, là con của Cu-sai-gia. 18 Ngoài ra cũng có toán người Lê-vi thứ nhì gồm: Xa-cha-ri, Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Bê-nai-gia, Ma-a-xê-gia, Mát-ti-thia, Ê-li-phê-lê-hu, Mích-nê-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên. Những người nầy thuộc toán phòng vệ người Lê-vi.

19 Các ca sĩ Hê-man, A-sáp, và Ê-than chơi trống cơm bằng đồng. 20 Xa-cha-ri, Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Ma-a-sê-gia, và Bê-nai-gia chơi đờn cầm [b] loại lớn. 21 Mát-ti-thia, Ê-li-phê-lê-hu, Mích-nê-gia, Ô-bết Ê-đôm, Giê-i-ên, và A-xa-xia chơi đờn sắt loại nhỏ. 22 Kê-na-nia, lãnh tụ người Lê-vi chịu trách nhiệm về việc xướng hát vì ông có tài trong việc đó.

23 Bê-rê-kia và Ên-ca-na là hai người canh gác Rương Giao Ước. 24 Các thầy tế lễ Sê-ba-nia, Giô-xa-phát, Nê-tha-nên, A-ma-xai, Xa-cha-ri, Bê-nai-gia, và Ê-li-ê-xe có nhiệm vụ thổi kèn trước Rương của Thượng Đế. Ô-bết Ê-đôm và Giê-hi-a cũng lo nhiệm vụ canh gác Rương.

25 Đa-vít, các lãnh tụ của Ít-ra-en, và những viên chỉ huy hàng ngàn quân [c] đi rước Rương Giao Ước của CHÚA. Họ hớn hở vô cùng khi đồng mang Rương từ nhà Ô-bết Ê-đôm về. 26 Vì Thượng Đế giúp đỡ những người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước của CHÚA nên họ dâng bảy con bò đực và bảy con chiên đực. 27 Tất cả những người Lê-vi khiêng Rương, và Kê-na-nia, người lo việc xướng hát, và các ca sĩ đều mặc áo dài bằng vải gai mịn. Đa-vít cũng mặc một áo dài bằng vải gai mịn và một áo ngắn thánh cũng bằng vải gai mịn.

28 Vậy tất cả dân Ít-ra-en rước Rương Giao Ước của CHÚA. Họ reo hò, thổi tù và cùng với kèn, đánh trống cơm, đờn sắt, và đờn cầm.

29 Khi Rương Giao Ước của CHÚA đi vào Giê-ru-sa-lem thì Mi-canh, con gái Sau-lơ nhìn qua cửa sổ. Nàng thấy vua Đa-vít nhảy múa vui mừng thì đâm ra khinh dể ông.

16 Họ mang Rương của Thượng Đế và đặt bên trong lều mà Đa-vít đã dựng sẵn. Sau đó họ dâng của lễ thiêu, của lễ thân hữu cho Thượng Đế. Sau khi Đa-vít đã dâng các của lễ thiêu và thân hữu xong thì ông nhân danh CHÚA chúc phước cho dân chúng. Ông phát cho mỗi một người đàn ông, đàn bà Ít-ra-en một ổ bánh, trái chà là, và nho khô.

Rồi Đa-vít chỉ định một số người Lê-vi phục vụ trước Rương của CHÚA. Họ có nhiệm vụ hướng dẫn việc thờ phụng, cảm tạ, và ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. A-sáp, người chơi chập chỏa, hướng dẫn. Phụ tá ông có Xa-cha-ri. Các người Lê-vi khác là Gia-a-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Mát-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-nai-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên. Họ chơi đờn sắt và đờn cầm. Bê-nai-gia và Gia-ha-xi-ên là các thầy tế lễ thổi kèn thường xuyên trước Rương Giao Ước với Thượng Đế. Ngày đó là lần đầu tiên Đa-vít giao cho A-sáp và thân quyến ông nhiệm vụ hát xướng ca ngợi CHÚA.

Bài ca cảm tạ của Đa-vít

Hãy cảm tạ CHÚA và cầu khẩn cùng Ngài.
    Hãy thuật cho các dân những việc Ngài làm.
Hãy hát xướng cho Ngài,
    chúc tụng danh Ngài.
    Hãy thuật lại những phép lạ Ngài.
10 Hãy hớn hở vì các ngươi thuộc về Ngài;
    những ai tìm kiếm CHÚA hãy vui mừng.
11 Hãy nhờ cậy CHÚA và năng lực Ngài;
    hãy luôn luôn xin CHÚA giúp đỡ.
12 Hãy nhớ lại những phép lạ Ngài đã làm,
    những việc diệu kỳ,
    và những quyết định của Ngài.
13 Hỡi Ít-ra-en, các ngươi là dòng dõi của tôi tớ Ngài;
    các ngươi là con cháu Gia-cốp, dân được chọn lựa của Ngài.

14 Ngài là CHÚA và là Thượng Đế chúng ta.
    Luật pháp Ngài dành cho cả thế gian.
15 Ngài sẽ giữ giao ước Ngài đời đời;
    Ngài sẽ luôn luôn giữ lời hứa mình.
16 Ngài sẽ giữ giao ước đã lập với Áp-ra-ham
    và lời hứa Ngài cùng Y-sác.
17 Ngài biến nó thành luật lệ cho dân cư Gia-cốp;
    Ngài biến nó thành giao ước với Ít-ra-en đời đời.

18 Ngài phán, “Ta sẽ ban đất Ca-na-an cho các ngươi,
    để làm tài sản ngươi.”
19 Lúc đó dân của Thượng Đế hãy còn ít ỏi,
    họ sống như người xa lạ trong xứ.
20 Họ lưu lạc từ dân nầy đến dân khác,
    từ nước nầy đến nước nọ.
21 Nhưng Ngài không cho ai làm hại họ;
    Ngài cảnh cáo các vua không được đụng đến họ.

22 Ngài dặn, “Không được đụng đến dân tuyển chọn của ta,
    không được làm hại các nhà tiên tri ta.”
23 Hỡi cả trái đất, hãy hát xướng cho CHÚA.
    Mỗi ngày hãy thuật lại ơn cứu của Ngài.
24 Hãy thuật cho các dân về vinh hiển Ngài;
    Hãy cho mọi người biết các phép lạ Ngài làm.
25 CHÚA rất cao cả, đáng được ca ngợi.
    Ngài đáng được tôn kính hơn tất cả các thần.
26 Tất cả thần của các dân chỉ là hình tượng,
    nhưng CHÚA tạo ra các bầu trời.
27 Ngài đầy vinh hiển và oai nghi;
    Ngài có uy quyền và niềm vui trong đền thờ Ngài.
28 Hỡi các dân trên đất hãy ca ngợi CHÚA.
    Hãy ca ngợi vinh hiển và quyền năng Ngài.
29 Hãy ca ngợi vinh hiển của danh Ngài.
    Hãy mang của lễ mà đến cùng Ngài.
    Hãy thờ kính CHÚA trong trang phục thánh [d].
30 Hỡi mọi người trên đất hãy run sợ trước mặt Ngài.
    Trái đất đã được đặt để,
    nó không thể dời đi nơi khác.
31 Trời hãy vui mừng, và đất hãy hớn hở.
    Dân chúng các nơi hãy nói, “CHÚA là vua!”
32 Biển và mọi loài trong đó hãy la lớn,
    đồng ruộng và mọi thứ trong đó hãy vui mừng.
33 Các cây cối trong rừng sẽ reo vui trước mặt CHÚA.
    Chúng sẽ hát mừng vì Ngài đến để phân xử thế gian.
34 Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài nhân từ.
    Tình yêu Ngài còn đến đời đời.
35 Hãy thưa cùng Ngài,
    “Lạy Thượng Đế là Đấng Cứu Chuộc chúng tôi,
    xin hãy giải cứu chúng tôi,
    mang chúng tôi trở về và cứu chúng tôi từ các nước khác.
Thì chúng tôi sẽ cảm tạ Ngài và hết lòng ca ngợi Ngài.”
36 Hãy ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en.
    Ngài hằng hữu từ ngàn xưa cho đến mãi mãi.

Toàn dân đều nói “A-men” và ca ngợi CHÚA.

37 Sau đó Đa-vít để A-sáp và các người Lê-vi khác đứng trước mặt Rương Giao Ước với CHÚA. Họ ở đó để phục vụ công tác mỗi ngày. 38 Đa-vít cũng để Ô-bết Ê-đôm và sáu mươi tám người Lê-vi phục vụ chung với họ. Hô-sa và Ô-bết Ê-đôm, con Giê-đu-thun lo nhiệm vụ canh gác.

39 Đa-vít để thầy tế lễ Xa-đốc và các thầy tế lễ khác phục vụ cùng ông trước Lều của CHÚA [e] ở nơi thờ phụng tại Ghi-bê-ôn. 40 Mỗi sáng và chiều họ dâng của lễ thiêu trên bàn thờ theo đúng các qui tắc trong Lời Giáo Huấn của CHÚA đã được ban cho dân Ít-ra-en. 41 Cùng với họ có Hê-man và Giê-đu-thun cùng các người Lê-vi khác. Họ được chọn đích danh để ca ngợi CHÚA chẳng hạn như hát khúc Ca tụng CHÚA vì tình yêu Ngài còn đời đời [f]. 42 Hê-man và Giê-đu-thun cũng có nhiệm vụ thổi kèn, đánh chập chỏa và chơi các nhạc cụ khác khi người ta hát lên cho Thượng Đế. Các con trai Giê-đu-thun lo nhiệm vụ gác cửa.

43 Rồi tất cả dân chúng ra về. Mọi người đều trở về nhà. Đa-vít cũng về nhà chúc phước cho các người trong gia đình mình.

Footnotes

  1. I Sử Ký 15:12 sẵn sàng phục vụ CHÚA Nghĩa là “hãy dọn mình ra thánh.” Xem câu 14.
  2. I Sử Ký 15:20 đờn cầm, đờn sắt Nguyên văn, “a-la-mốt” và “sê-mi-nít.” Rất có thể là hai loại nhạc khí khác nhau hoặc hai nhóm khác nhau mà ban nhạc dùng để chơi trong đền thờ.
  3. I Sử Ký 15:25 viên chỉ huy hàng ngàn quân Hay “các tướng lãnh.”
  4. I Sử Ký 16:29 trang phục thánh Hay “trong vinh hiển thánh của Ngài.”
  5. I Sử Ký 16:39 Lều của CHÚA Hay “Lều Tạm.” Còn gọi là “Lều Họp.” Dân chúng đi vào lều nầy để ra mắt Chúa. Họ sử dụng lều ấy cho đến khi Sô-lô-môn xây đền thờ tại Giê-ru-sa-lem.
  6. I Sử Ký 16:41 Ca tụng CHÚA … đời đời Xem II Sử 7:6; Thi 118 và 136.